BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MÔN:LUẬT MÔI TRƯỜNG
ĐỀ BÀI SỐ : 14
ƯU ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ CỦA CÁ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY
HẠI
MỤC LỤC
A.MỞ BÀI…………………………………………………………………………
B.THÂN BÀI……………………………………………………………………….
1.Cơ sở lý luận……………………………………………………………………
1.1.Khái niện về chất thải nguy hại……………………………………………….
1.2.Khái niện quản lý chất thải nguy hại…………………………………………
2.Khái quát về pháp luật quản lý chất thải nguy hại…………………………….
2.1.Nội dung pháp luật về quản lý chất thải nguy hại…………………………
2.2.ý nghĩa các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại………………
3.Thực trạng về pháp luật quản lý chất thải nguy hại…………………………
4.Đánh giá ưu nhược điểm các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
4.1.Ưu điểm……………………………………………………………………….
4.2.Nhược điểm…………………………………………………………………….
4.3.Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nguy hại……………………………
C.KẾT BÀI…………………………………………………………………………
A.MỞ BÀI.
Con người muốn sống và phát triển bình thường thì điều cần thiết để đảm bảo là
được sống trong một môi trường tốt.Hiện nay với sự phát triển về kinh tế cũng kéo theo
những tác động xấu tới môi trường.Làm cho môi trường bị ô nhiễm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến sức khỏe và sự tồn tại của con người.Một trong những nguyên nhân làm ô
nhiễm môi trường đó là việc quản lý không tốt chất thải nguy hại.Điều này do rất nhiều
nguyên nhân và một trong những nguyên nhân khách quan đó là hệ thống pháp luật
chưa hoàn thiện.Chính vì vậy trong bài tập học kì em xin chọn đề tài:”Những ưu điểm
và nhược điểm của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại”.Để từ đó hoàn thiện các
quy định về vấn đề này.
B.THÂN BÀI.
1.Cơ sở lý luận.
1.1.Khái niện về chất thải nguy hại.
Có rất nhiểu khái niện,cách hiểu về chất thải nguy hại như:Theo góc độ ngữ
nghĩa,theo UNEP.Ở Việt Nam chất thải nguy hại dưới góc độ pháp lý được hiểu
là:”Chất thải tồn tại ở dạng rắn, lỏng, khí và các dạng khác, có một trong các đặc tính
gây nguy hại (dễ cháy, dễ nổ, dễ làm ngộ độc, dễ lây nhiễm và các đặc tính nguy hại
khác)
1
.
1.2.Khái niện quản lý chất thải nguy hại.
Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử
dụng, tái chế, tiêu hủy, thải loại chất thải. Theo quy định tại thông tư 12/2011/TT-
BTNMT thì : Quản lý chất thải nguy hại là các hoạt động liên quan đến việc phòng
ngừa, giảm thiểu, phân định, phân loại, tái sử dụng trực tiếp, lưu giữ tạm thời, vận
chuyển và xử lý chất thải nguy hại.Pháp luật về quản lý chất thải là một bộ phận của
pháp luật môi trường, trong đó các quy phạm pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ
phát sinh trong hoạt động quản lý chất thải nguy hại như: Thu gom, vận chuyển, quá
1
Khoản 11 điều 3 luật bảo vệ môi trường 2005
cảnh, lưu giữ, xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe
con người.
2
2.Khái quát về pháp luật quản lý chất thải nguy hại.
2.1.Nội dung pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
Về quản lý chất thải nguy hại pháp luật có quy định rất chặt chẽ và chi tiết các điều
kiện để quản lý chất thải, các yêu cầu về bảo vệ môi trường đối với mỗi công đoạn cảu
quá trình quản lý chất thải.Bao gồm:các hoạt động mà các chủ thể quản lý chất thải
nguy hại thực hiện phù hợp với các giai đoạn quản lý.Từ Việc lập hồ sơ và đăng kí với
cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường đối với việc quản lý chất thải nguy hại;
Đến Quy định các cách thức tiến hành việc phân loại, thu gom, lưu giữ tạm thời chất
thải nguy hại; Các quy định về việc vận chuyển các chất thải nguy hại; Các quy định về
việc xử lý chất thải nguy hại; Các quy định về xử lý sau khi xử lý chất thải nguy hại.Từ
đây chúng ta có thể thấy việc quản lý chất thải nguy hại có những đặc trưng khác biệt so
với hoạt động quản lý chất thải thông thường.Thứ nhất quản lý chất thải nguy hại là
những hoạt động đòi hỏi sự tập trung nguồn lực kĩ thuật và tài chính lớn;Thứ hai quản lý
chất thải nguy hại là những hoạt động được thực hiện với quy trình nghiêm ngặt và
những đòi hỏi khắt khe;Thứ ba hoạt động quản lý chất thải nguy hại là hoạt động đòi hỏi
cao về chuyên môn;Thứ tư quản lý chất thải nguy hại là hoạt động đòi hỏi sự can thiệp
mạnh tay và thường xuyên của nhà nước.
2.2.ý nghĩa các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
Quản lý tốt chất thải nguy hại nó đảm bảo sự an toàn sức khỏe cho những người lao
động trực tiếp làm việc trong môi trường có chất thải nguy hại,bảo vệ sức khỏe cho
công đồng bởi vì chất thải nguy hại tác động rất lớn đến sức khỏe của con người nó có
thể gây tổn thương tác động đến hệ thần kinh,hệ bài tiết,hệ tiêu hóa…ở một nồng độ
nhất định có thể ảnh hưởng tới tính mạng con người.Mà chất thải nguy hại là tất yếu của
quá trình phát triển xã hội.Hơn nữa việc quản lý tốt chất thải nguy hại giữ vị trí quan
trọng trong phòng ngừa nguy cơ ô nhiễm, suy thoái môi trường, hạn chế các sự cố môi
2
Trang 15-khóa luận tốt nghiệp-Nguyễn Thị Phượng-pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam-2012
trường, giảm nguy cơ làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên đảm bảo chất lượng môi
trường.
Ngoài ra việc quản lý tốt chất thải nguy hại cũng mang lại những ý nghĩa quan trọng
về mặt kinh tế.Với việc thu hồi tái chế có thể đem lại nguồn thu nhập cao cho một bộ
phận lao động phổ thông không đòi hỏi phải có trình độ kĩ năng, phẩm chất lao động
đặc biệt.Mặt khác việc tái sử dụng chất thải nguy hại có thể làm giảm lượng tài nguyên
cần khai thái sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế, từ đó giảm được sự hao mòn của
tài nguyên quốc gia.Hơn nữa quản lý tốt chất thải nguy hại mang lại lợi ích không nhỏ
đối với các cơ sở có chất thải đó là số tiền phải chi cho hoạt động xử lý chất thải,số tiền
phải bồi thường thiệt hại do gây ô nhiễm môi trường,nâng cao uy tín của doanh nghiệp
đối với ngươi tiêu dùng…
Việc pháp luật môi trường quy định cụ thể và chi tiết về quản lý chất thải nguy hại
có vai trò rất quan trọng.Thứ nhất pháp luật quản lý chất thải nguy hại là công cụ để
thực hiện phòng ngừa,khắc phục ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, góp phần đảm
bảo quyền được sống trong môi trường trong lành của con người; Thứ hai Pháp luật về
quản lý chất thải nguy hại tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nghành
công nghiệp môi trường,qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước;Thứ ba
pháp luật quản lý chất thải nguy hại góp phần thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa
học kĩ thuật tiên tiến để bảo vệ môi trường trong sản suất,kinh doanh,dịch vụ, bảo vệ
sức khỏe người lao động; Thứ tư pháp luật quản lý chất thải nguy hại gắn kết các lợi ích
kinh tế với lợi ích xã hội và lợi ích môi trường, góp phần đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của đất nước; Thứ năm pháp luật quản lý chất thải nguy hại góp phần thay đổi và
nâng cao nhận thức của cộng đồng theo hướng có lợi cho bảo vệ môi trường.
3.Thực trạng về quản lý chất thải nguy hại.
Tại Việt Nam lượng chất thải nguy hại phát sinh ngày càng nhiều,các hóa chất độc
hại lưu tồn trong chiến tranh, các loại thuốc bảo vệ thực vật không còn giá trị sử dụng
đang tồn đọng với số lượng không nhỏ…đòi hỏi phải xử lý, trong khi đó năng lực quản
lý chất thải nguy hại của nước ta còn quá yếu.Hiện nay việc quản lý chất thải nguy hại
đã có những nét mới tiến bộ hơn là đã đưa ra các cách thức quản lý khác nhau và đặc
biệt chú trọng tới việc phối kết hợp các chiến lược giảm nguồn thải,tái sử dụng,tái chế
chất thải nguy hại với thu gom chôn lấp và tiêu hủy. Tuy nhiên hiện nay việc phân loại
rác tại nguồn đối với chất thải nguy hại công nghiệp và y tế mới đang được thực hiện
một cách hạn chế,chất thải nguy hại sinh hoạt mới đang trong giai đoạn thực hiện phân
loại thử nghiệm ở một số địa phương.Hoạt động tái chế chất thải nguy hại cũng đạt
được kết quả rất thấp do các chất thải nguy hại ít được phân loại tại nguồn.Mặt khác
hoạt động này phần lớn do tư nhân đảm nhiệm,với trình độ kĩ thuật thấp,cơ sở vật chất
nghèo nàn,quy mô hoạt động nhỏ và sự kiểm soát lỏng lẻo từ phía các cơ quan chức
năng nên chất lượng tái chế các chất thải nguy hại thấp,nhiều trường hợp chưa loại bỏ
được hoàn toàn các đặc tính gây nguy hại của chất thải,gây ảnh hưởng xấu cho môi
trường và sức khỏe người tiêu dung khi sử dụng các sản tái chê từ chất thải nguy
hại.Bên cạnh đó việc xử lý chất thải nguy hại không tái chế được ở nước ta cũng là một
vấn đề đáng bàn.Ở nước ta chủ yếu xử lý chất thải theo phương pháp đốt,song các là đốt
rác ở Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng đủ lượng rác thải nguy hại cần phải xử lý.Vì vậy
mà các chất thải nguy hại từ nông nhiệp và sinh hoạt hiện vẫn được chôn lấp chung với
chất thải thông thường.Tất cả nhứng thực trạng trên đang đặt ra vấn đề cần hoàn thiện
hơn nữa về vấn đề quản lý chất thải nguy hại mà đầu tiên đó chính là hệ thống pháp luật
về quản lý chất thải nguy hại.
Chất thải nguy hại lần đầu tiện được nhắc đến trong luật BVMT năm 1993 nhưng
chỉ dừng lại ở mức độ quy định chung về quản lý môi trường nói chung,trong đó bao
gồm cả quản lý chất thải nguy hại,mà chưa đưa ra một khái niện cụ thể nào.Luật BVMT
2005 đã quy định cụ thể về vấn đề quản lý chất thải nguy hại.Và kể từ ngày 01/06/2012
các vấn đề về hoạt động quản lý chất thải nguy hại sẽ được thực hiện theo thông tư
12/2011/TT-BTNMT đây là một bước phát triển của pháp luật về quản lý chất thải nguy
hại.
4.Đánh giá ưu nhược điểm các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
4.1.Ưu điểm.
Hiện nay các văn bản pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở nước ta khá đa dạng
đã tạo ra hành lang pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả quản lý trong hoạt động này.Sự
ra đời của thông tư 12/2011/TT-BTNMT là một bước hoàn thiện các quy định về quản
lý chất thải nguy hại.Thông tư đã đáp ứng phù hơp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta
cũng như hiện trạng của vấn đề bảo vệ môi trường nói chung và trong hoạt động quản lý
chất thải nguy hại nói riêng.
Thứ nhất pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã có những quy định cụ thể về
quyền hạn trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong quản lý chất thải nguy
hại.Đã có quy định về sự phối hợp giữa các cơ quan này trong hoạt động quản lý chất
thải nguy hại,Trong cấp phép,đăng ký chủ nguồn thải…
Đặc biệt tại thông tư 12/2011/TT-BTNMT đã có những điểm mới phù hợp hơn so
với các quy định trước đây.Tại thông tư 12/2011 có sự giản lược hơn thủ tục cấp phép
so với thông tư 12/2006 giúp cho các cơ quan quản lý cũng như các chủ nguồn thải dễ
dàng thực hiện, thông tư 12/2011 đã quy định một thủ tục chung cho tất cả các chủ thể
đăng kí quản lý chất thải nguy hại.về thời hạn cấp phép cũng được kéo dài hơn so với
thông tư 12/2006.
Hai là pháp luật đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các chủ thể trong hoạt động
quản lý chất thải nguy hại giúp cho các chủ thể thực hiện tốt nghĩa vụ của mình qua đó
bảo vệ môi trường tốt hơn.Đặc biệt thông tư 12/2011 đã có quy định về trách nhiệm của
chủ nguồn thải chất thải nguy hại khi có nhu cầu xuất khẩu chất thải nguy hại để xử
lý,tiêu hủy ở nước ngoài.Đây là một quy định mới phù hợp với xu hướng của toàn cầu
cũng như việc vận dụng kĩ thuật tiên tiến hơn trong xử lý chất thải nguy hại.Ngoài ra
thông tư còn quy định về việc phát sinh đột xuất một lượng chất thải nguy hại thì phải
có báo cáo cho CQQLCNT.Việc này giúp quản lý tốt hơn lượng chất thải nguy hại thực
tế phát sinh…
Thứ ba , pháp luật quản lý chất thải nguy thông qua việc định hướng xử sự cho các
cơ quan Nhà nước , các tổ chức, cá nhân trong quá trình phát sinh, thu gom, vận chuyển
và sử lý chất thải nguy hại đồng thời ràng buộc các chủ thể này vào những chế tài cụ
thể.Vì vậy Pháp luât quản lý chất thải nguy hại không chỉ góp phần giảm thiểu được
lượng chất thải nguy hại vào môi trường mà còn phòng ngừa, hạn chế những tác động
bất lợi khác. Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại có các quy định về xử lý vi phạm
trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại.Tùy theo mức độ vi phạm thì các chủ thể vi
phạm có thể bị xử lý theo trách nhiệm hành chính,trách nhiệm dân sự hay là trách nhiệm
hình sự…Qua đó góp phần ngăn ngừa giáo dục cá nhân tổ chức giúp mọi người có ý
thức hơn trong việc quản lý chất thải nguy hại cũng như trong việc bảo vệ môi trường.
Thứ tư pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã có sự kết hợp giữa biện pháp
pháp lý và biện pháp kinh tế trong quản lý chất thải nguy hại.Thực tế cho thấy rằng
công cụ kinh tế có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường nói chung và trong
hoạt động quản lý chất thải nói riêng.Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã có
những quy định về sử dụng công cụ kinh tế trong hoạt động quản lý chất thải nguy
hại.Như việc áp dụng phí môi trường,các chính sách miễn giảm thuế,hỗ trợ ưu đãi cho
các chủ thể thực hiện tốt việc quản lý chất thải nguy hại.Khi các chủ thể thực hiện tốt
quy định về quản lý chất thải nguy hại họ không những không mất tiền bị phạt hay tiền
khắc phục thiệt hại mà còn được hỗ trợ….Chính các quy định này của pháp luật đã góp
phần thúc đẩy các chủ thể nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật về quản lý chất thải nguy
hại nói riêng và pháp luật bảo vệ môi trường nói chung.
Thứ năm pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã có các quy định về việc ứng
dụng khoa học công nghệ,kĩ thuật tiên tiến trong quản lý chất thải nguy hại nói riêng và
bảo vệ môi trường nói chung.Điều này đã góp phần thúc đẩy khoa học kĩ thuật phát
triển cũng như quản lý tốt hơn nữa chất thải nguy hại và sức khỏe con người cũng như
môi trường trong sạch.
Thứ sáu pháp luật môi trường nước ta đã quan tâm đến vấn đề hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực môi trường.Hiện nay nước ta đã là thành việc của nhiều công ước quốc tế
về bảo vệ môi trường như:Công ước luật biển 1982;Công ước về bảo tồn đa dạng sinh
học…Pháp luật là công cụ hữu hiệu để nhà nước nội luật hóa các quy định của công ước
và thực hiện chúng trên thực tế.Trên cơ sở các điều ước quốc tế nước ta đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật như:Luật bảo vệ môi trường 2005,Luật bảo vệ đa dạng sinh học
2008…
4.2.Nhược điểm.
Thứ nhất về các quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động của bộ máy quản lý chất
thải nguy hại.Trong các văn bản pháp luật hiện hành về quản lý chất thải nguy hại là
Quy chế quản lý chất thải nguy hại 1999 và thông tư 12/2011/TT-BTNMT có sự khác
nhau trong quy định về cơ quan quản lý chất thải nguy hại.Chỉ trong việc gọi tên các cơ
quan hiện nay đã có sự thay đổi làm cho mọi người gặp khó khăn trong việc tìm
hiểu,đọc văn bản mới còn phải xem tên gọi của cơ quan này là tên gọi của cơ quan nào
trước đây.Mặt khác chưa có quy định cụ thể phân định trách nhiệm quyền hạn giữa các
cơ quan này.Tất cả các cơ quan đều có chức năng chung chung là bảo vệ môi trường và
quản lý tất cả các lĩnh vực trong vấn đề môi trường.Thông tư 12/2011/TT-BTNMT dành
chương V để quy định về trách nhiệm của từng cơ quan trong hoạt động quản lý chất
thải nguy hại nhưng vẫn không có quy định rõ ràng như:Sở tài nguyên và môi trường
được UBND tỉnh phân cấp có giống sở tài nguyên và môi trường không?Nếu giống thì
trách nhiệm nên quy định chung lại:Trách nhiệm của tổng cục môi trường,UBND cấp
tỉnh,sở tài nguyên và môi trường,Chi cục bảo vệ môi trường.Nếu khác nhau thì sao
không có một quy định giải thích rõ điều này?Mặt khác trong thông tư không thấy có
quy định về sự phối hợp của các cơ quan quản lý chất thải nguy hại và các bộ,nghành
liên quan.
Thứ hai quy định về hoạt động cấp sổ đăng kí chủ nguồn thải,Tại thông tư
12/2006/TT-BTNMT có quy định:”sổ đăng kí chủ nguồn thải là hồ sơ cấp cho chủ
nguồn thải chất thải nguy hại trong đó liệt kê các thông tin về chủng loại,số lượng chất
thải nguy hại đăng ký phát sinh và quy định trách nhiệm bảo vệ môi trương của chủ
nguồn thải đối với chất thải nguy hại được đăng ký. Thông tư 12/2011/TT-BTNMT ban
hành thay thế cho thông tư 12/2006/TT-BTNMT thì lại không thấy định nghĩa rõ ràng
về sổ đăng kí chủ nguồn thải là như thế nào.
Thứ ba tại thông tư 12/2011/TT-BTNMT có quy định giản lược hơn so với thông tư
12/2006/TT-BTNMT về trách nhiệm chung cho chủ vận chuyển và quản lý thành chủ
hành nghề quản lý chất thải nguy hại.Tuy nhiên quy định này lại làm cho các chủ vận
chuyển và chủ xử lý gặp nhiều khó khăn bởi vận chuyển và xử lý là hai công việc hoàn
toàn khác nhau lại quy định chung về trách nhiệm trong một điều luật.Khi áp dụng phải
tìm xem các quy định nào là quy định trách nhiệm cho mình và quy định ở chỗ nào
trong quy định đó.Bên cạnh đó là quy định đối với chủ tái sử dụng chất thải nguy
hại,đây là một quy định mới về chủ thể trong hoạt động quản lý chất thải nguy hại
nhưng quy định này còn nhiều điểm chưa được rõ ràng chẳng hạn việc hoạt động của
các chủ thế này hợp pháp theo căn cứ pháp luật nào,giấy phép hay chứng nhận nào?việc
tái sử dụng trực tiếp được hiểu như thế nào?các điều kiện đối với chủ tái sử dụng chất
thải nguy hại và trong quá trình tái sử dụng trực tiếp chất thải nguy hại cũng chưa quy
định.
Thứ tư quy định về công cụ kinh tế trong quản lý chất thải nguy hại.Về phí bảo vệ
môi trường đối với chất thải nguy hại Hiện tại theo pháp luật thì hoạt động thu phí bảo
vệ môi trường chỉ đặt ra khoản thu phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn và nước
thải khí thì vấn đề phí bảo vệ môi trường hiện nay vẫn chưa được đặt ra.Mặt khác ngay
trong quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải thì quy định về đối tượng
chịu phí bảo vệ môi trường vẫn chưa hợp lý,không có sự phân biệt giữa nước thải công
nghiệp và nước thải sinh hoạt nói chung,không có sự phân biệt giữa nước thải thông
thường và nước thải chứa chất thải nguy hại.Mức thu phí thấp cao nhất chỉ
20000đồng/kg đối với nước thải có chứa thủy ngân… nói chung chưa đủ sức răn đe để
các chủ nguồn thải phòng ngừa giảm thiểu lượng chất độc hại có trong nước thải.Pháp
luật không đưa ra một quy định riêng đối với vấn đề thu phí đối với chất thải nguy hại.
Thứ năm là vấn đề xử lý vi phạm trong quản lý chất thải nguy hại.Về trách nhiệm
hành chính quy định tại nghị định 117/2009/NĐ-CP thì việc quy định các mức phạt
hành chính trong hoạt động quản lý chất thải nguy hại là thấp so với mức độ ảnh hưởng
của nó đến môi trường,sức khỏe con người và sự tác động vào các nhân tố,tổ chức vi
phạm là không đủ sức răn đe.Như mức phạt đối với vi phạm quy định về bảo vệ môi
trường đối với cơ sở xử lý,tiêu hủy,chôn lấp chất thải nguy hại là từ 2 triệu đến 150 triệu
tùy vào mức độ nghiêm trọng.Về trách nhiệm hình sự các chế tài đối với các tội phạm
môi trường trong bộ luật hình sự là nhẹ so với hậu quả của các hành vi vi phạm nên
không đủ sức răn đe.
4.3.Hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải nguy hại.
Thứ nhất cần phải sửa đổi bổ sung,bãi bỏ một số quy định của pháp luật nhằm đảm
bảo tính đồng bộ của các văn bản pháp luật hiện hành.Đầu tiên đó là việc chuẩn hóa các
khái niện.Như:Cần đưa ra khái niện thống nhất về khái niện chất thải nguy hại trong các
văn bản; Quy định thống nhất, rõ ràng về khái niện quản lý chất thải giữa các văn bản
đang có hiệu lực; Cần phải hoàn thiện khái niện chất thải nguy hại có tính nguy hại
cao.Hai là cần phải thống nhất trong việc gọi tên các cơ quan quản lý nhà nước trong
hoạt động quản lý chất thải nguy hại.Đối với quy chế quản lý chất thải nguy hại 1999
nếu không bãi bỏ thì phải có văn bản sửa đổi,bổ sung các điều để phù hợp hơn với tình
hình chính trị-Xã hội hiện nay. Ba là phải thống nhất các quy định về thẩm quyền và thủ
tục trong hoạt động cụ thể về quản lý chất thải nguy hại như:Về thẩm quyền cấp phép
của các cơ quan quản lý nhà nước cần có quy định phân biệt rõ ràng,dễ hiểu giữa các cơ
quan; Trong việc cấp sổ đăng kí nguồn chất thải nguy hại và giấy phép hành nghề quản
lý chất thải nguy hại.Bốn là cân thống nhất các quy định về trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước,các tổ chức cá nhân có liên quan trong hoạt động quản lý chất thải nguy
hại như:Cần có quy định về trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền trong hoạt động quá cảnh chất thải nguy hại và vận chuyển qua biên giới; nên
quy định riêng về trách nhiệm của chủ vận chuyển chất thải nguy hại và chủ xử lý chất
thải nguy hại,nếu quy định về chủ hành nghề quản lý chất thải nguy hại thì phải đồng
thời đảm nhận trách nhiệm vận chuyển và trách nhiệm xử lý.
Thứ hai cần hoàn thiện các quy định về xử lý vi phạm pháp luật về quản lý chất
thải.Một là trong xử phạt hành chính trước tiên cần sửa đổi mức phạt đối với các chủ thể
vi phạm.Phải nâng cao mức phạt ít nhất bằng với lợi nhuận mà chủ nguồn thải nhận
được từ hành vi vi phạm,Cần bổ sung các biện pháp xử lý hành chính đối với hành vi
mua bán chất thải nguy hại.Hai là quy định trách nhiệm đối với tội phạm trong luật hình
sự.Mức phạt đối với các tội danh về quản lý chất thải nguy hại trong bộ luật hình sự còn
quá thấp cần phải sửa đổi theo hướng hình phạt nặng hơn để đủ sức răn đe đối với cá
nhân tổ chức.Ba là về trách nhiệm dân sự trong quản lý chất thải nguy hại hiện nay,hiện
nay bộ luật dân sự chỉ có những quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm bồi thường trong
bảo vệ môi trường nói chung nên cần có quy định riêng về trách nhiệm dân sự trong xử
lý vi phạm về quản lý chất thải nguy hại.
Thứ ba cần hoàn thiện các quy định pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong quản
lý chất thải nguy hại.Pháp luật cần quy định cụ thể hơn về trường hợp được miễn, giảm
thuế đối với hoạt động quản lý chất thải nguy hại,cần bổ sung quy định về các trường
hợp miễn,giảm thuế khi thực hiện giảm thiểu hay tái sử dụng trực tiếp chất thải nguy
hại; Cần ưu đãi hỗ trợ thêm cho hoạt động phòng ngừa và giảm thiểu chất thải nguy hại.
Thứ tư tăng cường hợp tác quốc tế học hỏi kinh nghiệp trong quản lý chất thải nguy
hại của các quốc gia trên thế giới.Cần tìm hiểu học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia
trong khu vực và trên thế giới về quản lý chất thải nguy hại để tìm ra các giải pháp phù
hợp với điều kiện đất nước trong thời kì hội nhập.Hợp tác thống nhất thực hiện việc vận
chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới và việc xử lý chất thải nguy hại ở nước
ngoài.Tham gia xây dựng và thực hiện các điều ước quốc tế về lĩnh vực quản lý chất
thải nguy hại,thể hiện ý chí của nhà nước trong việc quản lý chất thải nguy hại trên thế
giới nói chung và tại quốc gia mình nói riêng.
C.KẾT BÀI.
Qua đây chúng ta thấy pháp luật về quản lý chất thải nguy hại đã và đang thể hiện
được ưu điểm của nó trong việc quản lý chất thải nguy hại.Song bên cạnh đó chúng ta
có thể thấy nó còn tồn tại nhiều nhược điểm cần khắc phục.Môi trường là vấn đề rất
phức tạp vì vậy mà chúng ta cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề này.Mà đầu tiên là hoàn
thiện hệ thống pháp luật về môi trường nói chung và hệ thống các quy định về quản lý
chất thải nguy hại nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật môi trường-Trường đại học luật hà nội-2006
2. Luận án tiến sĩ luật học- Vũ Thị Duyên Thủy-Xây dựng và hoàn thiện pháp luật
quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam-hà nôi,2009.
3. Khóa luận tốt nghiệp-Nguyễn Thị Phượng-Pháp Luật Về Quản Lý Chât Thải
Nguy Hại Tại Việt Nam-Hà nội 2012.
4. Khóa luận tốt nghiệp-Lê Thị Thúy Hằng-Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
tại Việt Nam-hà nội 2011.
5. Luật bảo vệ môi trường 2005.
6. Thông Tư 12/2011/TT-BTNMT Quy định về quản lý chất thải nguy hại.