Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực trạng pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế và xử lí vi phạm pháp luật về thuế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.89 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
- Nêu vấn đề.
- Tầm quan trọng của việc nghiên cứu kiểm tra, thanh tra và xử lí vi phạm
pháp luật về thuế.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Những vấn đề lí luận về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lí vi phạm
pháp luật thuế.
1. Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế.
1.1. Thanh tra thuế.
1.2. Kiểm tra thuế.
1.3. Đặc điểm của thanh tra, kiểm tra thuế.
2. Pháp luật về xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế.
2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về thuế.
2.2. Phân loại vi phạm pháp luật thuế.
2.3. Các biện pháp chế tài xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế.
II. Thực trạng pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế và xử lí vi phạm
pháp luật về thuế ở nước ta hiện nay
1. Những kết quả đạt được.
2.1. Về công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
2..2. Về việc xử lí vi phạm pháp luật thuế.
2. Một số hạn chế.
III. Những giải pháp hoàn thiện việc thanh tra, kiểm tra thuế và xử lí vi
phạm pháp luật thuế.
C. KẾT LUẬN CHUNG.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1


A.ĐẶT VẤN ĐỀ.


Thuế là một trong những cơ sở kinh tế xã hội rất quan trọng của Đảng và
Nhà nước ta. Thuế là công cụ để Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh
doanh phát triển, giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội của đất nước, để điều
tiết một phần tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà
nước nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu chung cho xã hội. Thuế còn góp phần
đảm bảo công bằng xã hội và hội nhập quốc tế. Với những vai trò như vậy
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác quản lí thuế khi thực hiện
cơ chế tự khai, tự nộp thuế với một trong những nội dung trọng tâm là công
tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật về thuế. Những việc làm
này có vai trò qun trọng, là chức năng thiết yếu của quản lí Nhà nước nói
chung và trong lĩnh vực thuế nói riêng. Vì vậy, trong bài viết này em sẽ đi
sâu phân tích về những đặc điểm, thực trạng áp dụng và một số phương
hướng hoàn thiện việc kiểm tra, thanh tra thuế và xử lí vi phạm pháp luật
thuế ở nước ta hiện nay.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Những vấn đề lí luận về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lí vi phạm pháp
luật thuế.
1. Khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế.
1.1. Thanh tra thuế.
Thanh tra thuế là kiểm tra đối tượng nộp thuế ở mức độ cao hơn, toàn
diện hơn. Thanh tra thuế được thực hiện định kì đối với người nộp thuế lớn,
ngành nghề kinh doanh đa dạng, quy mô lớn và phức tạp hoặc đối với người
nộp thuế có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế và thanh tra để giải quyết các
khiếu nại, tố cáo về thuế hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ qaun quản lí
thuế các cấp hoặc bộ trưởng bộ tài chính.
Từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra các đặc điểm của thanh tra thuế
như sau:
- Gắn liền với quản lí Nhà nước:


2


Với tư cách là một chức năng, một giai đoạn của chu trình quản lí Nhà
nước, thanh tra gắn liền với quản lí nhà nước. Trong mối quan hệ giữa thanh
lí và thanh tra thì quản lí nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động
của thanh tra. Mặt khác, hoạt đọng chấp hành của quản lí nhà nước thường
bao hàm cả sự điều hành cho nên trong quá trình thực hiện các văn bản pháp
luật đòi hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của cơ quan có thẩm quyền.
- Luôn mang tính quyền lực nhà nước:
Thanh tra thuế có mối liên hệ chặt chẽ với tính quyền uy – phục tùng của
quản lí Nhà nước. Là một chức năng của quản lí nhà nước, thanh tra phải thể
hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản
lí với đối tượng quản lí. Nói tóm lại chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là
Nhà nước. Tính quyền lực của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ các cơ
quan thanh tra nhà nước đều có quyền hạn được xác định và khả năng thực
hiện những quyền hạn đó như: ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với
các đối tượng bị thanhh tra trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị thanh
tra phát hiện, yêu cầu có thẫm quyền giả quyết đề nghị của thanh tra….
- Thanh tra có tính độc lập tương đối:
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm này
phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy
quản lí nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ
quan quản lí nhà nước tiến hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành
bởi một cơ quan chuyên trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan
quản lí nhà nước khác, các cơ quan thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem
xét, đánh giá một cách khách quan “ việc thực hiện chính sách, pháp luật,
nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân”. Tính
độc lập tương đối trong quá trình thanh tra được thể hiện ở các đặc điểm sau:
chỉ tuân theo pháp luật, tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh

vực quản lí theo thẫm quyền đã được pháp luật quy định, ra các kết luận,
kiến nghị quyết định xử lí theo các quy định của pháp luật về thanh tra; chịu
trách nhiệm về quyết định thanh tra cỉa mình.
1.2. Kiểm tra thuế.
Theo từ điển tiếng Việt thì “ kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để
đánh giá, nhận xét”. Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động

3


kiểm tra đa dạng hơn thanh tra rất nhiều. chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là
nhà nước hoặc cũng có thể là một chủ thể phi nhà nước; chẳng hạn như hoạt
động kiểm tra của một tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội.
Tuy nhiên giữa kiểm tra và thanh tra có một màng giao thoa về chủ thể,
đó là nhà nước. Nhà nước tiến hành cả hoạt động kiểm tra và thanh tra. Bởi
vì, kiểm tra và thanh tra đều là một chức năng chung của quản lí nhà nước,
là hoạt động mang tính “ phản hồi” của chu trình quản lí. Qua thanh tra,
kiểm tra người ta có thể đánh giá, phân tích về quá trình thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ đề ra.
* Điểm tương đồng và khác biệt của thanh tra thuế và kiểm tra thuế:
- Điểm tương đồng:
+Mục đích: cả thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều có mục đích chung là
nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lí vi phạm pháp luật thuế góp phần thúc đẩy
cá nhân, tổ chức hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình, hoàn thiện cơ chế quản
lí, tăng cường pháp chế, bảo vệ lợi ích của nhà nước , quyền và lợi ích của
công dân.
+ Cả thanh tra thuế và kiểm tra thuế đều phải xem xét hoạt động thực tế của
đối tượng chịu sự quản lí để từ đó phát hiện đánh giá thực trạng tình hình
một cách khách quan, chính xác, trung thực, làm rõ đúng sai, chỉ rõ nguyên
nhân để có biện pháp khắc phục và xử lí sai phạm. Do đó giữa thanh tra thuế

và kiểm tra thuế có cùng nội dung hoặc phương pháp tiến hành trong phạm
vi công việc nhất định.
- Điểm khác biệt:
+ Về chủ thể:
. Chủ thể của thanh tra thuế phải là tổ chức thanh tra chuyên trách của nhà
nước trong lĩnh vực thuế, chỉ có tổ chức thanh tra thuế mới có quyền thực
hiện hoạt động thanh tra. Mặc dù trong hoạt động có thể sử dụng những cán
bộ ngoài ngành thanh tra tham gia nhưng điều quan trọng là người tiến hành
thanh tra phải có tư cách pháp lí do cơ quan có thẫm quyền quyết định để
khi cần thiết họ có thể sử dụng tối đa các quyền hạn của mình đối với các
đối tượng thanh tra.
. Chủ thể của kiểm tra rộng hơn bao gồm các cơ quan, bộ phận và công chức
quản lí thuế nhà nước.

4


+ Nội dung:
. Thanh tra thuế thường là những vấn đề phức tạp bao gồm những hành vi
thuộc về quá khứ. Hoạt động thanh tra là kiểm tra ở giai đoạn sau khi các
hoạt động khinh tế - xã hội phát sinh. Vì thế, hoạt động thanh tra phải giải
quyết các vấn đề tồn đọng trong quản lí, giải quyết các khiếu nại, tranh chấp
với khách thể kinh tế vi phạm pháp luật. Có thể khẳng định nội dung thanh
tra thường là những vấn đề phức tạp, có những vấn đề bộc lộ ra bề nổi, song
cũng rất nhiều vấn đề bị che đậy bởi những bề ngoài khác dễ gây nên những
nhận định khác nhau và khó nhận biết được bản chất. Để có kết luận chính
xác, những đánh giá đúng đắn các sự việc đòi hỏi phải có thời gian, có
nghiệp vụ thanh tra để kiểm tra, thu nhập các tài liệu cần thiết. Việc tiến
hành thanh tra thuế khi thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại
Điều 81 – Luật quản lí thuế.

. Kiểm tra thuế thường là những vấn đề trong hiện tại dễ nhận biết thực chất
của chúng hơn. Tất nhiên nội dung kiểm tra bao gồm những nội dung cụ thể
của kiểm tra trước trong và sau khi các hoạt đọng kinh tế - xã hội phát sinh,
cũng như việc kiểm tra thực hiện các chính sách pháp luật, chế độ quản lí
của nhà nước, nhưng chủ yếu là kiểm tra thường xuyên trong quá trình thực
hiện kế hoạch kinh tế, xã hội. Vì vậy khi kiểm tra cũng nhận biết được thực
chất của vấn đề mà không đòi hỏi có những nghiệp vụ phức tạp để xác minh
tài liệu, chứng cứ mà vẫn có thể đánh giá đúng đắn và có kết luận chính xác.
+ Phạm vi tiến hành:
. Kiểm tra thuế thường được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục với
nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra thích hợp với yêu cầu đặc điểm
của từng khách thể kiểm tra.
.Thanh tra thuế có phạm vi tiến hành hẹp hơn vì hoạt động thanh tra là kiểm
tra ở giai đoạn sau khi các hoạt động kinh tế - xã hội đã phát sinh. Điều đó
không có nghĩa là thanh tra chỉ bó hẹp ở giai đoạn sau.
+ Về thời gian:
. Hoạt động thanh tra thuế được tổ chức theo từng cuộc nên thời gian thường
kéo dài, theo quy định thời gian tối đa là 30 ngày và có thể kéo dài thêm 30
ngày trong trường hợp cần thiết.
. Hoạt động kiểm tra thuế thời gian ngắn hơn tối đa không quá 5 ngày.

5


+ Về hình thức tổ chức:
. Thanh tra thuế thường phải thành lập đoàn và đoàn thanh tra được thực
hiện trình tự, thủ tục thanh tra theo quy định.
. Kiểm tra thuế cũng có thể thành lập đoàn hoặc không thành lập đoàn, có
khi chỉ cần một người tiến hành hoạt động kiểm tra, cũng có thể cấp trên yêu
cầu cấp dưới tự kiểm tra một hoặc một số nội dung và báo cáo kết quả cho

cấp trên.
1.3. Đặc điểm của thanh tra, kiểm tra thuế.
- Chủ thể thanh tra, kiểm tra thuế được xác định là các cơ quan quản lí thuế.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 2, Luật quản lí thuế năm 2006 cơ quan
quản lí bao gồm:
+ Cơ quan quản lí thuế: tổng cục thuế, cục thuế, các chi cục thuế.
+ Cơ quan hải quan gồm: tổng cục hải quan, cục hải quan và các chi cục hải
quan.
- Nội dung thanh tra, kiểm tra thuế:
+ Thanh tra việc chấp hành luật, pháp lệnh, các chính sách thuế đối với mọi
đối tượng thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các luật thuế và việc thực hiện nghiệp
vụ quản lí thu thuế của cơ quan thuế các cấp, các viên chức ngành thuế.
+ Xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế của công dân và các tổ
chức kinh tế.
- Phương pháp thanh tra, kiểm tra: Đây cũng chính là đặc điểm đặc trưng
của thanh tra, kiểm tra thuế. Kiểm tra, thanh tra thuế là quá trình quan sát,
yêu cầu cung cấp thông tin, phân tích, xác minh để tìm kiếm sự bảo đảm hợp
lí các khoản, mục mà các đối tượng nộp thuế đã kê khai.
Như vậy, từ những phân tích trên chúng ta có thể rút ra được khái niệm
thanh tra, kiểm tra thuế là hoạt động của cơ quan quản lí thuế nhằm xác
minh những thông tin liên quan đến các nghĩa vụ thuế hoặc xác minh nội
dung cụ thể trong quan hệ pháp luật thuế. Để từ đó đánh giá mức độ chấp
hành pháp luật thuế của các chủ thể chịu sự quản lí của cơ quan quản lí
thuế, phát hiện và xử lí các vi phạm pháp luật thuế, đảm bảo lợi ích của nhà
nuocs, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức kinh tế.
2. Pháp luật về xử lí vi phạm trong lĩnh vực thuế.

6



2.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về thuế.
Trong khoa học pháp lí, vi phạm pháp luật thuế là hành vi làm trái các quy
định pháp luật về thuế, do tổ chức, cá nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, gây thiệt hại đến trật tự công cộng và phải chịu trách nhiệm pháp lí về
hành vi đó của mình. Nhìn một cách tổng thể, có thể nhận diện hành vi vi
phạm pháp luật thuế nhờ ở các dấu hiệu cơ bản sau:
- Về phương diện chủ thể, vi phạm pháp luật thuế là hành vi được thực hiện
bởi các chủ thể là tổ chức hoặc cá nhân có liên quan đến hoạt động hành thu
thuế như người nộp thuế, cơ quan thuế hoặc công chức ngành thuế. Sở dĩ
như vậy bởi vì, những chủ thể này thường được trao các thẫm quyền và
nghĩa vụ pháp lí nhất định khi tham gia vào quá trình hành thu thuế ( vì lợi
ích riêng của họ hoặc lợi ích chung) nhưng đã không thực hiện đúng thẫ
quyền, nghĩa vụ đó như đòi hỏi của pháp luật.
- Về phương diện khách quan, vi phạm pháp luật thuế là hành vi trái pháp
luật. Tính trái pháp luật của những hành vi này thể hiện ở chỗ, chúng không
chỉ vi phạm những quy tắc xử sự chung đã được thể hiện trong trật tự pháp
luật mà trong chừng mực nào đó, những hành vi này còn có thể gây phương
hại đến lợi ích chung hoặc lợi ích riêng đang được pháp luật bảo vệ.
- Về phương diện chủ quan, vi phạm pháp luật thuế bao giờ cũng phản ánh
mức độ lỗi ( cố ý hoặc vô ý) của người thực hiện. Tính chất có lỗi của người
thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thuế thể hiện ở chỗ, chủ thể của hành vi
hoàn toàn có khả năng tránh được sự vi phạm nhưng họ đã không tránh hoặc
cố ý thực hiện hành vi vi phạm vì một động cơ hay mục đích thúc đẩy.
- Về phương diện khách thể, hành vi vi phạm pháp luật thuế đã phương hại
đến nhũng lợi ích cụ thể được pháp luật bảo vệ. Những lợi ích này chỉ có thể
là lợi ích riêng của tổ chức, cá nhân hoặc lợi ích chung của toàn xã hội.
2.2. Phân loại vi phạm pháp luật thuế.
Trong thực tiễn pháp lí, các hành vi vi phạm pháp luật thuế diễn ra rất đa
dạng, tinh vi và phức tạp, với nhiều dạng thức khác nhau. Việc phân loại các

vi phạm pháp luật về thuế không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận mà còn có ý
nghĩa về mặt thực tiễn. Bao gồm các loại hình vi phạm chủ yếu sau:
- Vi phạm hành chính về thuế: có thể nhận diện các vi phạm hành chính về
thuế thông qua những đặc điểm cơ bản sau.

7


+ Đối tượng vi phạm của các hành vi vi phạm hành chính về thuế chính là
các quy phạm pháp luật hành chính về thuế. Các quy phạm pháp luật này
được thể hiện trong hầu hết các đạo luật về thuế hoặc pháp lệnh về thuế.
+ Loại trách nhiệm pháp lí áp dụng đối với những vi phạm loại này chỉ có
thể là trách nhiệm hành chính.
+ Việc tuyên bố một hành vi là vi phạm hành chính về thuế, vốn dĩ thuộc
thẫm quyền của cơ quan hành chính và các công chức hành chính có thẫm
quyền.
- Vi phạm hình sự về thuế: có thể phân biệt vi phạm hình sự về thuế với các
vi phạm pháp luật khác về thuế thông qua những đặc điểm cơ bản sau.
+ Đối tượng của hành vi vi phạm hình sự về thuế chính là các quy định có
liên quan đến lĩnh vực thuế được quy định trong BLHS và các văn bản
hướng dẫn thi hành BLHS.
+ Loại trách nhiệm pháp lí duy nhất áp dụng cho các hành vi vi phạm hình
sự về thuế là trách nhiệm hình sự mà biểu hiện cụ thể của trách nhiệm hình
sự là việc áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội.
+ Vi phạm hình sự về thuế là hành vi có mức độ nguy hiểm cao cho xã hội,
cần được xử lí nghiêm khắc bằng hình luật.
+ Việc tuyên bố một hành vi vi phạm hình sự về thuế là tội phạm, thuộc
thẩm quyền của tòa án.
- Các vi phạm khác về thuế.
2.3. Các biện pháp chế tài xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế.

- Chế tài hành chính.
- Chế tài hình sự.
II. Thực trạng pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế và xử lí vi phạm
pháp luật về thuế ở nước ta hiện nay.
1. Những kết quả đạt được.
Ở nước ta, trước khi luật quản lí thuế được ban hành, tình trạng gian lận,
trốn lậu thuế, chiếm đoạt tiền thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều loại
thuế và nhiều địa phương trong cả nước. Tình trạng đó có nhiều nguyên
nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là công tác thanh tra, kiểm tra và
xử lí vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan quản lí thuế chưa được coi trọng
đúng mức, tính hiệu lực, hiệu quả còn nhiều hạn chế. Từ khi luật quản lí

8


thuế được ban hành ( ngày 29/11/2006) đã tạo cơ sở pháp lí cho việc đổi
mới, hiện đại hóa toàn diện công tác quản lí thuế, trong đó có công tác thanh
tra, kiểm tra thuế và xử lí vi phạm pháp luật về thuế được coi trọng .
1.1. Về công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
Trên thực tế, trong mấy năm gần đây, đặc biệt là khi luật quản lí thuế có
hiệu lực thi hành thì công tác thanh tra, kiểm tra đã đạt được những bước
phát triển nhất định. Cụ thể: cơ quan thuế các cấp đã tiến hành áp dụng rộng
rãi kĩ thuật quản lí rủi ro trong thanh tra, kiểm tra thuế với việc tăng cường
thu nhập thông tin về người nộp thuế để lựa chọn đối tượng trước khi tiến
hành thanh tra. Theo đó, cơ quan thuế căn cứ trên cơ sở dữ liệu thông tin về
người nộp thuế từ các nguồn thông tin khác nhau để phân tích lựa chọn đối
tượng thanh tra, kiểm tra. Vì vậy, việc thanh tra có tập trung, có trọng điểm
chọn đúng đối tượng thanh tra, kiểm tra, tránh gây mất thời gian, tiết kiệm
được chi phí của cả cơ quan thuế và người nộp thuế, đem lại số trưng thu
lớn. Trong 9 tháng đầu năm 2006 toàn ngành thuế đã thanh tra, kiểm tra

được hơn 63.000 đối tượng, số thuế ghi thu qua kiểm tra là 2905 tỉ đồng. So
với cùng kì năm 2005 số đơn vị được thanh tra, kiểm tra giảm 10% trong khi
số thuế trung thu tăng 169%, qua đó cho thấy mặc dù số đợt tiến hành thanh
tra, kiểm tra của cơ quan thuế đã giảm nhưng kết quả thu được tăng lên
( Báo cáo tổng kết công tác quản lí thuế 10 năm từ 1995 – 2005, Bộ tài
chính).
Năm 2007 ngành thuế đã kiểm tra được 32304 cơ sở kinh doanh, phát
hiện và trung thu 3776,5 tỷ đồng trong đó số thuế trốn lậu được phát hiện
trung thu qua kiểm tra là 3096 tỷ đồng, số thuế nợ đọng là 680,4 tỷ đồng.
Như vậy, số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra ngày càng được giảm bớt
nhưnng nhờ các quy định trong việc tiến hành kiểm tra tại cơ quan thuế và
nâng cao hiệu quả kiểm tra tại trụ sở kinh doanh mà ngành thuế đã phát hiện
và trung thu được số thuế trốn lậu không nhỏ, góp phần chống thất thu ngân
sách nhà nước và cảnh báo cho đói tượng nộp thuế về tính hiệu quả trong
việc phát hiện gian lận của cơ quan thuế.
Cũng trong năm 2007 đã kiểm tra trước hoàn thuế tại 2869 đơn vị và số
thuế mà doanh nghiệp đề nghị hoàn là 1909,5 tỷ đồng. Qua kiểm tra đã phát
hiện số thuế không đủ điều kiện hoàn thuế loại trừ 77,3 tỷ đồng, kiểm tra sau

9


hoàn thuế tại 4114 đơn vị thu hồi về cho NSNN 17,7 tỷ đồng ( http:
www.gdt.gow.vn). Với kết quả thu được nêu trên đã chứng tỏ công tác thanh
tra, kiểm tra đúng đối tượng, phát hiện và xử lí kịp thời các trường hợp vi
phạm, qua đó chấn chỉnh thái độ chấp hành pháp luật thuế của người nộp
thuế, đảm bảo cho pháp luật thuế được thực thi nghiêm túc hơn.
Ngoài ra còn một số kết quả nữa cần phải nhắc tới đó là công tác kiểm tra
nội bộ với mục tiêu 100% các đơn vị được cơ quan cấp trên kiểm tra hoặc tự
kiểm tra nội bộ gắn liền với công tác chống tham nhũng. Trong đó nội dung

kiểm tra tập trung chủ yếu vào các vấn đề như: thực hiện quy trình nghiệp vụ
phát hiện, quản lí sử dụng biên lai, hóa đơn, quy trình thanh tra, kiểm tra,
quyết toán thuế tại cơ sở kinh doanh….Chỉ tính riêng năm 2005 toàn ngành
thuế đã tiến hành thanh tra, kiểm tra nội bộ 661 đơn vị, qua đó phát hiện và
xử lí kỉ luật 96 trường hợp cán bộ vi phạm thu hồi 6900 triệu đồng. Qua đó
kiểm tra, thanh tra đã kịp thời phát hiện và xử lí những trường hợp vi phạm
quy trình quản lí, vi phạm kỉ luật ngành chống thất thu thuế ( tạp chí kiểm
toán)
1.2. Về việc xử lí vi phạm pháp luật thuế.
Trong những năm qua nhờ công tác thanh tra, kiểm tra thuế được chú
trọng nên các trường hợp trốn thuế, gian lận thuế đã giảm bớt. Song hành vi
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế ngày càng phức tạp hơn. Nhưng các
cơ quan quản lí thuế đã không ngừng tăng cường công tác quản lí và đã xử lí
nhiều trường hợp vi phạm.
Năm 2005 ngành thuế đã phát hiện 3784 doanh nghiệp, tổ chức kinh
doanh vi phạm pháp luật thuế. Trong đó đã xử lí hành chính 578 đơn vị, đình
chỉ hoạt động của 123 đơn vị thu về cho NSNN 53 tỷ đồng. Các hành vi vi
phạm này chủ yếu là trốn thuế, gian lận thuế, các cơ sở kinh doanh không
đúng với ngành nghề đã đăng kí nộp thuế ( http: www.gdt.gow.vn).
Đến năm 2009 số vụ vi phạm pháp luật về thuế đã giảm so với cùng kì
năm 2005 khoảng 15% nhưng tính chất của hành vi vi phạm lại tăng lên một
cách đáng kể. Trong đó có một số đơn vị bị xử lí hình sự về hành vi vi phạm
pháp luật thuế . Ngành thuế đã phát hiện 2508 đơn vị vi phạm pháp luật thuế
trong phạm vi cả nước, thu về cho ngân sách nhà nước 897 tỷ đồng. Xử lí
458 đơn vị bị đình chỉ hoạt động, 534 đơn vị bị xử phạt vi phạm hành chính

10


trong lĩnh vực thuế thu hồi cho nhà nước 135 tỷ đồng. Đặc biệt hơn, trong

năm 2009 đã 358 đơn vị bị xử lí hình sự về vi phạm pháp luật thuế, 160 cán
bộ bị đình chỉ thi hành và xử phạt hành chính thu hồi 890 triệu đồng ( tạp chí
kiểm toán).
Sau đây, em sẽ trình bày về những kết quả đạt được trong lĩnh vực thanh
tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật về thuế ở một số địa phương nhất
định:
* Thành phố Hồ Chí Minh:
Hiện nay tại thành phố có khoảng 35.000 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh và hàng trăm nghìn cửa hàng kinh doanh lớn, nhỏ thuộc mọi
thành phần kinh tế hoạt động. Do vậy việc thu đủ, thu đúng các nguồn thuế
và chống thất thu thuế luôn là nhiệm vụ trung tâm của các chi cục thuế, đọi
thuế quận, huyện, xã. Trong tháng 9 năm 2005 ngành thuế thành phố đi thực
hiện trên 3650 lượt thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế tại các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn. Kết quả phát hiện
hàng trăm vụ trốn thuế, gian lận thuế, vi phạm các quy định về luật thuế, các
đơn vị đã ra quyết định xử phạt trong thu thuế trên 961 tỷ đồng, xử lí hành
chính 230 đơn vị, đình chỉ 67 đơn vị.( website cục thuế thành phố Hồ Chí
Minh).
* Thành phố Hà Nội:
Hà Nội là một trong những thành phố có mật độ cơ sở kinh doanh cao
trong cả nước. Vì vậy, việc kiểm tra, thanh tra và xử lí vi phạm pháp luật về
thuế gặp nhiều khó khăn. Ngành thuế thành phố trong những năm qua luôn
nổ lực để hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp trốn thuế, gian lận thuế,
đem lại nguồn thu cho NSNN. Chỉ trong năm 2009, ngành thuế thành phố đã
đi thực hiện trên 7898 lượt thanh tra, kiểm tra. Trong đó đã xử lí vi phạm
hành chính 1334 doanh nghiệp, xử lí hình sự 678 đơn vị, đình chỉ hoạt động
854 đơn vị, thu về cho ngân sách thành phố 78 tỷ đồng. Hầu hết các vụ án
đem ra xử lí hình sự là những vụ vi phạm có số tiền thuế trốn rất lớn và tập
trung ở các doanh nghiệp có nguồn vốn lớn ( website cục thuế thành phố Hà
Nội).

2. Những hạn chế.

11


Mặc dù công tác thanh tra, kiểm tra thuế và xử lí vi phạm pháp luật về thuế
đã đạt được nhiều kết quả nhưng vẫn còn một số hạn chế nhất định:
2.1. Trong lĩnh vực thanh tra, kiểm tra thuế.
- Một thực tế không thể phủ nhận đó là vẫn còn tình trạng trùng lặp, chồng
chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với các doanh nghiêp
vẫn còn chiếm tỉ lệ cao ( 36,6%) và sự trùng lặp vẫn xảy ra nhiều nhất trong
lĩnh vực thuế. Qua thống kê 827 doanh nghiệp cho thấy 303 doanh nghiệp có
từ hai đoàn thanh tra trở lên “ thăm” trong cùng một năm với nội dung gần
giống nhau, 231 doanh nghiệp trong số 827 doanh nghiệp bị kiểm tra 2 lần
một năm trong lĩnh vực thuế. Hiện nay có quá nhiều cơ quan các cấp tiến
hành thanh tra dưới nhiều hình thức như: thanh tra, kiểm tra, phúc tra, kiểm
toán, kiểm soát việc tuân thủ pháp luật… Đặc biệt với các doanh nghiệp có
nguồn vốn lớn, nhiều lãi. Từ đó dẫn đến kết luận khong chính xác, hoặc
trùng lặp với các cuộc thanh tra trước. Các đoàn thanh tra sau lại phát hiện ra
sai phạm, tiêu cực nhưng đoàn thanh tra trước không chịu trách nhiệm về kết
luận của mình ( tạp chí tài chính năm 2007).
- Công tác thanh tra, kiểm tra thuế theo phương pháp mới dựa trên cơ sở dữ
liệu thông tin tổng hợp và kĩ thuật quản lí rủi ro còn hạn chế.
+ Từ khi chuyển sang phương pháp thanh tra, kiểm tra mới còn rất nhiều nơi
đặc biệt ở nơi cấp chi cục việc áp dụng phương pháp này còn rất lúng túng
do vậy kết quả còn rất hạn chế.
+ Thực tế hiện nay ở nước ta qua tìm hiểu cho thấy các cơ quan quản lí thuế,
cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế, yếu kém. Cụ thể là: lực
lượng cán bộ thanh tra hiện nay rất mỏng so với yêu cầu công việc trong khi
đó ở các nước khác số lượng cán bộ làm công tác thanh tra thường chiếm từ

25-30% tổng số cán bộ ngành thuế, còn ở Việt Nam con số này là 12%. Lực
lượng thanh tra thuế phải giải quyết rất nhiều khâu từ kiểm tra, thanh tra đối
tượng thuế, giải quyết đơn khiếu nại…nên không đáp ứng được yêu cầu khối
lượng công việc đặt ra. Mặt khác chất lượng cán bộ làm công tác còn nhiều
hạn chế, hầu hết đều là cán bộ ít kinh nghiệm quản lí lâu năm chuyển sang.
- Trình độ hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật của đại bộ phận nhân còn
hạn chế, chưa tạo dư luận xã hội lên án mạnh mẽ các hành vi trốn thuế, gian
lận thuế thậm chí nhiều trường hợp còn thờ ơ, gây khó khăn cho công tác

12


thanh tra, kiểm tra thuế. Đặc biệt với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa
hàng loạt các doang nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh ra đời thì tình
trạng gian lận thuế, vi phạm pháp luật thuế diễn ra ngày càng tinh vi hơn.
- Thực tiễn cho thấy sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan, đặc biệt là
cơ quan kho bạc Nhà nước, ngân hàng, cơ quan kế hoạch và đầu tư, cơ quan
quản lí đất đai, tổng cục thống kê và cơ quan khác còn nhiều hạn chế.
2.2. Trong lĩnh vực vi phạm pháp luật thuế.
- Việc phát hiện các hành vi trốn thuế, gian lận thuế của các cơ quan chức
năng để xử lí vi phạm pháp luật thuế còn nhiều bất cập như việc phát hiện
còn chậm, công tác xử lí rườm rà….
- Nhiều cán bộ xử lí vi phạm pháp luật thuế còn chưa thực sự khách quan,
trung thực trong công tác xử lí vi phạm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
- Ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp còn yếu kém, mặc dù
nhiều doanh nghiệp đã bị xử lí nhiều lần nhưng vẫn có tình vi phạm cho đến
khi cơ quan chức năng đình chỉ hoạt động.
- Còn rất nhiều doanh nghiệp vi phạm chưa được phát hiện, một số doanh
nghiệp đăng kí kinh doanh nhưng khong kinh doanh hoặc kinh doanh sai

ngành nghề đã đăng kí…gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước.
III. Những giải pháp hoàn thiện việc thanh tra, kiểm tra thuế và xử lí vi
phạm pháp luật thuế.
Thứ nhất, bổ sung các quy định về thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm
pháp luật thuế trong luật quản lí thuế năm 2006:
- Bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thuế,
công chức thuế gây ra. Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cần
phải bảo đảm đúng nội dung. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phải dựa vào các căn cứ sau:
+ Có hành vi trái pháp luật do lỗi của người thi hành công vụ gây ra.
+ Có thiệt hại thực tế do người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt
hại.
+ Có quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại.
- Bổ sung thêm quy định về phối hợp điều tra thuế nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật về thuế. Kịp

13


thời phát hiện các hành vi vi phạm luật thuế có tính tổ chức, phức tạp và tinh
vi. Quy định về điều tra thuế nên theo hướng xác định điều tra thuế chỉ là
điều tra hành chính đồng thời với quy định về điều trathuees phải bổ sung
các quy định rõ về trách nhiệm của cơ quan thuế.
- Bổ sung quy định về quyết toán thuế: thời gian nào phải quyết toán thuế,
trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc quyết toán thuế.
- Bổ sung quy định về thanh tra đột xuất: tiến hành thanh tra đột xuất khi có
dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế hoặc giải quyết khiếu nại tố cáo.
Thứ hai, nhanh chóng ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra và xử lí vi
phạm pháp luật về thuế mới cho phù hợp với các quy định của luật quản lí
thuế thay thế cho quy định kiểm tra được ban hành theo quyết định QD

1166/2005.
Thứ ba, cần nhanh chóng ban hành các quy định hướng dẫn một cách cụ
thể về vấn đề kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các thông tin trong hồ sơ
thuế để tránh tình trạng cơ quan thuế và doanh nghiệp có các cách hiểu khác
nhau về trách nhiệm xác định tính đầy đủ và chính xác trong hồ sơ nộp thuế
của người nộp thuế.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định của luật, văn bản có liên quan như luật
cán bộ, công chức; pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính….
Thứ năm, cần tiến hành rà soát, đánh giá lại hiện trạng cong tác thanh tra,
kiểm tra, xử lí vi phạm về thuế trong thời gian vừa qua. Từ đó đánh giá kết
quả đạt được và những hạn chế.
Thứ sáu, rà soát sữa đổi. bổ sung quy trình thanh tra thuế theo cơ chế tự
khai, tự nộp thuế dựa trên các chuẩn mực quốc tế, trong đó bộ phận phân
tích thông tin, đánh giá rủi ro tách biệt với bộ phận thanh tra, kiểm tra tại cơ
sở.
Thứ bảy, xây dựng và thực hiện phân tích, đánh giá lựa chọn đối tượng
nộp thuế thanh tra áp dụng kĩ thuật quản lí rủi ro và kế hoạch thanh tra thuế
theo cơ chế quản lí tự khai, tự nộp thuế.
Thứ tám, phát triển các chương trình thanh tra đặc biệt theo chuyên
ngành và theo lĩnh vực nhằm hạn chế việc trốn thuế, gian lận thuế.
C. KẾT LUẬN CHUNG.

14


Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lí vi phạm pháp luật về thuế đóng vai
trò quan trọng trong quản lí thuế ở nước ta hiện nay. Bên cạnh những thành
tựu đạt được là một số bất cập cần được các cơ quan ngành thuế xem xét để
từ đó đưa ra được các giải pháp khắc phục. Nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất việc gian lận, trốn lậu thuế của các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế. Đồng

thời nâng cao ý thức trách nhiệm tự giác cho người dân. Đảm bảo công bằng
xã hội, thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế của đất nước.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Giáo trình luật thuế, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB – CAND, Năm
2009.
2. Vũ Văn Cương và Vũ Ngọc Hà: “ pháp luật về kiểm tra, thanh tra
thuế ở Việt Nam”, tạp chí luật học, số 4/2009.
3. Luật quản lí thuế năm 2006 và nghị định hướng dẫn thi hành.
4. http:// www.gdt.gov.vn
5. website cục thuế TP Hồ Chí Minh và cục thuế TP Hà Nội.
6. Nghị định số 98/2007/ND – CP NGÀY 07/06/2007 về xử lí vi phạm
pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
7. Tạp chí kiểm toán số 8/ 2007.
8. Tạp chí tài chính năm số 9/ 2008.

16



×