Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

CẤU THÀNH CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.45 KB, 12 trang )

1. KHÁI QUÁT VỀ TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG
Bảo vệ môi trường được nhận thức từ rất lâu trên thế giới, song vấn đề này được
tập trung giải quyết cả ở tầm quốc gia và quốc tế chủ yếu trong nửa sau thế kỷ XX.
Những hậu quả của việc tàn phá môi trường ảnh hưởng nghiêm trọng đến tự nhiên, xã hội
và con người, đặc biệt phải kể đến nạn sa mạc hóa; ô nhiễm đất, nước và không khí; hiệu
ứng nhà kính v.v. Đấu tranh với những hành vi tàn phá môi trường chưa thu được hiệu
quả cao, cùng với tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đặt ra nhiệm vụ hoàn thiện cơ
chế bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn. Trong giới hạn của quốc gia, một trong những
mắt xích chủ yếu của cơ chế này là chính sách hình sự đối với những hành vi xâm hại
môi trường.
Chính sách hình sự về bảo vệ môi trường của Việt Nam được cụ thể hóa thông qua
việc xây dựng những tội phạm về môi trường cụ thể. Chương XVII BLHS quy định đối
với 10 tội phạm về môi trường: tội gây ô nhiễm không khí (Điều182), tội gây ô nhiễm
nguồn nước (Điều183), tội gây ô nhiễm đất (Điều184), tội nhập khẩu công nghệ, máy
móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không đảm bảo tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
(Điều185), tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều186), tội làm lây lan dịch
bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều187), tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản
(Điều188), tội huỷ hoại rừng (Điều189), tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật
hoang dã quý hiếm (Điều190), tội vi phạm chế độ bảo vệ đặc biệt đối với khu bảo tồn
thiên nhiên (Điều191).
Những hành vi cấu thành tội phạm quy định trong Chương XVII BLHS là những
hành vi xâm hại đến môi trường có tính nguy hiểm xã hội cao. Điều này có nghĩa là,
không phải tất cả những hành vi xâm hại đến môi trường đều được quy định trong BLHS.
Những hành vi có tính nguy hiểm xã hội thấp hơn, chưa đến mức phải truy cứu trách
nhiệm hình sự sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác như áp dụng trách nhiệm hành
chính hay thông qua tuyên truyền, giáo dục. Với diễn biến phức tạp của đời sống xã hội,
những hành vi xâm hại đến môi trường sẽ được nghiên cứu thường xuyên giúp cho quá
trình hoàn thiện pháp luật hình sự về bảo vệ môi trường.
Khái niệm tội phạm về môi trường theo Giáo trình của trường ĐH Luật Hà Nội
cho rằng: “Các tội phạm về môi trường là các hành vi nguy hiểm cho xã hội vi phạm các
quy định của Nhà nước về môi trường, qua đó gây thiệt hại cho môi trường”. Khái niệm


này có ưu điểm là rất ngắn gọn, tuy nhiên cũng còn có vài điểm cần bàn thêm:
Hệ thống các tội phạm về môi trường theo nghĩa thuần tuý trong BLHS không hề tồn tại.
Nhận định này được minh chứng bằng việc những tội phạm khác, tuy không nằm trong

Page 1


chương tội phạm về môi trường, nhưng một phần cũng hướng tới việc sử dụng hợp lý và
bảo vệ môi trường.
2. CẤU THÀNH CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG
Khái quát chung của tội phạm về môi trường nêu trong phần 1 giúp chúng ta xác định
phạm vi của loại tội phạm này, cũng như là cơ sở cho việc xây dựng các tội phạm cụ thể.
Để hiểu các tội phạm về môi trường rõ ràng và cụ thể hơn, đặc biệt nhằm áp dụng chính
xác các quy định tương ứng của BLHS trong cuộc sống, đòi hỏi phải nghiên cứu cấu
thành tội phạm thể hiện qua: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.
a. Khách thể của tội phạm về môi trường
Khách thể của loại tội phạm về môi trường là những quan hệ xã hội về giữ gìn môi
trường trong sạch, sử dụng hợp lý những tài nguyên của nó và đảm bảo an toàn môi
trường cho dân cư.
Để hiểu khách thể của tội phạm về môi trường cần làm rõ khái niệm “môi trường”. Khái
niệm này được đưa ra trong Luật Bảo vệ môi trường, theo đó “Môi trường bao gồm các
yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con
người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên
nhiên” (Khoản1 Điều1). Đặc biệt, Luật không chỉ xây dựng khái niệm về môi trường, mà
còn chỉ rõ những bộ phận cấu thành của môi trường. “Thành phần môi trường là các yếu
tố tạo thành môi trường: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi, rừng,
sông, hồ, biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản xuất, khu bảo tồn thiên
nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và các hình thái vật
chất khác” (Khoản1 Điều2).
Nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm về môi trường không giới hạn

trong một lĩnh vực nào, như trong hoạt động kinh tế chẳng hạn. Hậu quả của những hành
vi xâm hại môi trường gây ra không chỉ đối với hoạt động kinh tế, mà đối với toàn bộ
cuộc sống trên trái đất.
Trên cơ sở phân tích khách thể của loại tội phạm này, khách thể trực tiếp trong từng tội
phạm là những quan hệ xã hội cụ thể về bảo vệ và sử dụng hợp lý những bộ phận cấu
thành của môi trường, cũng như đảm bảo an toàn môi trường cho dân cư. Ví dụ, khách
thể của tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản là các quan hệ xã hội về bảo vệ và sử dụng hợp lý
những nguồn lợi thuỷ sản, tức các quan hệ về bảo vệ và sử dụng hợp lý sông, hồ, biển.
Đối tượng của tội phạm về môi trường chính là đối tượng của các hành vi xâm hại đến
môi trường. Đó là những bộ phận cấu thành của môi trường mà đã được liệt kê trong
Page 2


Khoản1 Điều2 Luật Bảo vệ môi trường. Những bộ phận này hình thành và tồn tại một
cách tự nhiên, hoặc có sự kết tinh của lao động con người nhưng vẫn tồn tại trong thiên
nhiên hoặc được đưa vào thiên nhiên để thực hiện chức năng sinh vật và những chức
năng tự nhiên khác. Chính bởi bản chất gắn với tự nhiên nên những thành phần cấu thành
môi trường có thể phân biệt được với những đối tượng tội phạm khác mà thường được
biết dưới dạng “hàng hoá” hay “tài sản”.
b. Mặt khách quan của tội phạm về môi trường
* Các tội phạm về môi trường có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không
hành động vi phạm các quy định của pháp luật về sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên,
giữ gìn và bảo vệ môi trường. Các hành vi tội phạm về môi trường rất đa dạng: gây ô
nhiễm môi trường, huỷ hoại tài nguyên môi trường, không thực hiện quy tắc bảo vệ môi
trường, gây dịch bệnh v.v. Những hành vi trong mặt khách quan của tội phạm về môi
trường là sự thể chế hoá trong lĩnh vực hình sự những hành vi bị nghiêm cấm quy định
trong Luật Bảo vệ môi trường tại điều 7 LBVMT: “ 1- Đốt phá rừng, khai thác khoáng
sản một cách bừa bãi gây huỷ hoại môi trường, làm mất cân bằng sinh thái; ….”
Đặc trưng của các tội phạm về môi trường quy định trong BLHS là thường sử
dụng kết cấu dẫn chiếu. Để xác định việc thực hiện tội phạm về môi trường thường phải

căn cứ vào việc xác định các hành vi vi phạm các quy tắc về sử dụng nguồn tài nguyên
thiên nhiên và bảo vệ môi trường, trong đó các quy tắc này được quy định trong những
văn bản chuyên ngành khác. Vì vậy, để có thể áp dụng chính xác BLHS đối với các tội
phạm về môi trường cần phải vận dụng chính xác các quy định của pháp luật Việt Nam
về bảo vệ môi trường.
* Tuyệt đại bộ phận tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất (9 trong số 10
tội: Điều182, Điều183, Điều184, Điều185, Điều186, Điều187, Điều188, Điều189,
Điều191 BLHS). Để khẳng định tội phạm hoàn thành cần chứng minh được những hành
vi vi phạm gây hậu quả cụ thể. Trong diễn biến xâm hại môi trường phức tạp và phổ biến
hiện nay, việc xây dựng các tội phạm về môi trường với cấu thành vật chất chưa phát huy
hết được vai trò của mình đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi trường. Những hành vi tàn
phá, huỷ hoại môi trường sống cần được ngăn chặn ngay từ đầu và có những biện pháp
chế tài kiên quyết. Đây là một trong số những điều kiện cơ bản để giữ vững sự tăng
trưởng ổn định về mặt kinh tế, đảm bảo chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện.
Việc nghiên cứu và sửa đổi các quy định của BLHS về bảo vệ môi trường thông qua việc
xử lý ngay từ khi thực hiện các hành vi vi phạm là hết sức cần thiết. Căn cứ để xử lý hình
sự các hành vi này không dựa vào đánh giá hậu quả mà có thể bằng việc xác định quy mô
vi phạm. Nói một cách ngắn gọn: nên thay đổi tính chất của cấu thành các tội phạm về
môi trường sang cấu thành hình thức là chủ yếu.
Page 3


Hậu quả trong các tội phạm về môi trường được quy định trong các cấu thành cơ bản là
“hậu quả nghiêm trọng”. Ngoài ra trong một số cấu thành với tình tiết tăng nặng sử dụng
thuật ngữ “hậu quả rất nghiêm trọng” hoặc “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Đây là
những tiêu chí mang tính chất tương đối, rất khó xác định chính xác vì phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau như: tính chất của hành vi, quy mô của hành vi, thiệt hại vật chất,
khả năng khắc phục những thiệt hại cho môi trường, v.v… Đặc biệt trong lĩnh vực môi
trường việc đánh giá mức độ của thiệt hại có những đặc thù riêng. Thật không hợp lý nếu
chỉ đơn giản áp dụng những quy định của pháp luật xác định tính chất nghiêm trọng, mà

được áp dụng cho các tội phạm khác như xâm phạm tài sản riêng công dân, cho các tội
phạm về môi trường. Để có thể áp dụng chính xác các quy định của BLHS đối với các tội
phạm về môi trường, cần có một sự hướng dẫn riêng cụ thể từ phía các cơ quan chức
năng của Nhà nước, nhất là Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi
trường, đối với các loại “hậu quả” quy định trong chương này.
Xác định các hành vi phạm tội về môi trường cũng cần chỉ rõ mối quan hệ nhân
quả giữa các hành vi vi phạm với những hậu quả xảy ra. Những thiệt hại về môi trường
phải phát sinh trực tiếp và chủ yếu từ chính các hành vi vi phạm.
Trên cơ sở xác định hậu quả của các hành vi vi phạm, có thể xác định tính chất
hoàn thành của tội phạm. Những tội phạm về môi trường có cấu thành vật chất được coi
là hoàn thành kể từ khi có những hậu quả tương ứng xảy ra.
* Tội phạm về môi trường với cấu thành hình thức. Đó là tội vi phạm các quy định
về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều190 BLHS). Để xác định tội phạm đã hoàn
thành, không cần thiết phải có hậu quả xảy ra. Thời điểm hoàn thành tội phạm được tính
từ thời điểm thực hiện hành vi liệt kê tại Điều190 như: đưa ra khỏi vùng dịch bệnh động
vật có khả năng truyền dịch bệnh cho người; săn bắn động vật hoang dã v.v.
* Cấu thành của phần lớn các tội phạm về môi trường đòi hỏi phải có dấu hiệu bắt
buộc về việc đã bị xử phạt hành chính (Điều182, Điều183, Điều184, Điều 185, Điều 187,
Điều 188, Điều 189, Điều 191 BLHS). Việc quy định dấu hiệu đã bị xử phạt vi phạm
hành chính trong các tội phạm về môi trường có một số vấn đề và nội dung cần lưu ý sau:
- Việc quy định dấu hiệu này trong các cấu thành tội phạm về môi trường nhằm
tăng cường trách nhiệm của các cá nhân đối với việc bảo vệ môi trường. Hành vi vi phạm
của những người đã bị xử phạt hành chính chứng tỏ tính hệ thống của sự vi phạm, sự kiên
cố của người vi phạm đối với những hành vi xâm hại môi trường, cũng như ý thức không
tốt về việc bảo vệ môi trường. Điều này nói lên tính nguy hiểm xã hội cao hơn, và vì vậy
những người đã bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường cần thiết phải
bị xử lý một cách kiên quyết thông qua các chế tài hình sự, kể cả trường hợp hành vi vi
Page 4



phạm lặp lại chưa dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như quy định trong BLHS, đối
với tất cả các tội phạm về môi trường (hiện nay mới hạn chế chỉ ở một số tội (Điều 187,
Điều 188, Điều 189).
- Quy định bắt buộc dấu hiệu đã bị xử lý phạt hành chính trong cấu thành cơ bản
của nhiều tội phạm về môi trường và không có trường hợp ngoại lệ dẫn đến tồn tại những
trường hợp không hợp lý cả về mặt lý luận lẫn thực tế. Đó là các điều: 182, 183, 184,
185. Nếu hành vi vi phạm thực hiện lần đầu nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì
không bị truy tố trách nhiệm hình sự vì chưa bị xử phạt hành chính lần nào. Không khó
khăn để khẳng định tính nguy hiểm xã hội đặc biệt cao trong các trường hợp nêu trên để
cần thiết áp dụng trách nhiệm hình sự, hơn nữa các trường hợp này không thể xử lý hành
chính vì vượt quá mức độ của vi phạm hành chính. Để giải quyết vấn đề này, BLHS Việt
Nam nên được sửa đổi theo hướng bổ sung vào cấu thành cơ bản của các tội phạm về môi
trường nêu trên, hành vi vi phạm lần đầu gây hậu quả ở mức độ nhất định nào đó. Kết cấu
rất thành công được các nhà Lập pháp của Việt Nam sử dụng trong các tội phạm về môi
trường khác: “gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính”, nên được áp
dụng cho tất cả các tội phạm về môi trường.
- Dấu hiệu về việc đã bị xử phạt hành chính trong các tội phạm về môi trường chỉ
có thể là cơ sở cho việc định tội cụ thể nếu như đó là việc xử phạt hành chính đối với
hành vi xâm hại môi trường cùng loại và chưa hêt thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt
hành chính. Nội dung của các điều trong BLHS phần các tội phạm về môi trường thể hiện
rất rõ kết luận này khi sử dụng hai kết cấu “đã bị xử phạt hành chính mà cố tình không
thực hiện các biện pháp khắc phục” hoặc “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này”. Tuy
nhiên cần nhận thức rằng môi trường là một thể thống nhất, các bộ phận của nó không thể
tồn tại độc lập với nhau và với môi trường nói chung. Ý thức bảo vệ môi trường không
thể chỉ đối với một bộ phận cấu thành nào đó của môi trường. Với lý do này, nên nâng
cao ý thức và trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ môi trường của mọi người thông qua việc
nâng cao khả năng xử lý bằng hình sự các hành vi xâm hại môi trường. Cụ thể, các điều
luật quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường có thể chỉ cần yêu
cầu dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính đối với hành vi xâm hại môi trường nói chung, mà
không nhất thiết phải là những hành vi cùng loại.

c. Chủ thể của tội phạm về môi trường
Chủ thể của các tội phạm về môi trường là tất cả những người từ đủ 16 tuổi trở lên và có
năng lực trách nhiệm hình sự. Hầu như các tác giả đều nhất trí với thành phần chủ thể của
các tội phạm về môi trường nêu trên. Tuy nhiên có thể nhận thấy tồn tại vấn đề chịu trách
nhiệm hình sự đối với tội phạm cụ thể về môi trường từ đủ 14.

Page 5


Tội phạm mà người thực hiện phải chịu trách nhiệm từ đủ 14 tuổi trong chương XVII là
tội huỷ hoại rừng với khung hình phạt đặc biệt tăng nặng (Khoản3 Điều 189). Theo
Khoản3 Điều 8 BLHS, tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 15 năm tù. Trong khi đó,
người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý. Khung hình phạt cao nhất của tội hủy hoại rừng quy định
tại Khoản3 Điều 189 đến 15 năm tù, đủ để liệt các tội này vào tội phạm rất nghiêm trọng.
Đồng thời, những tội phạm này được thực hiện do cố ý. Dễ dàng nhận thấy việc người
trên 14 tuổi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trong một số tội phạm về môi trường có chủ thể đặc biệt. Sự đặc biệt này thông
thường nhất gắn với việc giữ chức vụ hoặc có quyền hạn của người vi phạm:
- Đối với tội “nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất
không bảo đảm tiêu chuẩn bảo vệ môi trường” (Điều 185), người cho phép nhập khẩu
hiển nhiên là người giữ chức vụ hoặc có thẩm quyền theo pháp luật trong các cơ quan
Nhà nước. Ngoài những người kể trên, chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là những
người theo pháp luật có quyền kinh doanh hoạt động xuất, nhập khẩu. Theo Khoản1 Điều
8 Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 Quy định chi tiết thi hành
Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng
hoá với nước ngoài, thẩm quyền hoạt động xuất, nhập khẩu thuộc về các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế được thành lập theo quy đinh của pháp luật theo ngành nghề
đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đại diện cho các doanh nghiệp

này chính là những người giữ chức vụ hoặc có quyền theo Điều lệ của doanh nghiệp.
Trường hợp người không có thẩm quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu thực hiện hành vi
nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu
chuẩn bảo vệ môi trường, thì cần xử lý theo Điều 153 “Tội buôn lậu” hoặc Điều 159 “Tội
kinh doanh trái phép” tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế.
- Chịu trách nhiệm hình sự chỉ có thể là những người giữ chức vụ hoặc có quyền
theo quy định của pháp luật còn đối với các hành vi “cho phép đưa vào Việt Nam động
vật, thực vật hoặc sản phẩm động vật, thực vật bị nhiễm bệnh hoặc mang mầm bệnh nguy
hiểm có khả năng truyền cho người” (Điều 186) hoặc “cho phép đưa vào Việt Nam động
vật, thực vật, sản phẩm động vật, thực vật thuộc đối tượng kiểm dịch mà không thực hiện
các quy định của pháp luật về kiểm dịch” (Điều187).
Nhìn chung xác định chủ thể của các tội phạm về môi trường theo pháp luật Việt
Nam như vậy là hợp lý. Việc gìn giữ và bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mọi người.
Để có được ý thức đúng đắn về môi trường cần có sự giáo dục và tuyên truyền thường
xuyên. Những người chưa thành niên khả năng nhận thức còn có hạn, nhất là đối với một
Page 6


vấn đề phức tạp như môi trường. Biện pháp hữu hiệu để giải quyết mâu thuẫn này chính
là các biện pháp xã hội như: đưa vấn đề giáo dục môi trường vào nhà trường, phát triển
các hình thức tuyên truyền trong cộng đồng về môi trường v.v.
d. Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường
Trong quy định của BLHS tại các điều của tội phạm về môi trường không có một quy
định trực tiếp hoặc một quy định “ngụ ý” nào để có thể khẳng định người vi phạm phải
chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp có lỗi do vô ý. Hơn nữa phần lớn các trường
hợp chịu trách nhiệm hình sự sau khi đã từng bị xử phạt hành chính cho những hành vi vi
phạm cùng loại, nên càng có cơ sở để khẳng định mặt chủ quan của tội phạm về môi
trường được đặc trưng chỉ bằng lỗi cố ý. Trong các tài liệu khoa học pháp lý cũng thể
hiện quan điểm này.
Nghiên cứu các hành vi xâm hại môi trường có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Phá hoại môi trường là phá hoại chính điều kiện sống của con người, làm ảnh
hưởng trực tiếp đến cuộc sống của nhiều người. Với sự gia tăng của các hành vi phá hoại
này, nên coi các tội phạm này chủ yếu là các tội phạm rất nghiêm trọng để tương xứng
với tính nguy hiểm xã hội rất cao của nó.
- Với đặc thù của các hoạt động xâm hại đến môi trường, thiệt hại nhiều và lớn
nhất là do các tổ chức và doanh nghiệp gây ra trong quá trình sản xuất. Chính những
người giữ chức vụ không thực hiện hết trách nhiệm của mình, không có ý thức bảo vệ
môi trường và cẩu thả thực hiện công việc của mình gây thiệt hại cho môi trường, nhưng
họ lại khó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì hành vi vi phạm phải với lỗi cố ý.
- Trong các tài liệu pháp lý của nước ngoài phần đông ý kiến cho rằng: “phần lớn
các tội phạm về môi trường được thực hiện do lỗi vô ý”.
Từ sự nhận xét trên, có thể rút ra kết luận về việc mặt chủ quan của các tội phạm về môi
trường không nên chỉ được đặc trưng bằng lỗi cố ý. Khi bình luận về “tội vi phạm các
quy định về bảo vệ môi trường gây hậu quả nghiêm trọng” của BLHS, em cho rằng: “về
mặt chủ quan, tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc do vô ý”. Những hành vi do vô ý
gây hậu quả nặng nề cho môi trường cũng cần được nghiêm trị nhằm tăng cường hiệu
quả của thực tiễn bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Đồng thời việc chịu trách nhiệm hình
sự trong trường hợp có lỗi vô ý nên được quy định trực tiếp trong các tội phạm cụ thể.
Trong mặt chủ quan của tội phạm về môi trường, mục đích và động cơ hầu như
không có ý nghĩa để định tội. Tuy nhiên, cũng có tội có yêu cầu mục đích đối với một vài
hành vi riêng lẻ. Thực hiện tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (Điều 188) bằng hành vi sử
Page 7


dụng chất độc, chất nổ, các hoá chất khác, dòng điện hoặc các phương tiện, ngư cụ khác
bị cấm đòi hỏi phải có mục đích “khai thác thuỷ sản hoặc làm hủy hoại nguồn lợi thủy
sản” (Mục a Khoản1 Điều 188).
3. HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG
Trong việc thay đổi cách đánh giá tầm quan trọng của hoạt động bảo vệ môi
trường nói chung, các tội phạm về môi trường nói riêng, các nhà lập pháp của Việt Nam

đã thực hiện một cách đồng bộ việc sửa đổi khung hình phạt của các tội phạm về môi
trường. BLHS đánh giá 6/10 tội là rất nghiêm trọng, trong đó cá biệt có khung hình phạt
cao nhất đến 15 năm (Điều189) (xét khung hình phạt cao nhất của các tội). Số tội phạm
về môi trường còn lại đều được đưa vào danh mục các tội phạm nghiêm trọng. Bên cạnh
đó, tính nghiêm khắc của khung hình phạt còn được thể hiện qua hình phạt “phạt tiền”
với giá trị rất lớn (Đến hai trăm triệu đồng đối với tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản –
Điều188) và mỗi tội trong Chương tội phạm về môi trường còn có quy định riêng về hình
phạt bổ sung cũng hết sức nghiêm khắc. Hình phạt tiền bổ sung có thể tới một trăm triệu
đồng đối với tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều186). Ngoài ra, hầu
như tất cả các tội phạm về môi trường còn quy định hình phạt bổ sung, theo đó người
phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm.
Sự gia tăng đáng kể khung hình phạt đối với các tội phạm về môi trường một lần
nữa khẳng định quyết tâm của Việt Nam đấu tranh với các hành vi phá hoại môi trường,
đe doạ sự phát triển ổn định và thịnh vượng. Việc tăng cường áp dụng hình phạt tiền là
một quyết định đúng đắn phù hợp với đặc thù của loại tội phạm này. Thực hiện các biện
pháp cải thiện môi trường sống, phòng ngừa các thiệt hại về môi trường đòi hỏi những
khoản chi phí rất lớn. Hơn nữa, để khắc phục những thiệt hại về môi trường do các hành
vi phạm tội gây nên cũng đòi hỏi những khoản chi không nhỏ. Chính vì vậy, việc tăng
cường áp dụng hình phạt tiền với giá trị lớn là một biện pháp hữu hiệu bảo vệ môi trường
sống tại Việt Nam. Vấn đề quan trọng ở đây là xây dựng một cơ chế cụ thể và rõ ràng để
có thể sử dụng tiền phạt này vào đúng mục đích khắc phục thiệt hại và gìn giữ môi
trường.
4. NHỮNG HẠN CHẾ CẦN BỔ SUNG, SỬA ĐỔI
- Khả năng áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Trong mỗi điều luật của
Chương XVII “Các tội phạm về môi trường” có phần cuối cùng (thường là phần 3 hoặc
phần 4, gọi là phần cuối) quy định “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền”. Quy định
như vậy “không rõ ràng đó là hình phạt bổ sung”, sẽ khó đảm bảo được sự nhận thức
đúng đắn và thống nhất như ngụ ý của nhà làm luật.
Page 8



- Tương quan giữa mức phạt tiền đối với vi phạm hình sự và vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Nguyên tắc chung trong việc quy định trách nhiệm pháp lý là: “hành vi nào có
mức nguy hiểm xã hội cao hơn, thì tương ứng với nó, trách nhiệm pháp lý cũng cao hơn”.
Ngoài nguyên tắc chủ đạo này, còn cần thiết áp dụng nguyên tắc: nhiều yếu tố khác cũng
có thể ảnh hưởng đến việc quyết định mức độ trách nhiệm pháp lý như nhân thân người
vi phạm, lỗi của người bị vi phạm v.v. Trên cơ sở nguyên tắc này có thể rút ra nguyên tắc
chung sau: “Trách nhiệm pháp luật hình sự phải cao hơn trách nhiệm pháp luật hành
chính đối với hành vi vi phạm cùng loại”.
Có lẽ trên cơ sở nguyên tắc chung nêu trên, tính bất hợp lý của quy định về phạt
tiền đối với tội phạm về môi trường do mức phạt tiền này có thể thấp hơn giới hạn tối đa
của phạt tiền với tư cách là hình thức xử phạt hành chính. Nhận xét này hoàn toàn phù
hợp với nguyên tắc chung về trách nhiệm pháp lý.
Chúng ta biết rằng cá nhân thực hiện hành vi vi phạm thì việc nhận thức tính nguy
hiểm cho xã hội, việc hình thành động cơ, mục đích phạm tội, và sau đó là thực hiện chỉ
do chính bản thân cá nhân. Trường hợp có sự câu kết với những người khác thì mức độ
trách nhiệm pháp lý cao hơn. Trong khi đó, cơ chế ban hành một quyết định của tổ chức
mà có thể dẫn tới vi phạm pháp luật lại tương đối phức tạp, do người giữ chức vụ hoặc
trong phần lớn trường hợp được ban hành bởi một tập thể. Như vậy về bản chất của việc
vi phạm, cần coi hành vi vi phạm của tổ chức có mức độ nguy hiểm xã hội cao hơn. Ngay
từ thời kỳ phong kiến, Quan vi phạm thì xử phạt nặng hơn thứ dân vi phạm cùng hành vi
đó một bậc, đã trở thành một truyền thống. Đây là một tập quán tốt đẹp, nên không có lý
gì không áp dụng một cách sáng tạo vào pháp luật hiện đại. Hơn nữa, để quyết định của
tổ chức ban hành có trách nhiệm hơn, tổ chức nên chịu trách nhiệm cao hơn so với cá
nhân.
Ngoài ra nếu xét ý nghĩa của việc xử phạt đối với người vi phạm, mức độ tác động
của cùng một mức phạt tiền đối với cá nhân và tổ chức cũng khác nhau. Do quy mô tài
sản của tổ chức thông thường lớn hơn của cá nhân rất nhiều lần, nên mức phạt tiền tuy đã

gây khó khăn cho cá nhân, buộc họ phải có những biện pháp tự kiềm chế hành vi của
mình để không bị áp dụng biện pháp xử phạt, tức kiềm chế việc thực hiện các hành vi vi
phạm, nhưng đối với các tổ chức thì lại hoàn toàn không đáng kể. Như vậy, tổ chức có
thể vẫn không dừng việc vi phạm pháp luật hoặc vẫn sẽ cố ý vi phạm trong tương lai và
biện pháp xử phạt coi như chưa phát huy được tác dụng của mình
Tóm lại, nếu công nhận việc phân hoá xử phạt dành cho cá nhân và tổ chức theo
hướng áp dụng biện pháp xử phạt với mức độ cao hơn cho tổ chức đối với cùng một hành
Page 9


vi vi phạm, thì việc tổ chức chịu xử phạt hành chính với mức độ phạt tiền ngang với cá
nhân chịu phạt theo chế tài phạt hình sự là hoàn toàn có thể xảy ra.
- Một điều đáng chú ý khi nói về sự phân hoá xử phạt ở Việt Nam đó là việc các tổ
chức không thể trở thành chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Nếu tổ chức vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực môi trường đến mức xử phạt hình sự thì sẽ giải quyết như thế nào? Rõ
ràng khi đó cũng chỉ có thể áp dụng phạt hành chính, vậy trong trường hợp này áp dụng
mức phạt tiền theo chế tài hành chính quá mức tối thiểu quy định trong chế tài hình sự
phải chăng là biện pháp tối ưu nhất? Điều này cũng đồng nhất với việc xử phạt hành
chính với mức phạt tiền có thể cao hơn mức phạt tiền tối thiểu trong chế tài hình sự.
Tóm lại, từ sự phân tích trên có thể chấp nhận khả năng phạt tiền hành chính có
thể cao hơn phạt tiền hình sự cho các hành vi vi phạm pháp luật cùng loại, mà không nhất
thiết chỉ trong lĩnh vực môi trường. Để có thể áp dụng được luận điểm này cần thiết xây
dựng lý luận về trách nhiệm pháp lý của tổ chức. Đặc biệt, lý luận này cần được thể chế
hoá một cách cụ thể trong Luật Hành chính, cũng như Luật Hình sự, thành những nguyên
tắc và quy tắc áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm của tổ chức.
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong lĩnh vực môi trường ở Việt Nam chưa
nhiều, nói một cách tương đối thì mới được hai năm kể từ khi BLHS mới của Việt Nam
được thông qua với những quy định riêng. Với sự phát triển phức tạp của các hoạt động
kinh tế và xã hội, các tội phạm về môi trường sẽ diễn ra phức tạp hơn nên đòi hỏi việc
nghiên cứu phải thực hiện thường xuyên. Những vấn đề được nêu lên trong bài này mới

chỉ là những vấn đề chung và tương đối dễ nhận thấy trên bề mặt. Mặc dù vậy có thể
khẳng định việc giải quyết đúng đắn chúng là cơ sở cho việc áp dụng đúng đắn các quy
định của Pháp luật Hình trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là những quy định về tội
phạm môi trường cụ thể.

Page 10


Danh Mục Tài liệu Tham Khảo

1. Bộ luật hình sự năm 1999 (Chương 17); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật hình sự năm 2009;

2. Luật bảo vệ môi trường năm 2005

3. Vũ Thu Hạnh, “Xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trườngNhững điểm bất cập cần được nghiên cứu chỉnh sửa”, Tạp chí khoa học pháp lí,
số 1/2003.

4. Nguyễn Văn Phương, “Khái niệm phế liệu và bản chất pháp lí của khái niệm
phế liệu”, Tạp chí khoa học pháp lí, số 1/2007.
Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp trường: “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây nên”, tháng 5/2007.

Page 11


Phần

Trang


KHÁI QUÁT VỀ TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

1

CẤU THÀNH CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

2

Khách thể của tội phạm về môi trường

2

Mặt khách quan của tội phạm về môi trường

3

Chủ thể của tội phạm về môi trường

5

Mặt chủ quan của tội phạm về môi trường

7

HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MÔI TRƯỜNG

8

NHỮNG HẠN CHẾ CẦN BỔ SUNG, SỬA ĐỔI


8

Danh Mục Tài Liệu Tham khảo

11

Page 12



×