Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.18 KB, 16 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm tranh chấp thương mại.
2. Giải quyết tranh chấp thương mại.
II. TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm trọng tài thương mại
2. Các hình thức trọng tài
2.1. Trọng tài vụ việc
2.2. Trọng tài quy chế
3. Cơ cấu tổ chức
4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
5. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
III. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Ưu điểm
2. Hạn chế
III. THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. LỜI MỞ ĐẦU


Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa, các quan hệ kinh tế ngày càng
trở nên phức tạp. Những tranh chấp giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế khó có
thể tránh khỏi, phạm vi tranh chấp ngày càng được mở rộng ở tất cả các quan hệ
sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước. Pháp luật nước ta hiện nay quy định ba


phương thức giải quyết tranh chấp thương mại là thương lượng và hòa giải, trọng
tài thương mại, tòa án. Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp trên có những ưu
điểm và hạn chế nhất định. Trong đó phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại đã bộc lộ tính ưu việt hơn so hai phương thức còn lại. Trong
tương lai các doanh nghiệp sẽ tin tưởng và lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài nhiều hơn.

B. NỘI DUNG
I. TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm tranh chấp thương mại.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến
đổi cùng với quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Chính vì
vậy, mức độ, hình thức, nội dung tranh chấp phụ thuộc vào tính chất và quy mô
của quan hệ thương mại.Trong điều kiện hiện nay, cùng với sự lớn mạnh của nền
kinh tế thị trường, các quan hệ thương mại trong nước cũng như quan hệ thương
mại quốc tế ngày càng trở nên sôi động, đa dạng và phức tạp thì tranh chấp
thương mại xảy ra là điều không thể tránh khỏi. Các vụ tranh chấp diễn ra ngày
càng phức tạp về nội dung, gay gắt về mức độ tranh chấp, cần phải được giải
quyết một cách kịp thời.
Tranh chấp thương mại theo nghĩa khái quát nhất là sự bất đồng chính kiến,
mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể
tham gia hoạt động thương mại.Tranh chấp thương mại là loại tranh chấp phổ biến
nhất, thường xuyên nhất phát sinh trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể
kinh doanh với nhau trong hoạt động thương mại.
Ở Việt Nam, khái niệm tranh chấp thương mại trong từng giai đoạn khác
nhau cũng có nhiều cách hiểu khác nhau. Lần đầu tiên khái niệm tranh chấp
thương mại được đưa ra trong luật Thương mại 1997 và tiếp tục được khẳng định
trong Pháp lệnh về Trọng tài thương mại 2003. Tại Điều 238, Luật Thương mại
năm 1997 nêu rõ: “ Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không
2



thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung trong hoạt động thương mại”. Như
vậy, lần đầu tiên khái niệm tranh chấp thương mại được đưa ra đã cho ta hiểu một
cách khái quát về khái niệm tranh chấp thương mại cũng như cho ta thấy quan
điểm của các nhà làm luật của Việt Nam về vấn đề này. Tranh chấp thương mại
có những đặc điểm cơ bản như:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại. Nói cách khác, tranh chấp thương mại là sản phẩm của hoạt động
thương mại. Vì vậy, sự đa dạng của các lĩnh vực hoạt động thương mại quy định
tính chất, mức độ, hình thức của tranh chấp thương mại.
Thứ hai, chủ thể của tranh chấp thương mại là thương nhân.
Thứ ba, tranh chấp thương mại thường gắn liền với tài sản có giá trị lớn.
Khác với tranh chấp trong dân sự, tranh chấp thương mại thường có giá trị rất lớn,
mức độ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh rất lớn thậm chí có thể tác
động tới hoạt động của cả hệ thống kinh doanh của nền kinh tế. Do đó, việc giải
quyết thỏa đáng, nhanh gọn, hiệu quả, kịp thời tranh chấp thương mại là yêu cầu
hết sức cần thiết.
Tranh chấp thương mại có tính phản ứng dây chuyền. Tranh chấp thương
mại xảy ra trong một công đoạn nào đó của chu trình sản xuất kinh doanh thường
có mối quan hệ hữu cơ với các công đoạn khác. Vì thế, tranh chấp thương mại
mang tính dây chuyền và nếu không giải quyết dứt điểm, kịp thời có thể làm phát
sinh những tranh chấp tiếp theo trong nền kinh tế.
Tóm lại, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh trong đời sống kinh
tế - xã hội. Vì vậy, nó cũng hội tụ đầy đủ những đặc điểm của một tranh chấp nói
chung. Tuy nhiên, đây là loại tranh chấp đặc thù phát sinh trong hoạt động sản
xuất kinh doanh nên nó có những điểm khác biệt với các loại tranh chấp khác, đòi
hỏi phải có những phương thức giải quyết nhanh gọn, hiệu quả đáp ứng được nhu
cầu của các chủ thể kinh doanh.
2. Giải quyết tranh chấp thương mại.

Tranh chấp thương mại là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh doanh
và vì vậy, giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân trong nền
kinh tế. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, duy trì trật tự kinh tế
cần phải có một cơ chế giải quyết tốt nhất.
Giải quyết tranh chấp thương mại chính là việc lựa chọn các hình thức, biện
pháp thích hợp để giải tỏa mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo
lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Nói cách
3


khác, đây chính là quá trình các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp (
hòa giải, trọng tài viên, thẩm phán…) lựa chọn các biện pháp, hình thức phù hợp
để giải tỏa mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên. Tùy thuộc vào từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội, mức độ hoàn thiện của pháp luật, sự ảnh hưởng của văn hóa
dân tộc…của các quốc gia khác nhau có thể xây dựng các cách thức, biện pháp
giải quyết các tranh chấp khác nhau. Ngày nay, dưới sự tác động của nền kinh tế
thị trường, của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia trên thế giới đều
thừa nhận rộng rãi các hình thức giải quyết như: thương lượng, hòa giải, trọng tài
và tòa án.
Trong đó, hình thức hình thức giải quyết tranh chấp thương mại qua trọng tài
thương mại là một phương thức giải quyết quan trọng và khá phổ biến ở các nước hiện
nay. Đây là phương thức giải quyết có nhiều ưu thế trong đó nổi bật là tính nhanh gọn,
tính bí mật và phán quyết của trọng tài có tính chất chung thẩm. Đây cũng là con
đường được nhiều doanh nghiệp trên thế giới tin tưởng và lựa chọn. Các doanh nghiệp
của Việt Nam cũng đang đi theo xu hướng này.
Việt Nam đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO – một sân chơi mà
tranh chấp thương mại xảy ra thường xuyên. Vì vậy, các doanh nghiệp của Việt
Nam cần có cái nhìn nghiêm túc về phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài, từ đó, vận dụng phương thức này một cách hiệu quả nhất.
II. TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật TTTM)
quy định: Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên
thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này.
Xét bản chất, trọng tài là một hình thức tài phán tư, mang bản chất phi nhà
nước, không do nhà nước thành lập mà hình thành trên cơ sở quyền tự định đoạt
của các bên tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ý chí của các bên luôn
được tôn trọng. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên và thủ tục trọng tài
nhằm giải quyết một cách có hiệu quả nhất tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp
có thể được tiến hành bởi một Hội đồng trọng tài gồm nhiều thành viên hoặc gồm
nhiều trọng tài viên theo thỏa thuận của các bên.

4


Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại, Trọng tài thương mại có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên
thứ 3- các trọng tài viên hoặc một trọng tài duy nhất. Trọng tài do chính các bên
thỏa thuận lựa chọn. Trọng tài hoàn toàn độc lập với các bên, đứng giữa để giải
quyết tranh chấp, đưa ra phán quyết có tính bắt buộc đối với các bên để đảm bảo
quyền lợi của các bên.
Hai là, Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố
tụng chặt chẽ, khi giải quyết tranh chấp các trọng tài viên phải tuân theo đúng
trình tự quy định của luật trọng tài.
Ba là, kết quả việc giải quyết tranh chấp là phán quyết của trọng tài. Phán
quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm đối với các bên.
Như vậy có thể thấy, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp kết hợp
được nhiều ưu điểm của các hình thức giải quyết tranh chấp khác như đảm bảo sự

tự do thỏa thuận giữa các bên, đảm bảo sự chặt chẽ về mặt tố tụng và tính tài phán
như hình thức tòa án…
2. Các hình thức trọng tài
Trọng tài thương mại tồn tại dưới 2 hình thức đó là:
- Trọng tài vụ việc
- Trọng tài quy chế
2.1. Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc là hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định của luật
này và trình tự thủ tục do các bên thỏa thuận.
Gọi là trọng tài vụ việc vì nó được thành lập cho từng tranh chấp cụ thể với
các trọng tài viên được lựa chọn một lần để giải quyết riêng các tranh chấp đó và
trong tài cũng sẽ chấm dứt tồn tại sau khi giải quyết xong vụ tranh chấp đó.
Trọng tài vụ việc do các bên thành lập, các bên có quyền lựa chọn bất kì
người nào có phẩm chất tốt, trung thực, vô tư, khách quan và có năng lực thực sự
có thể làm trọng tài cho mình, trừ những người mà pháp luật cấm. Theo trọng tài
vụ việc, các bên có quyền lựa chọn các quy tắc tố tụng, thời gian, địa điểm tiến
hành tố tụng….Tuy nhiên quá trình giải quyết tranh chấp vẫn phải tuân theo các
quy tắc tố tụng mà pháp luật đã quy định.

5


2.2. Trọng tài quy chế
Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại một trung tâm trọng
tài theo quy định của luật trọng tài và quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài đó.
Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài hoạt động thường xuyên dưới hình
thức một trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có
điều lệ hoạt động, có danh sách trọng tài viên.
Như vậy, LTTTM năm 2010 thừa nhận cả hai hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại bằng trọng tài đó là trọng tài vụ việc và trọng tài quy chế. Việc

pháp luật thừa nhận cả hai hình thức này trong nền kinh tế thị trường đã đảm bảo
tối đa quyền tự lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp của các chủ thể kinh
doanh.
3. Cơ cấu tổ chức
Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ cấu
tổ chức của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của
trung tâm.
Ban điều hành của trung tâm trọng tài gồm có chủ tịch, một hoặc các phó
chủ tịch trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài.
Bên cạnh ban điều hành, trung tâm trọng tài còn có các trọng tài viên trong
danh sách trọng tài viên của trung tâm trọng tài. Các trọng tài viên tham gia vào
việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
4. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại
Trọng tài là một loại hình cơ quan tài phán, vấn đề đầu tiên mà pháp luật
quan tâm đến là thẩm quyền của trọng tài, để từ đó xác định loại tranh chấp nào
thuộc thẩm quyền xét xử của trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài là quyền hạn và
nghĩa vụ của trọng tài trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
Theo Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thì pháp lệnh cho phép trọng
tài giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại và theo Khoản
3 Điều 2 pháp lệnh quy định về: “hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay
nhiều hành vi thương mại cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng
hóa…..”
Đến Điều 2 LTTTM 2010 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
trọng tài như sau:
“Điều 2. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài

6


1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.

2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng Trọng tài”.
Như vậy có thể thấy, thẩm quyền của trọng tài theo Luật trọng tài 2010 quy
định cụ thể, rõ ràng hơn pháp lệnh trọng tài năm 2003. Thẩm quyền của trọng tài
được mở rộng hơn.
5. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
Các nguyên tắc cơ bản của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là
những tư tưởng pháp lí có tính chủ đạo, định hướng cho quá trình giải quyết tranh
chấp theo thủ tục trọng tài. Các nguyên tắc này xuyên suốt quá trình tố tụng trọng
tài nhằm đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp được chính xác, thuận tiện,
nhanh chóng. Các nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 LTTTM 2010, bao
gồm:
- Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm và trái pháp luật.
- Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp
luật.
- Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, Hội đồng trọng tài có
trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
- Phán quyết của trọng tài là chung thẩm.
III. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Ưu điểm
1.1. Thủ tục giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài đơn giản,
nhanh gọn, linh hoạt và không có nhiều công đoạn tố tụng.
Tranh chấp là điều không mong muốn trong kinh doanh, nếu có tranh chấp
thì các bên đều mong muốn tranh chấp được giải quyết nhanh chóng. TTTM đơn


7


giản về thủ tục tố tụng, nhanh chóng, linh hoạt về thời gian đã đáp ứng được yêu
cầu này. Tính đơn giản, nhanh chóng của thủ tục tố tụng trọng tài thể hiện ở:
- Quy tắc tố tụng không có nhiều bước, nhiều giai đoạn như tố tụng tại Tòa
án.
- Thời hạn tố tụng ngắn.
- Phán quyết của Trọng tài là chung thẩm.
- Trọng tài không có nguyên tắc xét xử trực tiếp.
Trong khi đó, nếu giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án theo thủ tục Tố
tụng dân sự thì quá trình tố tụng phải trải qua các giai đoạn, với thời hạn tố tụng
đã được quy định cụ thể trong BLTTDS.
Ví dụ: Nếu như việc xét xử tại tòa án không thể thiếu thủ tục hỏi và tranh
luận (mục 3, mục 4, Chương XIV BLTTDS 2005) thì phiên họp của trọng tài
không nhất thiết được tổ chức để các bên trực tiếp tranh luận. Quy định này đã tạo
điều kiện tiết kiệm thời gian để các thương nhân tập trung vào công việc kinh
doanh.
Với ưu thế có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh gọn, linh hoạt như
trên, hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài góp phần làm giảm tải hoạt
động xét xử của Toà án ở nước ta hiện nay. Theo thống kê của các cơ quan tư
pháp, tại Toà kinh tế Toà án nhân dân Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, từ năm
2005 đến nay năm nào số lượng vụ việc năm sau cũng tăng gấp đôi năm trước.
Tình hình đó ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, gây áp lực cao đối với các thẩm
phán, ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các doanh nghiệp về mức độ an toàn
pháp lý trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Trọng tài thương mại lúc này sẽ
là một giải pháp hữu hiệu làm giảm bớt những hiện tượng trên.
1.2. TTTM giải quyết các tranh chấp bảo đảm được bí mật kinh doanh và
úy tín nghề nghiệp của các bên tranh chấp.

Khoản 4 Điều 4 Luật TTTM quy định nguyên tắc của giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại: “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành
không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”. Khoản 1 Điều 55
Luật TTTM tiếp tục khẳng định: “Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến
hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.” Như vậy,
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp dựa trên nguyên tắc không bắt
buộc giải quyết công khai, trong khi đó Tòa án xét xử trên nguyên tắc công xét xử
công khai (Điều 15 BLTTDS). Đây là đặc điểm đặc trưng khác biệt của Trọng tài
8


so với phương thức giải quyêt tranh chấp tại Toàn án. Điều này đã tạo nên ưu thế
rất lớn của phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài so với Tòa án bởi
việc giữ bí mật kinh doanh và uy tín trong kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối
với sự phát triển và tồn tại của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các tranh chấp phát
sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh ảnh hướng rất lớn đến uy tín kinh
doanh. Nhất là đối với những vụ việc tranh chấp mà những bí mật kinh doanh
được đề cập đến là nội dung chủ yếu của tranh chấp. Khi đó các chủ thể kinh
doanh thường không muốn có tranh chấp, nếu có tranh chấp xảy ra thì không
muốn vụ tranh chấp đó bị nhiều người biết đến cũng như không muốn lộ những bí
mật kinh doanh của mình. Trọng tài đáp ứng được yêu cầu này trong việc giải
quyết tranh chấp, chính vì vậy đây là một điểm góp phần tạo nên sức hấp dẫn cho
Trọng tài.
1.3. TTTM giải quyết tranh chấp linh hoạt đảm bảo quyền tự định đoạt của
các bên tranh chấp
Theo quy định của pháp luật thì các bên có quyền tự quyết định có giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài hay không (ký thảo thuận trọng tài là cơ sở để xác
định các bên lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết), các bên có quyền lựa
chọn một trong hai hình thức là Trung tâm Trọng tài hoặc Hội đồng Trọng tài do
các bên thành lập để giải quyết vụ tranh chấp, đồng thời được tự do lựa chọn

trọng tài viên, lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài… Điều 9 Luật TTTM quy
định về thương lượng, hòa giải trong tố tụng trọng tài đã cụ thể hóa nguyên tắc
tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại. Theo đó, Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có quyền tự do
thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu
Hội đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
tranh chấp.
Với quy định của pháp luật như trên ta thấy được các ưu điểm của giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài như sau:
- Các bên được tự do lựa chọn một cách linh hoạt nhiều yếu tố sao cho phù
hợp với nguyện vọng của mỗi bên, đồng thời sự thỏa thuận giữa các bên được coi
trọng. Điều đó tạo nên tính dân chủ, khách quan trong quá trình tố tụng.
- Tố tụng trọng tài không bị ràng buộc về mặt lãnh thổ, nghĩa là các bên
muốn chọn trung tâm trọng tài nào cũng được, bất kể địa chỉ của họ ở đâu nên tạo
điều kiện cho các bên lựa chọn được địa điểm trọng tài sao cho thuận tiện cho các
bên trong việc giải quyết tranh chấp.
9


Hiện nay, những tranh chấp có yếu tố nước ngoài là một hiện tượng tất yếu
xảy ra trong hoạt động thương mại. Hiện tượng này ngày càng trở nên phổ biến kể
từ khi chúng ta gia nhập tổ chức thế giới WTO. Đối với tranh chấp này thì hình
thức trọng tài thương mại bộc lộ nhiều ưu điểm. Khi giải quyết tranh chấp có yếu
tố nước ngoài, các bên có có quyền lựa chọn trọng tài viên (Trọng tài viên có thể
là người có tên trong danh sách hoặc ngoài danh sách Trọng tài viên của các
Trung tâm Trọng tài của Việt Nam hoặc là Trọng tài viên nước ngoài), các bên có
thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài nước ngoài hoặc trọng tài Việt Nam để giải quyết
tranh chấp, lựa chọn ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng... Với một loạt quy định của
pháp luật như trên đã tạo được sự công bằng, khách quan cho tất cả các bên khi
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.

Qua phân tích trên ta thấy được đặc điểm nội trội của TTTM so với Tòa án
(mang tính khuôn mẫu, quyền tự do định đoạt và thỏa thuận của các bên chỉ giới
hạn trong một phạm vi nhất định). Với đặc điểm này TTTM hoàn toàn phù hợp
với hoạt động kinh doanh vốn nhạy cảm, linh hoạt và cũng là hoạt động phản ánh
đầy đủ tính chất tự do, tự định đoạt của giao dịch dân sự.
1.4. TTTM giải quyết tranh chấp mang tính thân thiện.
Như đã phân tích ở trên, nguyên tắc cơ bản là giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài phải xuất phát từ sự thỏa thuận. Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên là
yêu cầu bắt buộc đối với Trọng tài. Trọng tài không thể tham gia vào quá trình
giải quyết tranh chấp nếu không có sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, đồng
thời trong một số trường hợp trong tố tụng trọng tài cũng yêu cầu có sự thỏa
thuận. Điều này đòi hỏi phải có tính thân thiện mới có thể thực hiện được việc giải
quyết tranh chấp. Hơn nữa giải quyết tranh chấp tại Trọng tài thương mại hướng
đến việc giải quyết quyền và nghĩa vụ của các bên một cách công bằng, hợp lý
chứ không mang nặng tính hơn – thua như tại Tòa án. Do đó, sau khi có tranh
chấp và tranh chấp được giải quyết mối quan hệ giữa các bên có thể được tiếp tục
duy trì, tạo cơ sở cho việc thực hiện hoạt động hợp tác, kinh doanh sau này.
1.5. Phán quyết của TTTM có tính chính xác cao, giải quyết được một cách
đúng đắn những tranh chấp có nội dung từ những vấn đề kinh tế - kỹ thuật có tính
chuyên sâu.
Cùng với sự phát triển của kinh tế nội dung của các tranh chấp thương mại
ngày càng đa dạng, trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nội dung của tranh chấp
thường rất phức tạp, nhiều khi mang tính chất chuyên môn, chuyên ngành. Trong
khi đó, để giải quyết được tranh chấp một cách đúng đắn nhất thì hiểu biết của
10


người tham gia giải quyết tranh chấp về nội dung tranh chấp có ý nghĩa rất lớn. Ý
nghĩa này sẽ đạt được khi các bên lựa chọn hình thức trọng tài để giải quyết tranh
chấp. Bởi lẽ, khi sử dụng hình thức này các bên có quyền lựa chọn TTV, do đó

các bên có thể lựa chọn những TTV có trình độ chuyên môn sâu và có kinh
nghiệm giải quyết đối với lĩnh vực của vụ tranh chấp. Ngoài ra, pháp luật cũng đề
ra tiêu chuẩn Trọng tài viên, với quy định này sẽ tạo ra được một đội ngũ trọng tài
viên có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội. Tất cả
những điều đó là cơ sở để đảm bảo phán quyết của TTV đưa ra sẽ có tính chính
xác cao, giải quyết được một cách đúng đắn và hợp lý nhất mâu thuẫn tồn tại giữa
các bên. Ngoài ý nghĩa này ra, khi một phán quyết được đưa ra là đúng đắn có
tính thuyết phục sẽ là cơ sở để các bên thực hiện phán quyết. Do giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài được tiến hành không công khai nên những vấn đề nhạy cảm
cũng có thể được đưa ra để xem xét. Việc đánh giá và sử dụng nguồn chứng cứ tại
các cơ quan trọng tài được mở rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo
điều kiện cho các bên làm sáng tỏ những vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó, toà án
áp dụng các chứng cứ để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các
bên tham gia tố tụng không có cơ hội làm sáng tỏ hết được nhiều vấn đề khúc
mắc, không thể hiện trên các chứng cứ “pháp lý”.
Đây được coi là một ưu điểm của việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
So sánh hình thức giải quyết bằng Tòa án thì thẩm phán là người cầm cân nảy
mực và thường chỉ có kiến thức pháp luật mà không có kiến thức chuyên ngành
kinh tế - kỹ thuật. Do đó đây là một điểm góp phần làm nên hiệu quả của phương
thức giải quyết tranh chấp này.
1.6. Trọng tài không đại diện cho quyền lực nhà nước nên thích hợp để giải
quyết tranh chấp mà các bên có quốc tịch khác nhau.
Trọng tài mang tính chất phi Chính phủ, không nằm trong cơ cấu bộ máy
nhà nước nên khi giải quyết tranh chấp Trọng tài không bị chi phối bởi cơ quan
nhà nước của bất cứ quốc gia nào. Trong khi đó, Tòa án là cơ quan tư pháp của
một quốc gia. Phán quyết của tòa án thể hiện ý chí của một nhà nước. Ý chí đó
được đưa ra không phải lúc nào cũng chính xác và công bằng với các bên chủ thể.
Tòa án đứng về phía bên tranh chấp có quốc tịch nước mình là điều dễ xảy ra nên
tính công bằng và khách quan của việc giải quyết tranh chấp lúc này không được
đảm bảo.

1.7. Phán quyết của TTTM được công nhận và thi hành ở nước ngoài.

11


Đây là đặc điểm thể hiện tính ưu việt của hình thức giải quyết tranh chấp
bằng trong tài thương mại so với Tòa án. Thực tế, có nhiều phán quyết của Tòa án
đưa ra để giải quyết vụ án và phán quyết đó đã có hiệu lực thi hành nhưng việc thi
hành lại gặp nhiều khó khăn. Nhất là các bên chủ thể là người nước ngoài nay
không cư trú tại Việt Nam cố tình không thực thi phán quyết hoặc những tài sản
liên quan đến tranh chấp đang ở nước ngoài.
Khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thì sự thỏa thuận của
các bên được đề cao. Tranh chấp được giải quyết trên cơ sở sự thể hiện ý chí của
các bên tham gia tranh chấp thì phán quyết (của trọng tài) sẽ dễ dàng được các
bên chấp nhận và thi hành trên thực tế. Xuất phát từ điều này, phán quyết trọng tài
thương mại được công nhận và cho thi hành ở nước ngoài như là một nguyên tắc
của giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Công ước New York năm 1958 về công
nhận và cho thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài là văn bản pháp lý
mang tính quốc tể thể hiện tầm quan trọng của vấn đề này cũng như là cơ sở pháp
lý đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện với việc quy định “không được
đặt các điều kiện về văn bản nặng hơn hoặc các phí hay chi phí cao hơn cho việc
thi hành và công nhận các quyết định Trọng tài mà Công ước này áp dụng tới so
với công nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài trong nước”.
2. Hạn chế
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm so với các hình thức
giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, hòa giải và thương lượng. Tuy nhiên hình thức
này chưa phải là hoàn hảo, bên cạnh những ưu điểm của mình thì trọng tài vẫn tồn
tại nhiều hạn chế.
- Biểu hiện rõ nhất là phán quyết trọng tài không được xem xét về mặt nội
dung; cơ chế hỗ trợ việc ra phán quyết chưa đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất cho

HĐTT.
Trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm
đây là một nguyên tắc cơ bản của trọng tài, điều này làm tăng hiệu lực cho phán
quyết trọng tài. Trong khi đó, đối với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án lại
được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử nên phán quyết của Tòa án có
nhiều cơ hội để xem xét lại theo thủ tục Tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Nếu phán
quyết của trọng tài có sai sót về mặt nội dung, không đảm bảo giải quyết quyền và
nghĩa vụ của các bên thì cũng không có cơ hội sửa chữa, thay đổi cũng như hủy
bỏ. Các bên không có quyền yêu cầu Tòa án cũng như bất kì cơ quan nào xem xét
lại quyết định trọng tài. Phán quyết chỉ mất giá trị khi bị Tòa án tuyên hủy quyết
12


định trọng tài nếu HĐTT ra quyết định trọng tài đã vi phạm các quy định về tố
tụng. Đây có thể coi là một rủi ro của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
III. THỰC TRẠNG VIỆC ÁP DỤNG PHƯƠNG THỨC TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM
Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại là một phương thức
rất phổ biến và được ưa chuộng trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, hình thức này vẫn chưa được áp dụng nhiều và hoạt động của trọng tài
thương mại ở Việt Nam vẫn còn rất kém hiệu quả. Các doanh nghiệp Việt Nam
chưa quen dùng trọng tài thương mại và khi có tranh chấp xảy ra họ thường đưa
nhau ra toà án để giải quyết.
Thông tin từ Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp cho biết, hiện nay cả nước có
6 trung tâm trọng tài thương mại. Đây là con số không hề ít và thậm chí còn nhiều
hơn các nước nhưng năng lực hoạt động của các trung tâm còn nhiều hạn chế.
Trước hết, các trung tâm còn thiếu nhiều chuyên gia giỏi, cơ sở vật chất còn yếu...
nên hoạt động không hiệu quả.
Trong 6 trung tâm trọng tài hiện có thì chỉ có Trung tâm trọng tài thương

mại Quốc tế bên cạnh VCCI là hoạt động khá hơn cả với khoảng 30 - 40 vụ được
giải quyết mỗi năm. Các trung tâm còn lại chỉ 5 - 7 vụ mỗi năm, thậm chí có trung
tâm không hề giải quyết một vụ nào. Tuy nhiên, theo như nhận định của Trung
tâm thì con số 30 - 40 vụ kiện thụ lý mỗi năm vẫn không phải là nhiều nếu so với
các nước trong khu vực, chưa tương xứng với số lượng các giao dịch thương mại
đang diễn ra tại Việt Nam và vẫn chưa có sự gia tăng đột biến như mong đợi, vì
vẫn nằm trong phạm vi bình quân 30 vụ/năm.
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang tiến hành nhiều công trình nghiên cứu để tìm
các biện pháp thúc đẩy sự phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam. Đây là
một điều cần thiết vì trong cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề xây dựng các
cơ chế giải quyết tranh chấp là một trong những cam kết của Việt Nam. Trong
nhiều hiệp định, Việt Nam và các đối tác khuyến khích các bên tranh chấp giải
quyết thông qua trọng tài thương mại.

13


IV. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN PHƯƠNG THỨC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Nhằm hoàn thiện hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết các
tranh chấp thương mại thì bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật cũng
như các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước, còn cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động
của các Trung tâm trọng tài thương mại cũng như nâng cao sự tin tưởng của các
doanh nghiệp vào việc sử dụng hình thức này trong việc giải quyết các tranh chấp
thương mại…
1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về trọng tài
Có thể khẳng định rằng LTTTM năm 2010 có một số điểm mới cơ bản và
hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng trọng tài các nước trên thế giới.
Những điểm mới quan trọng trong Luật trọng tài năm 2010 đã khắc phục
được những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 như phân định

không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương
mại; luật đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
thương mại của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích
của các bên. Đồng thời, Luật trọng tài năm 2010 cũng đã khắc phục sự không rõ
ràng của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại năm 2003 về các tình huống có thể làm
vô hiệu thỏa thuận trọng tài; bổ sung một số nội dung về quy chế trọng tài. Bên
cạnh đó, Luật cũng giúp nâng vị thế của trọng tài một cách đáng kể thông qua việc
cho phép Hội đồng trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời...
Những điểm mới đó của Luật trọng tài năm 2010 sẽ là động lực to lớn cho
sự phát triển việc áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết các
tranh chấp thương mại ở Việt Nam.
Tuy nhiên, trong thời gian tới pháp luật về trọng tài thương mại cũng cần
theo sát tình hình phát triển thực tế của đất nước nói chung cũng như tình hình
phát triển của hình thức áp dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải
quyết các tranh chấp thương mại ở Việt Nam, nếu cần thay đổi phải thay đổi cho
phù hợp với các điều kiện mới này.
2. Nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm trọng tài thương
mại
Các Trung tâm Trọng tài cần chủ động, tích cực hơn trong việc mở rộng
danh sách Trọng tài viên, đặc biệt chú trọng tới các chuyên gia có uy tín và trình

14


độ chuyên môn cao; bồi dưỡng nâng cao trình độ của các Trọng tài viên hiện có
nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp của trung tâm. Bên cạnh đó, mỗi
Trung tâm cần tăng cường hợp tác với các tổ chức trọng tài trong và ngoài nước
nhằm học hỏi kinh nghiệm cũng như nhận được những sự hỗ trợ cần thiết; thường
xuyên tổ chức việc tuyên truyền, giới thiệu về tổ chức và hoạt động của mình…

Nếu làm được như vậy, chắc chắn hoạt động trọng tài theo quy định của LTTTM
năm 2010 sẽ có những chuyển biến tích cực, những kết quả đáng kể hơn trong
thời gian tới.
3. Nâng cao sự tin tưởng của các doanh nghiệp trong nước vào việc sử
dụng hình thức trọng tài thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp
thương mại
Việc hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện, chất lượng của các
trung tâm trọng tài thương mại được nâng cao sẽ góp phần tạo sự tin tưởng của
các doanh nghiệp trong nước vào việc sử dụng hình thức trọng tài thương mại
trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại. Chắc chắn trong thời gian tới,
cùng với sự phát triển không ngừng nền kinh tế thị trường, các quan hệ mua bán
ngoại thương cũng ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp sẽ ưu tiên sử dụng hình
thức trọng tài thương mại thay cho việc sử dụng hình thức “truyền thống” của họ
là toà án khi có tranh chấp xảy ra.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cũng cần có những biện pháp như giới
thiệu những ưu điểm của việc sử dụng hình thức trọng tài thương mại… đến các
doanh nghiệp nhằm giúp các doanh nghiệp có cái nhìn đúng đắn về việc sử dụng
hình thức này trong bối cảnh hiện nay.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Pháp luật về thương mại nói chung và pháp luật về trọng tài thương mại
nói riêng của nước ta ngày càng hoàn thiện hơn, là cơ sở vững chắc cho các mối
quan hệ kinh tế phát triển một cách ổn định, đưa nền kinh tế đất nước hội nhập với
nền kinh tế của thế giới.
Có thể nói, Luật trọng tài thương mại năm 2010 đã tạo ra một khuôn khổ
pháp lí mới cho tổ chức và hoạt động trọng tài thương mại nước ta. Mặc dù còn
một số hạn chế nhất định nhưng chúng ta vẫn có thể tin rằng trọng tài thương mại
là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiệu quả, là một trong
những lựa chọn hàng đầu của các nhà kinh doanh hiện nay.


15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Giáo trình, luận văn và tạp chí luật học.
1.

Giáo trình Luật Thương mại, tập 2. Trường Đại học luật Hà Nội. NXB:
CAND.

2.

Một số vấn đề cơ bản về thoả thuận trọng tài thương mại quốc tế. Trần Hữu
Huỳnh. Tạp chí luật học. Số 1,/2000, Tr.18-25.

3.

Sự hỗ trợ của cơ quan Tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại.
Luận văn thạc sĩ luật học: Nguyễn Thị Yến; Người hướng dẫn khoa học: TS.
Nguyễn Viết Tý.

4.

Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt
Nam. Nguyễn Trung Tín.

5.

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thoả thuận trọng tài đối với giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam : Khoá luận tốt nghiệp:

Nguyễn Thị Thu Thảo; Người hướng dẫn: TS. Vũ Đặng Hải Yến . - Hà Nội, 2010.

6.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương
mại ở Việt Nam. Khoá luận tốt nghiệp. Mã Hồng Nhung; Người hướng dẫn: ThS.
Đoàn Trung Kiên.
* Văn bản luật:

1.

Luật trọng tài thương mại năm 2010.

2.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005.

16



×