Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý chất thải ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.04 KB, 12 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi con người ngày càng phát triển thì cũng là lúc mà chúng ta
càng tác động nhiều đến môi trường, trong đó phần lớn là những tác động xấu.
Chính vì thế môi trường hiện nay đang trở thành một vấn đề nóng bỏng ở nhiều
quốc gia. Nguy cơ về môi trường cực kì nghiêm trọng ở các quốc gia đang phát
truển – nơi mà nhu cầu hàng ngày của con người và nhu cầu phát triển của xã
hội xung đột mạnh mẽ với sự cần thiết phải bảo về tài nguyên thiên nhiên cũng
như môi trường sống. Trong đó, Việt Nam của chúng ta chính là một trong
những nước đứng đầu trong hàng ngũ các quốc gia đang phát triển phải đối diện
với các nguy cơ về môi trường.
Bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong những chính sách quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta. Bằng những biện pháp và chính sách khác
nhau, Nhà nước ta đang can thiệp vào các hoạt động của cá nhân, tổ chức trong
xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc gây ô nhiễm, suy
thoái và sự cố môi trường. Trong những biện pháp mà nhà nước ta sử dụng
trong lĩnh vực này và cũng như trong tuyệt đại đa số các lĩnh vực khác trong đời
sống, pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sự xuất hiện và vai trò ngày
1


càng tăng của các quy định pháp luật về môi trường kể từ khi đất nước chuyển
sang nền kinh tế thị trường là biểu hiện rõ nét về sự cấp bách của vấn đề môi
trường.
Đi vào chi tiết hơn chúng ta có thể thấy rằng, một trong những vấn đề mà
Việt Nam đang phải đối mặt đó là vấn đề quản lý chất thải. Quản lý không tốt
vấn đề này, rất có thể Việt Nam sẽ trở thành bãi rác thải của thế giới.
B. NỘI DUNG
I.


Các khái niệm
1. Khái niệm về chất thải và phân loại chất thải

Chất thải là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong các hoạt động
kinh tế- xã hội, bao gồm các hoạt động sản xuất và hoạt động sống và duy trì sự tồn
tại của cộng đồng. Chất thải là sản phẩm được phát sinh trong quá trình sinh hoạt
của con người, sản xuất công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, thương mại, du lịch,
giao thông, sinh hoạt tại các gia đình, trường học, các khu dân cư, nhà hàng, khách
sạn.
Lượng chất thải phát sinh thay đổi do tác động của nhiều yếu tố như tăng trưởng
và phát triển sản xuất, sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và
sự phát triển điều kiện sống và trình độ dân trí.
Chất thải được phân loại phụ thuộc vào nhiều tiêu chí. Chẳng hạn, phân theo
dạng thì ta có chất thải dạng rắn (túi ni long, rác hữu cơ,…) dạng lỏng (nước
thải…) dạng khí (khói bụi, khí độc,…); theo nguồn phát sinh ta có chất thải sinh
hoạt (phát sinh trong qua trình hoạt động sống thường ngày của con người như túi
nilon, hộp đựng thức uống,….), chất thải công nghiệp (sinh ra trong quá trình sản
xuất và mỗi ngành nghề phát sinh những chất thải khác nhau như xi mạ có kim loại,
sản xuất xi măng có bụi đất đá ) và chất thải nông nghiệp (sinh ra trong quá trình
trồng trọt và chăn nuôi …).
2. Hoạt động quản lý chất thải

2


Quản lý chất thải là hoạt động của con người bao gồm thu gom, vận chuyển, lưu
trữ, tận dụng, xử lý và tiêu hủy chất thải.
II. Nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý chất thải ở Việt Nam
Với tư cách là phương tiện hàng đầu của quản lý nhà nước đối với chất thải,
pháp luật xác định địa vị pháp lý của các cá nhân, các tổ chức sản xuất kinh doanh

có liên quan đến lĩnh vực quản lý chất thải, tạo hành lang pháp lý để các chủ thể
này tham gia vào các quan hệ khai thác, sử dụng các thành phần môi trường. Cũng
thông qua pháp luật, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý tạo ra môi trường
thuận lợi, tin cậy và chính thức cho các hoạt động quản lý chất thải trong phạm vi
cả nước, kiểm soát chất thải ngay từ nguồn thải đồng thời thực hiện tốt các bước
trong quy trình quản lý chất thải như thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu trữ, xử lý
và tiêu hủy chất thải.


Quản lý chất thải nguy hại

Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã đưa ra một quy trình để triển khai và
thực hiện một cách lần lượt từ việc thu gom, lưu giữ, vận chuyển đến việc xử lý và
tiêu hủy chất thải nguy hại. Đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm của các chủ
thể liên quan đến chất thải nguy hại, từ các cơ quan quản lý nhà nước đến các tổ
chức, cá nhân:


Việc quản lý chất thải nguy hại phải được lập hồ sơ và đăng ký với cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường. Nếu các tổ chức, cá nhân có đủ
điều kiện về năng lực quản lý chất thải nguy hại thì được cơ quan quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường có thẩm quyền cấp giấy phép, mã số hoạt
động quản lý chất thải nguy hại.



Việc phân loại, thu gom, lưu giữ tạm thời chất thải nguy hại phải được tiến
hành theo hai cách: Tổ chức, cá nhân có hoạt động làm phát sinh chất thải
nguy hại phải tổ chức phân loại, thu gom hoặt hợp đồng chuyển giao cho bên
tiếp nhận quản lý chất thải thu gom chất thải nguy hại. Chất thải nguy hại

phải được lưu giữ tạm thời trong thiết bị chuyên dụng bảo đảm không rò rỉ,
3


rơi vãi, phát tán ra môi trường. Tổ chức, cá nhân phải có kế hoạch, phương
tiện phòng, chống sự cố do chất thải nguy hại gây ra, không để lẫn chất thải
nguy hại với chất thải thông thường.


Việc vận chuyển chất thải nguy hại phải bằng thiết bị, phương tiện chuyên
dụng phù hợp, đi theo tuyến đường và thời gian do cơ quan có thẩm quyền
về phân luồng giao thông quy định. Chỉ những tổ chức, cá nhân có giấy phép
vận chuyển chất thải nguy hại mới được tham gia vận chuyển. Phương tiện
vận chuyển chất thải nguy hại phải có thiết bị phòng, chống rò rỉ, rơi vãi, sự
cố do chất thải nguy hại gây ra.



Việc xử lý chất thải nguy hại phải tiến hành bằng phương pháp, công
nghệ, thiết bị phù hợp với đặc tính hóa học, lý học và sinh học của từng loại
chất thải nguy hại để đảm bảo đạt tiêu chuẩn môi trường.



Việc thải bỏ, chôn lấp chất thải nguy hại còn lại sau khi xử lý phải được
thực hiện theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền về bảo vệ môi trường.
 Quản lý chất thải rắn

Tương tự như chất thải nguy hại, việc quản lý chất thải rắn cũng được quy định

thành một quy trình để triển khai và thực hiện một cách lần lượt từ việc thu gom,
vận chuyển đến việc xử lý, tái chế, tiêu hủy, chôn lấp chất thải nguy hại. Không
dừng lại ở đó, pháp luật còn quy định về việc xây dựng, thành lập và hoạt động của
các cơ sở tái chế, tiêu hủy và khu chôn lấp chất thải rắn, quy hoạch về thu gom, tái
chế, tiêu hủy, chôn lấp chất thải rắn, quy định về vai trò, nhiệm vụ của các cơ quan
nhà nước trong quản lý chất thải rắn.
 Quản lý nước thải và kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn, độ rung, ánh
sáng, bức xạ
Pháp luật quy định rõ ràng về trách nhiệm của các cá nhân, đô thị, các tổ chức
sản xuất kinh doanh, dịch vụ, trong việc xử lý nước thải đó là cần tập trung thu
gom nước thải và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi đưa vào môi trường.
4


Bùn thải từ hệ thống nước thải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải rắn.
Nước thải, bùn thải có yếu tố nguy hại phải được quản lý theo quy định về chất thải
nguy hại.
Pháp luật cũng quy định về các đối tượng phải có hệ thống xử lý nước thải và
điều kiện cần thiết của một hệ thống nước thải, đồng thời yêu cầu chủ quản lý hệ
thống xử lý nước thải cần phải thực hiện quan trắc định kỳ trước và sau khi xử lý.
Về việc kiểm soát bụi, khí thải, hạn chế tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ: tổ
chức, cá nhân hoạt động sản xuất,kinh doanh, dịch vụ có phát tán bụi, khí thải, gây
tiếng ồn, độ rung,ánh sáng, bức xạ phải kiểm soát và xử lý bụi, khí thải cũng như
kiểm soát, xử lý tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ đạt tiêu chuẩn môi trường; yêu
cầu các thiết bị giao thông, máy móc phải có bộ phận lọc giảm bụi, khí thải. Khí
thải có yếu tố nguy hại được quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại.
Ngoài ra, nhà nước nghiêm cấm việc sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, kinh doanh
và sử dụng pháo nổ. Việc sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, kinh doanh và sử dụng
pháo hoa sẽ thực hiện theo quy định của Thủ tướng chính phủ
III.


Đánh giá về thực trạng quản lý chất thải hiện nay và phương
hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý chất thải

1. Thực trạng quản lý chất thải hiện nay
Mục đích của pháp luật quản lý chất thải là bảo vệ môi trường và sức khỏe của
cộng đồng. Thông qua vấn đề đặt ra các khung pháp lý quy định về trách nhiệm của
cơ quan Nhà nước về môi trường: quyền, nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân liên
quan đến quản lý chất thải. Pháp luật quản lý chất thải đã phân định rõ quyền hạn
cho các cơ quan Nhà nước giúp cho hoạt động quản lý của Nhà nước đối với vấn đề
này đạt hiệu quả cao. Đồng thời pháp luật còn định hướng cho hành vi, xử sự của
các chủ thể khi tham gia các hoạt động liên quan đến quản lý chất thải . Qua đó
ngăn ngừa, hạn chế việc gia tăng số lượng các chất thải nguy hại vào môi trường,
giảm thiểu những ảnh hưởng bất lợi của nó đối với sức khỏe con người cũng như
môi trường sống.
5


Trong xu thế hội nhập hiện nay, với việc thành lập nhiều nhà máy, xí nghiệp,
pháp luật về quản lý chất thải đã góp phần đáng kể hạn chế các vi phạm về môi
trường thông qua các biện pháp cụ thể. Mặt khác, không thể không nói đến rằng
trong công tác quản lý chất thải ở nước ta đã có phối hợp giữa các bộ, ngành, địa
phương trong việc kiểm tra, và giám sát việc thực hiện pháp luật quản lý chất nguy
hại ở các cơ sở; thanh tra, phát hiện và xử lý nhiều hành vi vi phạm.
Mặc dù vậy, quá trình quản lý chất thải ở Việt Nam cũng vẫn bộc lộ không ít
hạn chế:
 Chưa có hệ thống thông tin quản lý chất nguy hại:
Việt Nam chưa có hướng dẫn thực hiện theo pháp luật đối với các hoạt động
liên quan đến chất nguy haị. Bộ Tài nguyên và Môi trường có trang web Hệ
thống quản lý chất thải nguy hại còn

đang thử nghiệm và chưa hoàn chỉnh.
 Không kiểm soát hết được các hành vi vi phạm
Vi phạm pháp luật về quản lý chất nguy hại là rất nhiều, số lượng vụ việc
được phát hiện, khởi tố điều tra rất hạn chế. Tình trạng doanh nghiệp lừa dối,
dấu chất nguy hại trong hàng hoá xuất nhập khẩu không khai báo rất phổ biến.
 Quy hoạch vận chuyển, lưu trữ, xử lý, thải bỏ chất nguy hại chưa theo đúng
quy định của pháp luật và chưa đúng với công nghệ xử lý chất nguy hại.
Qua khảo sát tình hình quản lý môi trường các KCN, hầu hết các KCN
không thực hiện quy hoạch khu xử lý chất thải rắn, chưa đầu tư xây dựng hệ
thống xử lý nước thải chung cho toàn KCN, chưa thiết lập hệ thống thu gom,
phân loại, lưu trữ vận chuyển chất thải rắn, chất thải nguy hại...1
 Phân công, phân cấp trách nhiệm bất cập

Sở tài nguyên và Môi trường Lạng Sơn. 2011. Hầu hết các Khu công nghiệp không quy hoạch
khu xử lý chất thải rắn. Sở tài nguyên và Môi trường Lạng Sơn. 21/08/2011. Địa chỉ truy cập:
1

< />
6


Các văn bản pháp quy về quản lý chất thải tương đối nhiều, hiệu quả pháp lý
khác nhau, làm cho các bên hiểu khác nhau, không rõ trách nhiệm cho cơ quan nào,
các bên đổ lỗi cho nhau.
 Có những kẽ hở trong các văn bản pháp quy
Vì các khái niệm đưa ra không rõ ràng, không thống nhất, khái niệm chuyên
môn, khái quát, mơ hồ, tối nghĩa, nên thực tế có những cách hiểu khác nhau
giữa các cơ quan Nhà nước và với doanh nghiệp. Các quy định của pháp luật
còn phân tán trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, dẫn đến chồng chéo,
thậm chí mâu thuẫn.

 Các văn bản kém ổn định
Văn bản kém ổn định làm mất hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước và
ảnh hương đến hoạt động của người bị quản lý.
Các văn bản mới ban hành xong, lại sửa đổi, bổ sung. Thông tư số
15/2009/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành ngày
17/03/2009 thì ngày 04/06/2009 Bộ đã phải ban hành thông tư 29/2009/TTBNN sửa đổi bổ sung thông tư này.
2. Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý chất thải
Từ những trình bày ở trên cho thấy việc xây dựng cơ chế quản lý chất thải nguy
hại ở nước ta phải quán triệt quan điểm: kết hợp chặt chẽ giữa việc xây dựng một
hệ thống pháp luật “cứng” với các chính sách quản lý “mềm” phù hợp với đặc thù
của Việt Nam nhằm đảm bảo sự cân bằng hai lợi ích - vừa thúc đẩy sự phát triển
kinh tế và vừa ngăn ngừa, giảm thiểu tác hại đến môi trường.
Một hệ thống pháp luật “cứng” là việc xây dựng một hệ thống các văn bản pháp
lý quy định chi tiết và đầy đủ trách nhiệm của các đối tượng liên quan đến lĩnh vực
quản lý chất thải nguy hại như: các cơ quan quản lý nhà nước, các chủ nguồn thải,
chủ thu gom, vận chuyển, chủ lưu giữ, xử lý tiêu huỷ chất thải nguy hại cũng như
các chế tài xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, chúng
ta cũng cần phải biết “mềm” hoá việc thực thi pháp luật bằng các cơ chế, chính
7


sách phù hợp nhằm tạo điều kiện kích thích cho việc đầu tư phát triển nền kinh tế
nhưng vẫn kiểm soát và ngăn ngừa được ô nhiễm do việc phát sinh các chất thải
nguy hại gây ra.
Để cụ thể hoá cho quan điểm trên, theo em cần thực hiện một số biện pháp sau:
 Xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể
Ban hành các chỉ tiêu môi trường cho việc chọn lựa địa điểm, thiết kế xây
dựng, vận hành bãi chôn lấp chất thải nguy hại. Nghiên cứu, ban hành các
hướng dẫn về phương pháp tính để xây dựng phí thu gom, xử lý, tiêu huỷ chất
thải nguy hại. Ban hành danh mục các loại phế liệu, phế phẩm (trong đó có quy

định khống chế tỷ lệ chất thải nguy hại) được phép nhập khẩu dùng trong sản
xuất công nghiệp.
 Sửa đổi, bổ sung các quy định về xử lý các vi phạm
Hiện nay, các mức phạt theo các quy định tại Nghị định số 26/CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường là quá nhẹ, không hợp lý và còn
nhiều điểm quy định rất chung chung (ví dụ: theo Điểm b, Điều 16 Nghị định
26/CP, mức phạt cao nhất chỉ là 15.000.000đ áp dụng đối với hành vi chôn vùi,
thải các chất thải nguy hại quá giới hạn cho phép với khối lượng lớn, thời gian
khắc phục hậu quả lâu dài). Ngay cả trong 10 tội danh tại Chương 17 Bộ luật
Hình sự Việt Nam quy định tội phạm về môi trường cho thấy các mức xử lý các
cá nhân vi phạm cũng còn rất thấp (chỉ có từ 5 – 10 năm là tối đa). Ở đây, chúng
ta thử một phép so sánh một cá nhân nếu phạm tội cố ý giết người trong Luật
hình sự có thể bị kết án tử hình. Tuy nhiên, chủ một doanh nghiệp cố ý thải chất
thải nguy hại gây ô nhiễm nguồn nước phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của
nhân dân, gây nên nhiều căn bệnh nan y dẫn đến tử vong cho nhiều người trong
một thời gian dài thì chỉ bị phạt tiền hoặc phạt tù ở mức độ thấp – đây là một
điều chưa hợp lý. Trong thời gian qua có rất nhiều tổ chức và cá nhân vi phạm
các quy định này và vẫn thường xuyên tái phạm vì tiền phạt không thấm là bao
so với việc phải đầu tư trang thiết bị cho công tác xử lý chất thải nguy hại. Vì
8


vậy, sự nghiêm minh và tính răn đe của pháp luật chưa được phát huy hiệu lực.
Giải pháp đề ra trong thời gian tới là: chúng ta cần sửa đổi, bổ sung các mức xử
phạt đúng đắn, sát với tình hình thực tế của công tác quản lý chất thải nguy hại
nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý trong vấn đề này.
 Ban hành một số chính sách quản lý nhà nước phù hợp
Các chính sách về tài chính
+ Thu lệ phí đối với các hoạt động gây ô nhiễm:
Các phí này là loại thuế hoặc phí trực tiếp đánh vào các chất thải nguy hại

tại điểm được sản sinh ra hay tại điểm đổ bỏ. Mục tiêu chính của những thuế
này là kích thích các nhà sản xuất sử dụng các phương pháp hạn chế và giảm
thiểu chất thải. Đánh thuế trực tiếp vào một số sản phẩm có khả năng gây
ảnh hưởng lớn đến môi trường như xăng, dầu có chì, nhà máy nhiệt điện,
thuốc trừ sâu, một số hoá chất, năng lượng...
+ Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng công nghệ sạch và tạo
điều kiện cho việc hình thành các công ty vận chuyển và xử lý chất thải nguy
hại từ những nguồn vốn khác nhau (vốn liên doanh, vốn cổ phần hoặc vốn tư
nhân) bằng các cơ chế tài chính như: miễn thuế, giảm thuế, cho vay tín dụng
ưu đãi...).
Các chính sách về quản lý hành chính và đầu tư khoa học công nghệ
+ Tăng cường hệ thống thanh tra môi trường. Cần tổ chức đào tạo chuyên
sâu về nghiệp vụ chuyên môn cũng như luật pháp đề đội ngũ này có khả
năng thực thi có hiệu quả công tác kiểm soát việc thực hiện các quy định
pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
+ Xây dựng những khu công nghiệp tập trung bao gồm nhiều nhà sản xuất để
có phương án tập trung xử lý chất thải, cách này giảm được chi phí riêng biệt
cho các nhà sản xuất và tránh được ô nhiễm môi trường ở nhiều khu vực
khác nhau.

9


+ Khuyến khích việc nghiên cứu áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công
nghệ trong lĩnh vực xử lý chất thải, đặc biệt là chất thải nguy hại.
 Công tác tuyên truyền, giáo dục
Khuôn khổ pháp lý là cần thiết nhưng ý thức tự giác của các tổ chức, cá nhân
trong hoạt động bảo vệ môi trường cũng đóng góp một vai trò quan trọng, phù
hợp với quan điểm chung: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân”, tất cả
cùng hướng đến mục đích vì một sự phát triển bền vững trong hiện tại và tương

lai cho đất nước. Vì vậy, chúng ta cần tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền, giáo
dục, phổ biến kiến thức về chất thải và pháp luật về quản lý chất thải, phân tích
làm cho nhân dân hiểu được rằng đây là một vấn đề đang được cả thế giới quan
tâm và “tai hoạ sẽ đến với tất cả chúng ta, không kể người giàu hay nghèo” nếu
không ý thức được điều này.
 Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Để thúc đẩy nhanh và có hiệu quả quá trình hội nhập chúng ta cần:
+ Tích thực nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm của các nước trong khu vực và
các quốc gia trên thế giới trong vấn đề quản lý chất thải để tìm ra các giải
pháp, các chính sách phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Thiết lập và phát triển mối quan hệ hợp tác quốc tế sẽ giúp cho các hoạt
động quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý chất thải đạt kết quả cao hơn.
Thông qua các hoạt động như trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ, đào
tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ về tài chính, chúng ta sẽ có điều kiện triển khai giải
quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong công tác quản lý chất thải, nhất là vấn đề
vốn và công nghệ.
+ Tham gia xây dựng và thực hiện các công ước quốc tế về lĩnh vực quản lý
chất thải cũng cần coi là một ưu tiên hàng đầu trong chính sách bảo vệ môi
trường bởi nói không chỉ thể hiện ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ sự phát
triển bền vững của riêng đất nước chúng ta mà còn là trách nhiệm chung đối
với sự tồn tại và phát triển của toàn nhân loại.
10


C. KẾT LUẬN
Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững hiện nay đã trở thành một vấn đề sống
còn của toàn nhân loại. Cùng với phát triển kinh tế, mức sinh hoạt của người dân
ngày càng được nâng cao thì lượng chất thải cũng tăng nhanh gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng môi trường và sức khoẻ con người. Chất thải luôn là
một trong những vấn đề môi trường trầm trọng nhất mà con người dù ở bất cứ đâu

cũng phải tìm cách để đối phó. Việc hoàn thiện những quy định về quản lí chất thải
sẽ góp phần không nhỏ cho công tác bảo vệ môi trường của nước ta đảm bảo cho
sự phát triển bền vững trong thời kì phát triển kinh tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật bảo vệ môi trường 2005
2. Giáo trình Luật môi trường. Trường Đại học Luật Hà Nội
3. Thông tư 12/2011/TT-BTNMT ngày 14/4/2011 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường Quy định về Quản lý chất thải nguy hại
4. Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT: Hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ
tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại
5. Quyết định số 23/2006/QĐ-BTNMT: Về việc ban hành Danh mục chất thải
nguy hại
11


6. Nghị định của chính phủ số 59/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 5 năm 2007 về
quản lý chất thải rắn.
7.
8.
Binh luan cac quy dinh Phap luat ve quan ly chat thai thai vn va huong hoan thien

12



×