LỜI NĨI ĐẦU
Trong thời kì bao cấp chất lượng sản phẩm khơng phải là vấn đề quyết
định vì sản phẩm sản xuất ra đã có nhà nước tiêu thụ, vì vậy mà các doanh
nghiệp chỉ quan tâm đến việc chạy đua tăng năng suất để vượt mức kế hoạch,
còn chất lượng sản phẩm thì bị lơi lỏng bỏ quên. Nhưng ngày nay trong cơ chế
thi trường có sự quản lý của nhà nước, trong xu thế tồn cầu hố về kinh tế, sự
cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên quyết liệt thì chất lượng sản
phẩm và dịch vụ, sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng, sự hợp lí về giá cả
đảm bảo đúng thời gian giao hàng sẽ là những nhân tố quyết định sự thành bại
của doanh nghiệp. Vì vậy ngày nay chất lượng sản phẩm là một trong ngững
mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp. Đặc biệt là ngành may mặc, một
ngành sản xuất hàng hố tiêu dùng có tính thời vụ thì chất lượng sản phẩm
càng trở thành một vấn đề quan trọng. Với tính chất quan trọng của chất
lượng sản phẩm và đặc điểm của ngàmh may mặc thì ta thấy rằng vấn đề chất
lượng và quản lý chất lượng sản phẩm ngành may mặc cần được quan tâm
nghiên cứu và giải quyết. Tuy rằng đây là một cơng trình nghiên cứu cịn sơ
sài, trình độ cịn nhiều hạn chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, song tơi
cũng hy vọng rằng đây sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan
tâm đến vấn đề này. Rất mong sẽ được sự tham gia góp ý của cá thầy các cô
và các bạn.Tôi xin chân thành cảm ơn.
1
-
-
-
Phần I : Cơ sở lý luận về chất lượng và quản lý chất lượng
1.Chất lượng sản phẩm là gì?
1.1 Các quan điểm về chất lượng
Có thể nói chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế kĩ thuật khá trừu
tượng .Khi nhìn nhận sản phẩm trên những góc độ khác nhau ta lại có những
quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm
Quan niệm siêu việt về chất lượng : chất lượng là sự tuyệt hảo của sản
phẩm so với sản phẩm cùng loại
Quan niệm chất lượng sản phẩm theo hướng sản phẩm: đứng trên góc độ
này người ta cho rằng chất lượng sản phẩm là một tập hợp các thuộc tính
phản ánh tính năng tác dụng của sản phẩm đó
Quan niệm chất lượng hướng theo người sản xuất: đứng trên góc độ người
sản xuất thì họ cho rằng chất lượng sản phẩm là sự phù hợp và đạt được của
một sản phẩm so với một tập hợp các yêu cầu và hệ thống tiêu chuẩn đã được
thiết kế từ trước
Quan niệm chất lượng theo thị trường cho rằng chất lượng sản phẩm là sự
phù hợp với mục đích và yêu cầu của người sử dụng (xuất phát từ nhu cầu của
thị trường)
+ Xuất phát từ giá cả (mối quan hệ giữa lợi ích của sản phẩm với chi phí
phải bỏ ra ) chất lượng là cung cấp những sản phẩm dịch vụ ở mức giá mà
khách hàng có thể chấp nhận được
+ Xuất phát từ cạnh tranh ta lại có định nghĩa : chất lượng đó là cung
cấpnhững đặc điểm của sản phẩm và dịch vụ mà đối thủ cạnh tranh khơng có .
2
-
-
Mỗi định nghĩa trên đều xuất phát từ một khía cạnh nhất định vì vậy tuy
ở mỗi cách đêù có những ưu điểm nhất định song cũng đều không tránh khỏi
những hạn chế nhất định để đưa ra một định nghĩa dễ hiểu, loại bỏ được
những hạn chế trên thì tổ chức tiêu chuẩn hố quốc tế (ISO) có định nghĩa
trong ISO 9000 như sau: ” chất lượng là một tập hợp các tính chất và đặc
trưng của sản phẩm có khả năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra hoạc tiềm
ẩn”
1.2 Các yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm
-
Trong một sản phẩm có nhiều nhóm thuộc tính thể hiện chất lượng sản
phẩm như:
-
- Các thuộc tính phản ánh chức năng tác dụng của sản phẩm thể hiện
khả năng của sản phẩm có thể thực hiện chức năng hoạt động như mong
muốn
-
-
-
-
-
-
- Tuổi thọ sản phẩm thể hiện khả năng giữ được tính năng tác dụng
trong điều kiện hoạt động bình thường trong khoảng thời gian nhất định
- Tính thẩm mĩ của sản phẩm : là các thuộc tính thể hiện sự gợi cảm thu
hút khách hàng như hình dáng màu sắc kích thước, cách trang trí, tính thời
trang…
- Độ tin cậy của sản phẩm : là khả năng thực hiện đúng tính năng hoạt
động như thiết kế và hoạt động chính xác
- Tính kinh tế của sản phẩm thể hiện ở tiết kiệm chi phí tổng sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm
-Tính tiện dụng của sản phẩm thể hiện ở khả năng dễ bảo quản, dễ vận
chuỷên, dễ sửa chữa, dễ sử dụng
- Tính an tồn của sản phẩm khác với các thuộc tính trên đối với tính an
tồn của sản phẩm do nhà nước qui định các sản phẩm phải tuân thủ qui định
về tính an toàn sản phẩm
3
-
-
-
-
-
-
-
-
-
- Mức độ gây ô nhiễm của sản phẩm do các tổ chức các quốc gia qui
định
- Các dịch vụ kèm theo như bảo hành vận chuyển hướng dẫn
1.3 . Đặc điểm của chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm được cấu thành bởi nhiều yếu tố vì vậy nó sẽ có rất
nhiều đặc điểm khác nhau . Dưới đây là một vài đặc điểm chung nhất
- Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp các yếu tố kinh tế xã hội
kĩ thuật vì vậy nó được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu kinh tế kĩ
thuật văn hố của sản phẩm
- Chất lượng có ý nghĩa tương đối có nghĩa là chất lượng thường xun
thay đổi theo khơng gian và thời gian.
Có thể ở giai đoạn này sản phẩm có chất lượng được đánh giá là cao
nhưng ở giai đoạn sau thì khơng chắc đã cao do khoa học kĩ thuật ngày càng
phát triển và nhu cầu của con người cũng ngày càng cao hơn. Vì vậy chất
lượng chỉ được đánh giá theo từng thời điểm. Các nhà sản xuất phải nắm
chắc đặc điểm này để luôn luôn đổi mới và cải tiến công nghệ để ngày càng
nâng cao chất lượng sản phẩm để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị
trường .
- Chất lượng chỉ phù hợp ở từng thị trường cụ thể do nhu cầu và sở thích
của người dân ở mỗi vùng là khác nhau .Vì vậy khi đưa sản phẩm mới vào thi
trường thì doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ thị trường đó.
- Chất lượng vừa mang tính trừu tượng vừa mang tính cụ thể . Tính trừu
tượng thơng qua sự phù hợp, nó phản ánh mặt chủ quan của sản phẩm và phụ
thuộc vào nhận thức của khách hàng. Nâng cao chất lượng loại này sẽ có tác
dụng tăng khả năng hấp dẫn thu hút khách hàng nhờ đó tăng khả năng tiêu thụ
sản phẩm. Chất lượng phải thông qua các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật, cụ thể được
thể hiện thông qua chất lượng tuân thủ thiết kế, thơng qua tính khách quan
4
-
của sản phẩm. Nâng cao chất lượng loại này làm giảm chi phí và tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có khả năng thực hiện chính sách giá cả linh hoạt.
- Chất lượng sản phẩm chỉ thể hiện đúng trong điều kiện tiêu dùng cụ
thể, phù hợp với mục đích sử dụng nhất định.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp kinh tế kĩ thuật xã hội
nên nó chịu sự tác động, ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế, kĩ thuật, xã
hội. Vì vậy nhà sản xuất cần quan tâm đến các yếu tố đó để ngày càng đáp
ứng tốt nhu cầu về chất lượng sản phẩm của thị trường.
1.4.1. Các nhân tố bên ngồi .
- Tình hình thị trường : tình hình thị trường tác động đến sản phẩm có ý
nghĩa quyết định đến định hướng xác định sản phẩm thông qua
Thứ nhất là đặc điểm của nhu cầu thị trường, đây là căn cứ để xác định
đặc điểm của sản phẩm . Có xác định được đặc điểm của nhu cầu thị trường
thì sản phẩm sản xuất ra mới phù hợp với thị trường có như vậy sản phẩm
mới dược thị trường chấp nhận
Thứ hai là sự cạnh tranh trên thị trường tạo ra sức ép buộc các doanh
nghiệp phải đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm .
- Tiến bộ khoa học công nghệ: tiến bộ khoa học cơng nghệ tác động tồn
diện nhất đến chất lượng sản phẩm: khoa học công nghệ tạo khả năng để nâng
cao chất lượng sản phẩm thông qua:
Thứ nhất thông qua việc tạo ra được các nguyên vật liệu mới thay thế
nguyên vật liệu truyền thống tạo ra đầu vào có chất lượng cao hơn
Thứ hai là tạo ra thiết bị sản xuất mới có khả năng sử dụng tiết kiệm
ngun vật liệu hơn, có tính chính xác hơn nên tạo ra sản phẩm có thuộc tính
chỉ tiêu chất lượng cao hơn
5
- Cơ chế và chính sách quản lý : cơ chế hoạt động và chính sách quản lý
có tác động rất lớn đến chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp thơng qua:
+ Tạo ra mơi trường bình đẳng bảo vệ lợi ích của những nhà sản xuất
trong việc đầu tư nghiên cứu để nâng cao chất lượng sản phẩm
+ Tạo ra môi trường cạnh tranh, đây là điều kiện cần thiết để các doanh
nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm
+Tạo ra mơi trường thuận lợi để kích thích và định hướng cho sự phát
triển của doanh nghiệp .
1.4.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
Doanh nghiệp là người trực tiếp tạo ra sản phẩm vì vậy tất cả khâu các
giai đoạn của quá trình sản xuất các yếu tố tham gia vào q trình sản xuất
đều có tác động đến chất lượng sản phẩm. Nói đến các nhân tố bên trong
doanh nghiệp tác động đến chất lượng sản phẩm người ta thường nghĩ đến
nguyên tắc 4M
-Con người(Men): con người là chủ thể của mọi hoạt động, của quá trình
san xuất vì vậy con người là yếu tố quan trọng trong việc quản lý để nâng cao
chất lượng sản phẩm thơng qua: tay nghề, lịng nhiệt tình, tính sáng tạo…
- Máy móc thiết bị (Machinezy): là cơng cụ phương tiện để tạo ra sản
phẩm vì vậy chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ kĩ thuật và tính đồng
bộ của máy móc thiết bị của doanh nghiệp
- Nguyên vật liệu(Materials): là thứ cấu thành sản phẩm nên chất lượng
sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng nguên vật liệu, thời gian cung ứng
nguyên vật liệu, bảo quản nguyên vật liệu …
- Quản lý( Management): trong doanh nghiệp nếu có 3 điều kiện trên đã
tốt mà khâu quản lý kém, sự kết hợp giữa các khâu khơng tốt thì chất lượng
sản phẩm cũng khơng cao. Vì vậy khâu quản lý cũng có vai trị quyết định
đến chất lượng sản phẩm .
6
1.5. Vai trò của chất lượng sản phẩm .
Chất lượng sản phẩm có vai trị quyết định sự sống cịn của doanh
nghiệp, nó thể hiện ở
- Chất lượng sản phẩm thể hiện sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường. Sản phẩm có sức cạnh tranh lớn sẽ được tiêu thụ nhiều làm tăng thu
nhập cho doanh nghiệp
- Chất lượng sản phẩm có ảnh hưởng trực tiếp đến tài sản vơ hình (uy
tín) của doanh nghiệp trên thị trường…
2.Quản lý chất lượng sản phẩm
2.1. Các quan điểm về quản lý chất lượng (hay sự đóng góp của các chuyên
gia hàng đầu về chất lượng )
Trong mỗi giai đoạn mỗi thời kì phát triển của sản xuất cơng nghiệp
người ta lại có những quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng và ở mỗi
thời kì lại nổi lên những tên tuổi lớn đại diện cho những phương pháp quản lý
chất lượng hay (theo những quan điểm về quản lý chất lượng nhất định )
*Shewharts : ông là người đề xuất việc sử dụng các cơng cụ thống kê
trong kiểm sốt chất lượng . Theo ơng tất cả mọi q trình hoạt động đều có
sự biến động, chính sự biến động làm sản phẩm sản xuất ra có chất lượng
khơng đồng đều nhau .Nhưng điều quan trọng là có thể nhận biết được vấn đề
biến động đó và kiểm sốt được nó bằng những cơng cụ thống kê đơn giản
nhờ đó đảm bảo chất lượng sản phẩm sản xuất ra là luôn nằm trong giới hạn
tiêu chuấn sản phẩm cho phép
*E. Deming : ông cho rằng
- Quản lý chất lượng là một hoạt động cải tiến liên tục được thực hiện
theo vòng tròn chất lượng :hoạch định chất lượng ,thực hiện chất lượng kiểm
tra chất lượng điều chỉnh cải tiến chất lượng
7
- Quản lý chất lượng là trách nhiệm trước tiên là của cán bộ quản lý cấp
cao của doanh nghiệp
- Giảm sự lệ thuộc vào các biện pháp kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối
cùng
- Xây dựng các trương trình đào tạo giáo dục khuyến khích người lao
động tham gia vào quá trình quản lý chất lượng .
*P. Crosby: quan điểm của ơng về quản lý chất lượng
-Phịng ngừa là biện pháp cơ bản để thực hiện quản lý chất lượng trong
doanh nghiệp. Tiêu chuẩn để đánh giá tìng hình quản lý chất lượng trong các
doanh nghiệp là không sai lỗi
-Tất cả mọi vấn đề chất lượng đều có thể đánh giá đo đếm được thơng
qua chi phí nhờ đó căn cứ để đưa các quyết định cải tiến chất lượng
*Feigenbaun: ông là người đầu tiên đề xuất phương pháp quản lý chất
lượng toàn diện. Tức là quản lý chất lượng phải được thực hiện ở tất cả mọi
khâu, mọi hoạt động trong doanh nghiệp và quản lý chất lượng là trách nhiệm
của mọi thành viên trong doanh nghiệp, quản lý chất lượng cần có sự phối
hợp chặt chẽ với khách hàngvà người cung ứng.
*K. Ishikawa: ông là người đề xuất việc sử dụng sơ đồ nhân quả (sơ đồ
xương cá) trong quản lý chất lượng và ông cũng là người đề xuất cũng như
trực tiếp tổ chức nhóm chất lượng trong các doanh nghiệp .
* Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế(ISO)” Quản lý chất lượng là hệ
thống các hoạt động. Các biện pháp, phương pháp và qui định hành chính,
kinh tế kĩ thuật tổ chức … dựa trên những thành tựu khoa học kĩ thuật, nhằn
sử dụng tối ưu các tiếm năng trong kinh doanh để bảo đảm duy trì và khơng
ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm (thiết kế , sản xuất ,tiêu thụ và tiêu
dùng ), thoả mãn nhu cầu của xã hội.” (định nghĩa về quản lý chất lượng trong
ISO 9000).
8
2.2 Các giai đoạn phát triển của quản lý chất lượng
Cho đến nay quản lý chất lượng đã chải qua ba giai đoạn phát triển
khácnhau
*Giai đoạn 1 (từ đầu thập kỉ 20 dến 1939) :đây là quá trình hình thành và
phát triển của quản lý chất lượng. Ở giai đoạn này chưa có khái niện về quản
lý chất lượng mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng .Đây là giai đoạn mà
người ta đòng nghĩa quản lý chất lượng và kiểm tra chất lượng, quản lý chất
lượng được hiểu theo nghĩa hẹp vì vậy chức năng chủ yếu là kiểm tra chất
lượng .
Mục đích của quản lý chất lượng ở giai đoạn này là phát hiện sản phẩm
không đạt tiêu chuẩn ,tách ra khỏi những sản phẩm tốt để đảm bảo sản phẩm
cuối cùng khi xuất xưởng luôn đạt tiêu chuẩn.
Xuất phát từ mục đích quản lý chất lượng ở giai đoạn này mà nhiệm vụ
quản lý chất lượng được giao cho các cán bộ kĩ thuật, bộ phận kiểm tra chất
lượng được tăng cường củng cố, với những doanh nghiệp lớn thường thành
lập phòng kiểm tra chất lượng riêng
Vì phương pháp thực hiện quản lý chất lượng ở giai doạn này là kiểm tra
chất lượng nên ở giai đoạn này quản lý chất lượng kém hiệu quả, chỉ thực
hiện trong khâu sản xuất
Cho đến cuối giai đoạn này một số doanh nghiệp đã bước đầu sử dụng
công cụ thống kê đơn giản trong quản lý chất lượng .
*Giai đoan 2 (từ 1947 đến cuối những năm 60) ở giai đoạn này quản lý
chất lượng có những đặc đIểm sau:
- Đã có sự thay đổi về nhận thức trong quản lý chất lượng, khái niệm
quản lý chất lượng ra đời thay cho khái niệm kiểm tra chất lượng . Quản lý
chất lượng được hiểu theo nghĩa rộng hơn, nó bao gồm bốn chức năng chủ
9
yếu: hoạch định chất lượng, thực hiện chất lượng kiểm tra chất lượng, điều
chỉnh cải tiến chất lượng (thể hiện bằng vòng tròn chất lượng
- Quản lý chất lượng trở thành trách nhiệm cơ bản của cán bộ quản lý
đồng thời có phân định rõ ràng về nhiệm vụ quản lý chất lượng giữa cán bộ kĩ
thuật cán bộ quản lý và người lao động.
- Các hoạt dộng quản lý tập chung vào các biện pháp phòng ngừa, làm
giảm vai trò của kiểm tra chất lượng
- Tiếp tục mở rộng các công cụ thống kê trong quản lý chất lượng
*Giai đoạn 3 (từ 1970 đến nay) : ở giai doạn này quản lý chất lượng có
những đặc điểm nổi bật sau
- Chuyển từ quản lý chất lượng thông thường sang quản lý chất lượng
toàn diện (TQM): đây là phương pháp quản lý chất lượng mà quá trình quản
lý chất lượng được thực hiện ở tất cả mọi khâu mọi hoạt động trong doanh
nghiệp .
- Quản lý chất lượng là trách nhiệm của tất cả mọi thành viên trong
doanh nghiệp
- quản lý chất lượng cần có sự phối hợp chặt chẽ với khách hàng và
người cung ứng.
2.3 Hệ thống quản lý chất lượng và nội dung quản lý chất lượng theo hệ thống
quản lý chất lượng
2.3.1 Thực chất và vai trò của hệ thống quản lý chất lượng
*Khái niệm hệ thống quản lý chất lượng: hệ thống quản lý chất lượng là
một tập hợp các cơ cấu tổ chức, quản lý, trách nhiệm, thủ tục, phương pháp,
và nguồn lực cần thiết để thực hiện quản lý chất lượng của doanh nghiệp
* Cấu trúc của hệ thống quản lý chất lượng
- Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp bao gồm
10
+Vai trò trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo cấp cao trong doanh nghiệp về
vấn đề chất lượng
+ Quyền hạn và trách nhiệm của các đơn vị bộ phận trong doanh nghiệp
+ Mối quan hệ giữa các đơn vị bộ phận trong việc thực hiện các nhiệm
vụ được đặt ra .
+ Các qui trình thủ tục cho việc đảm bảo cải tiến chất lượng trong doanh
nghiệp
- Chính sách chất lượng của doanh nghiệp: do ban lãnh đạo cấp cao của
doanh nghiệp ban hành ,nó phải được cơng bố rộng rãi trước toàn bộ nhân
viên. Giám đốc cam kết thực hiện bằng văn bản . Nội dung của văn bản là viết
những gì sẽ làm và cam kết phải làm những gì đã viết.
- Mục tiêu chất lượng : đó là một cáI đích mà doanh nghiệp phải đạt
được trong một thời gian nhất định (bao gồm mục tiêu tổng quát và mục tiêu
cụ thể)
- Kế hoạch chất lượng là một tài liệu đề cập đến từng hoạt động sản
xuất, cung cấp ra sản phẩm, dịch vụ. Trong đó chỉ ra những hoạt động cụ thể
cần thiết để đảm bảo về chất lượng sản phẩm, dịch vụ đó.
- Hệ thống tài liệu chất lượng là một hệ thống tài liệu gồm có: sổ tay
chất lượng, q trình thủ tục, các hướng dãn công việc. Cụ thể
+ Sổ tay chất lượng là bản mơ tả về chính sách chất lượng, những điều lệ
về chất lượng thuộc doanh nghiệp .
+ Qui trình thủ tục là sự mơ tả về tồn bộ qui trình hoạt động của một
cơng việc nào đó cần thực hiện
+ Các hướng dẫn công việc là bản hướng dẫn được dùng để thực hiện
những công việc phức tạp: bản vẽ kĩ thuật, hướng dẫn kĩ thuật…
*Những hệ thống quản lý chất lượng đang được áp dụng
11
- QS 9000 là hệ thống quản lý chất lượng áp dụng cho các doanh nghiệp
sản xuất ô tô
- Hệ thống quản lý chất lượng tổng hợp (TQM)
- Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
- Hệ thống quản lý chất lượng HCCAD áp dụng cho doanh nghiệp chế
biến thực phẩm
- Hệ thống quản lý chất lượng GMP áp dụng cho các doanh nghiệp dược
phẩm.
- Hệ thống quản lý chất lượng Q Bass áp dụng cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ
- Hệ thống quản lý chất lượng ISO 14000 là hệ thống quản lý chất lượng
môi trường
* Yêu cầu trong tổ chức hệ thống quản lý chất lượng
- Hệ thống quản lý chất lượng phải dựa trên phịng ngừa là chính
- Hệ thống quản lý chất lượng phải có cấu trúc rõ ràng, xây dựng rõ chức
năng nhiệm vụ của từng bộ phận trong doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo sự
phối hợp, hợp tác chặt chẽ giữa các đơn vị
- Hệ thống quản lý chất lượng phải phù hợp với lĩnh vực kinh doanh và
qui mô hoạt động của doanh nghiệp .
- Hệ thống quản lý chất lượng phải đảm bảo tính đồng bộ và tồn diện
- Hệ thống quản lý chất lượng phải có sự tham gia trực tiếp của mọi
thành viên, mọi đơn vị bộ phận vào quá trình xây dựng và triển khai.
* Vai trò của hệ thống quản lý chất lượng
- Hệ thống quản lý chất lượng là một phân hệ cơ bản trong hệ thống sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp nó có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ
thống khác và đảm bảo liên kết với các hệ thống khác trong quá trình sản xuất
12
- Hệ thống quản lý chất lượng là một phương tiện quan trọng cần thiết
để thực hiện chức năng quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp
- Hệ thống quản lý chất lượng sẽ giúp các doanh nghiệp đảm bảo được
hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã đặt ra và thoả mãn được khách hàng
- Xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng giúp cho các doanh
nghiệp giảm sự biến động của các quá trình, các hoạt động nhờ đó tiết kiệm
được chi phí sai hỏng
- Hệ thống quản lý chất lượng nó cịn có ý nghĩa rất lớn trong các doanh
nghiệp trong việc đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách chất lượng chung
của doanh nghiệp với các bộ phận phân tán
2.3.2. Nội dung của quản lý chất lượng theo hệ thống quản lý chất lượng.
* Nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở tiết kiệm chi phí
(Vấn đề đẩm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng)
Đó là tồn bộ những hoạt động nhằm đưa chất lượng sản phẩm lên mức
cao hơn trước, giảm dần khoảng cách giữa những mong muốn của khách hàng
và thực tế chất lượng đạt được thoả mãn nhu cầu của khách hàng ở mức cao
hơn
Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5200-90, đảm bảo chất lượng chia ra làm hai
phần:
- Đảm bảo chất lượng nội bộ
Xem xét đánh giá các vấn đề về chất lượng trong mối quan hệ với các
yếu tố khác của hoạt động quản lý chất lượng. Là các hoạt động đảm bảo
13
lòng tin cho lãnh đạo của doanh nghiệp rằng các sản phẩm, dịch vụ đã đạt
chất lượng mong muốn, đúng tiêu chuẩn thiết kế.
Để đảm bảo chất lượng nội bộ doanh nghiệp phải có một tổ chức hợp lý,
phải có ban lãnh đạo đủ tài năng, có mục tiêu chất lượng, chính sách chất
lượng rõ ràng, có các kế hoạch chi tiết để thực hiện mục tiêu chất lượng và
chính sách chất lượng đó, phải quản lý tốt chất lượng ở các khâu marketing,
thiết kế, sản xuất thử nghiệm, bao gói, bảo quản, vận chuyển bán và mua,
quản lý tốt chất lượng các nguồn lực, quản lý tốt chi phí, áp dụng linh hoạt
các biện pháp quản lý chất lượng, đặc biệt áp dụngcác biện pháp phòng ngừa.
- Đảm bảo chất lượng với bên ngoài
Là các hoạt động đảm bảo cho người mua và người đặt hàng tin rằng hệ
thống chất lượngcủa người cung cấp chắc chắn đảm bảo cho sản phẩmvà dịch
vụ phù hợp với các yêu cầu chất lượng. Để đảm bảo chất lượng với bên ngoài
doanh nghiệpphải thỉa thuận với người mua các yếu tố sau: hệ thống bảo đảm
chất lượngcủa người cung cấp để người mua tin rằng hàng hoá, dịch vụ thoả
mãn các yêu cầu của họ về phương tiện kỹ thuật và thủ tục tiến hành phòng
ngừa thử nghiệm, kiểm tra và xuất trinh các tài liệu kiểm tra, tiến hành kiểm
tra hàng hoá khi giao nhận, chính sách chất lượng của doanh nghiệp. Các điều
khoản đảm bảo chất lượng cá thể thay đổi tuỳ thuộc vào từng loại sản phẩm
cụ thể.
Hai phân hệ này không hề cô lập với nhau mà ngược lại chúng hỗ trợ cho
nhau, ràng buộc nhau và thống nhất với nhau trong hệ thống chất lượng.
Chúng đều nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ, nâng cao
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Cải tiến và hoàn thiện chất lượng
14
Cải tiến và hồn thiện chất lượng cũng có ý nghĩa tương tự như đảm bảo
chất lượng. Hoàn thiện chất lượng được tiến hành theo các bước sau:
-Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hố sản phẩm.
-Thực hiện cơng nghệ mới áp dụng vào sản xuất.
-Thay đổi quá trình sản xuất nhằm giảm khuyết tật của sản phẩm.
Yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện chất lượng là tiến hành cải tiến đặc
điểm của sản phẩm, đồng thời làm giảm tỷ lệ khuyết tật. Các bước tiến hành:
- Thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để đảm bảohoàn thiện chất lượng.
- Xác định những nhu cầu đặc trưng về hoàn thiện chất lượng, đè ra dự
án thực hiện những nhu cầu đó.
- Thành lập tổ cơng tác có đủ khả năng thực hiện thành công dự án.
- Cung cấp các nguồn lực cần thiết(tài chính, kỹ thuật,lao động).
- Động viên đào tạo khuyến khích q trìnhthực hiện dự án hoàn thiện
chất lượng sản phẩm.
- Coi chất lượng sản phẩm là nhận thức của khách hàng, múc độ thoả
mãn nhu cầu của khách hàng chính là mức độ chất lượng sản phẩm đạt được.
Khách hàng là người đánh giá xác định chất lượng sản phẩm. Lấy con người
làm trung tâm, là nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra và
nâng cao chất lượng sản phẩm, mọi người từ giám đốc đều có vai trị về chất
lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm,
tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác, lịng nhiệt tình và khả năng trang bị kiến
thức, phương tiện quản lý chất lượng. Lấy phòng ngừa là chính, với phương
châm làm đúng ngay từ đầu, sản phẩm khơng có phế phẩm.
15
Không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống và các quá trình từ thiết
kế sản phẩmđến sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm.
* Quản lý chất lượng được thực hiện trong tất cảmọi khâu của quá trình
sản xuất kinh doanh. Khác với quản lý chất lượng chỉ kiểm tra ở khâu cuối
của quá trình sản xuất. Quản lý chất lượng thuộc hệ thống quản lý chất lượng
nhằm giảm thiểu sản phẩm hỏng dẫn đén giảm chi phí bằng cáchkiểm tra chất
lượngở tất cả các khâu của quá trình sản xuất nhằm không để sai hỏng xảy ra
chứ không bị động biết hỏng rối mới sửa. Việc thực hiện được bắt đầu từ
khâu thiết kế sản phẩm, mua nguyên vật liệu, quá trình bảo quản cũng như
cung cấp nguyên vật liệu, q trình gia cơng sản xuất tạo ra sản phẩm.
* Quản lý chất lượng là quá trình thực hiện chức năng của quản lý theo
vòng tròn chất lượng:hoạch định chất lượng –thực hiện chất lượng –kiểm tra
chất lượng -điều chỉnh cải tiến chất lượng.hoạt động quản lý chất lượng là
hoạt động quản lý chứ không đơn thuần thuầ
2.3.3. Sự khác nhau giữa quản lý chất lượng trước kia và ngày nay
Sự khác nhau này được thể hiện thông qua các phương diện sau:
- Về tính chất : quản lý chất lượng trước kia mang tính chất kĩ thuật đơn
thuần vì vậy vấn đè quản lý chất lượng thuộc phạm vi trách nhiệm của cán bộ
kĩ thuật. Còn ngày nay vấn đè quản lý chất lượng không đơn thuần là vấn đề
kĩ thuật mà nó thuộc lĩnh vực quản lý. Khi nó được coi là vấn đề quản lý thì
những mục tiêu về chất lượng bao giờ cũng được thực hiện một cách tốt nhất.
- Xét trên phương diện quan niệm về sản phẩm. Trước kia cho rằng tất cả
những gì mà doanh nghiệp bán ra ngồi thị trường mới là sản phẩm. Còn ngày
nay người ta cho rằng tất cả những gì là kết quả của doanh nghiẹp tạo ra có
16
thể tiêu dùng nội bộ hoạc bán ra ngoàiđều là sản phẩm của doanh nghiệp.
Quan niêm về sản phẩm như ngày nay bắt buộc mọi người phải có trách
nhiệm với sản phảm mà mình tạo ra.
-Xét trên quan niệm về khách hàng. Trước kia cho rằng khách hàng phải là
những người không thuộc doanh nghiệp mà mua sản phẩm của doanh nghiệp.
Còn bây giờ người ta cho rằngkhách hàng là tồn bộ những đối tượng địi hỏi
về chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp (kể cả đối tượng bên trong và bên
ngồi doanh nghiệp, kể cả những đối tượng khơng mua sản phẩm của doanh
nghiệp)
-Xét trên phương diện phạm vi, đối tượng, trách nhiệm, mục đích của
quản lý chất lượng ta thấy rằng trước kia quản lý chất lượng chỉ được thực
hiện trong khâu sản xuất và đối tượng là kết quả cuối cùng, trách nhiệm quản
lý thuọc về phòng kiểm tra kĩ thuật(KCS) và lấy mục tiêu tài chính làm cơ
bản. Còn bây giờ quản lý chất lượng được thực hiện ở tất cả các khâu, các
hoạt động, các quá trình của doanh nghiệp,đối tượng là tất cả các khâu các
giai đoạn trong quá trìng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quản lý chất
lượng là nhiệm vụ của tất cả mọi đối tượng, mọi đơn vị bộ phận trong doanh
nghiệp, nhằm mục đích là thoả mãn nhu cầu của khách hàng, lấy khách hàng
làm gốc, làm cơ sở
-
Trước kia đánh giá chất lượng một cách trực diện, tập chung vào
con người, xem xét biệt lập với các yếu tố khác.Còn ngày nay người ta xem
xét chất lượng nằm trong mối quan hệ với các yếu tốkhác của hệ thống quản
lý chất lượng
- Trước kia đẻ đánh giá tình hình chất lượng người ta sử dụng hệ thống
các tiêu chuẩn kĩ thuật đã được đề ra. Còn ngày nay người ta xem xét đánh
17
giá chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ bằng phản ứng của khách hàng về
chất lượng.
18
Phần II . Quản lý chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp ngành
may Việt Nam
1.Thực trạng về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm ngành may
1.1 Ngành may ngày càng nâng cao mức thoả mãn của khách hàng trên cơ sở
tiết kiệm chi phí
Trong một vài năm gần đây ngành may đã không ngừng nâng cao chất
lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng
trong và ngoài nước, dần chiếm lại thị trường nội địa, tăng sức cạnh tranh trên
thị trường quốc tế, có được những thành tựu trên là do đa số những doanh
nghiệp may mặc Việt Nam những năm gần đây đã thường xuyên đầu tư đổi
mới công nghệ. Nhưng theo thống kê và đánh giá của các chuyên gia, thiết bị
công nghệ ngành may, tuy đã đổi mới 90-95% thiết bị nhưng trình độ tự động
hố q trình sản xuất cũng chỉ ở mức trung bình, cơng nghệ lạc hậu hơn các
nước tiên tiến trong khu vực khoảng 5 năm. Năng lực thiết kế thời trang, nhất
là thời trang cuộc sống của người tiêu dùng trong nước tuy đã có những bước
tiến đáng kể song vẫn cịn yếu. Ngoài ra, chất lượng dịch vụ trong ngành may
mặc như hệ thống thông tin, giao dịch, khả năng giao hàng đúng tiến độ cũng
như khả năng tổ chức thực hiện các đơn đặt hàng nhỏ của các doanh nghiệp
nước ta cũng có một khoảng cách so với các nước trong khu vực.
Giá cả là yếu tố hạn chế lớn nhất của hàng may mặc nước ta, với mức
giá thường cao hơn mức giá sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN
khoảng 10-15%, cao hơn hàng Trung Quốc hơn 20%. Để giảm giá thành sản
phẩm, các doanh nghiệp cần xúc tiến ngay việc cải tiến hệ thống quản lý, tổ
chức dây truyền sản xuất, nâng cao tay nghề, kỹ năng vận hành và xử lý công
việccủa người lao động nhằm tăng nhanh năng suất (hiện năng suất lao động
chỉ bằng 50-70% của Singapo, Malaysia, Thái Lan). Đồng thời, áp dụng các
19
biện pháp tiết kiệm chi phí sản xuất, hạn chế những lãng phí lớn về thời gian
và sức người, vốn ít được để tâm tới.
Nghệ thuật bán hàng của ta, tuy đã tiến bộ hơn rất nhiều so với 10 năm
trước đây, nhưng vẫn là điểm yếu cơ bản so với các nước trong khu vực. Đội
ngũ xúc tiến thương mại, tiếp thị, hệ thống bán hàng yếu về chất lượng, thiếu
về số lượng. Nhiều doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi
thông tin, hệ thống phân phối, đại diện thương mại ở các thị trườngxuất khẩu,
nên khả năng phản ứng nhanh trước diễn biến của thị trường rất hạn chế và
thường phải đối phó trong thế bị động, kém hiệu qua. Để khắc phục những
điểm yếu này, các doanh nghiệp cần sớm đào tạo, xây dựng đội nhũ bán hàng
và tiếp thị có kĩ năng cao kết hợp với việc thiết lập kênh phân phối rộng khắp
trên thị trường nội địa. Đối với các thị trường xuất khẩu tiềm năng, nếu như
từng doanh nghiệp chưa có khả năng làm được thì 5-7 doanh nghiệp nên phối
hợp với nhau mở văn phòng đại diện thương mại thường trực.
Bên cạnh các biện pháp tăng khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp,
đã có sự chú trọng nâng cao khả năng cạnh tranh của tồn hệ thống –tức mơi
trường trường kinh doanh của tồn ngành may mặc. Chính phủ đang tập
chung giải quyết nhiều vấn đề nhằm tạo điều kiện tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp dệt may gồm: mở rộng quan hệ thương mại song phương và
đa phương với các tổ chức quốc tế (EU, Mỹ, WTO, Trung và Nam Mỹ…)
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu ngành dệt may như nới lỏng hạn ngạch nhập khẩu
vào EU như các nước khác trong ASEAN, hưởng thuế suất bình thường
(NTR) vào thị trường Mỹ, giảm thuế nhập khẩu vao các nước Trung và Nam
Mỹ, hưởng qui chế bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu như các thành viên WTO.
Đòng thời xây dựng cơ chế định hướng cũng như qui hoạch và chính sách hỗ
trợ các dự án phát triển sản xuất nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành dệt
20
may, nhằm tăng tỉ lệ nội địa hoá trong hàng may mặc xuất khẩu từ 25-30%
lên 50% vào năm 2005 và 70%vao năm 2010.
1.2.Hầu hết các doanh nghiệp may Việt Nam đều cho rằng quản lý chất lượng
sản phẩm là trách nhiệm của cán bộ kỹ thuật.
Như đã biết phương pháp quản lý chất lượng bằng các hệ thống quản lý
chất lượng mới được đưa vào áp dụng ở Việt Nam (từ năm 1998. Mặc dù nhà
nước đã có nhiều chính sách tạo điều kiện để các doanh nghiệp nghiên cứu và
áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng mới. Song vẫn cịn nhiều
ngun nhân (cả về phía doanh nghiệp, cả về phía mơi trường) đã ngăn cản
các doanh nghiệp nghiên cứu và áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng
mới đó. Ngành may mặc cũng khơng phải là ngoại lệ. Vì vậy cho đến nay tỷ
lệ doanh nghiệp ngành dệt may đã được cấp chứng chỉ tiêu chuẩn quản lý chất
lượng ISO 9000 chiếm chỉ khoảng 5% trong tổng số các doanh nghiệp của
ngành. Số còn lại vẫn tiếp tục thực hiện quản lý chất lượng theo kiểu kiểm tra
chất lượng. Tức là vẫn coi quản lý chất lượng là hoạt động thuộc lĩnh vực kỹ
thuật và trách nhiệm quản lý chất lượng thuộc về cán bộ kỹ thuật, thông qua
việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi đưa ra thi trường bằng các chỉ
tiêu chất lượng. Cho nên bị động trong việc kiểm soát chất lượng sản phẩmkiểm tra, phát hiện để sửa chữa những lỗi sai- chứ không phải là chủ động
kiểm tra ở tất cả các khâu, các công đoạn, các loại nguyên vật liệu… có như
vậy mới hạn chế được sự sai hỏng, kém chất lượng ở mức tối thiểu. Vì vậy
mà chất lượng sản phẩm còn thấp hơn so với các nước trong khu vực, tỷ lệ
phế phẩm cao nên chi phí sản xuất lớn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Làm
cho sản phẩm kém sức cạnh tranh trên thị trường…
2.Những điều gặp phải khi áp dụng ISO 9000 cho ngành may mặc
21
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để tăng chất lượng sản phẩm
các doanh nghiệp ngành may mặc đã và đang tiếp tục áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng ISO 9000. Trong quá trình này các doanh nghiệp đã có
những điều kiện thuận lợi song cũng gặp khơng ít những khó khăn, vẫn
cịn nhiều điều vướng mắc từ đó đã nảy sinh những quan niệm sai lầm về
chứng chỉ ISO 9000 .
2.1. Những thuận lợi
-Thuận lợi đàu tiên mà ta dễ dàng nhận thấy đó là sự tạo điều kiện
thuận lợi, sự giúp đỡ của các cấp các ngành đối với các doanh nghiệp.
Điều đó được thể hiện thơng qua việc các cấp các ngành ở nhiều địa
phương đã thành lập ban chỉ đạo trương trình triển khai áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng ISO 9000 hoạc giúp đỡ bằng việc hỗ trợ kinh phí. Một
trong những nơi đi đầu trong phong trào này là thành phố Hà Nội. Ngày
29/4/1999,Chủ tịch UBND thành phố đã ra quyết định số 1807/QĐ-UB về
việc thành lập ban chỉ đạo chương trình triển khai áp dụng hệ thống quản
lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, và ngày 19/5/1999, UBND thành
phố đã ra chỉ thị 13/CT-UB về đẩy mạnh việc áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000. UBND thành phố Hà Nội đã kịp
thời xây dựng kế hoạch, nội dung đề tài và hỗ trợ cho trương trình áp dụng
ISO 9000 với tổng kinh phí năm 1999 là 440 triệu đồng và năm 2000 là
720 triệu đồng…
-Các doanh nghiệp Việt Nam là những doanh nghiệp đi sau trong qúa
trình áp dụng hệ thống ISO 9000 nên sẽ tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
và tránh được những sai lầm đáng tiếc…
2.2. Những khó khăn gặp phải.
Khi triển khai áp dụng ISO 9000, các doanh nghiệp cũng gặp lhông ít
những khó khăn.
22
- Trình độ cơng nghệ quản lý, mặt bằng, nhà xưởng, kho tàng… của
các doanh nghiệp còn bị hạn chế so với các doanh nghiệp của các nước
trong khu vực.
- Phải chỉnh hoạc thay đổi cách thức và phương pháp làm việc cũ đã
tồn tại cố hữu trong nhiều năm qua
- Việc chuẩn hoá và văn bản hoá hệ thống chất lượng theo yêu cầu
của ISO 9000 là một công việc rất khó khăn địi hỏi phải có thời gian và
đầu tư cơng sức .
- Cơng tác tư vấn cịn nhiều hạn chế. Chun gia tư vấn trong nước
cịn ít, chưa có nhiều kinh nghiệm nhưng khi tư vấn cịn gặp những khó
khăn do sự khác biệt về ngơn ngữ, văn hố.
- Vai trị của giám đốc cơng ty quyết định sự thành công và thời gian
nhanh hay chậm. Khác với công tác quản lý khác,trong hệ thống quản lý
chất lượng, lãnh đạo không chỉ ra lệnh, chỉ đạo thực hiện mà phải trực tiếp
tham gia cùng mọi người, luôn giữ vai trò đầu tầu. Giám đốc phải là một
trong những người hiểu rõ nhất về ISO 9000. Trên thực tế, ở một số nơi,
vai trò thúc đẩy của lãnh đạo cịn chưa nổi bật.
- Chi phí áp dụng ISO 9000 là một trong những vấn đề băn khoăn
nhất, bởi lẽ chi phí cho tư vấn giúp cho xây dựng hệ thống chất
lượng,đánh giá, cấp chứng chỉ ISO 9000 là một con số khơng nhỏ, chưa kể
chi phí phát sinh trong quá trình triển khai hệ thống quản lý chất lượng
(đầu tư, trang bị thêm, cải tạo nhà xưởng…) thường phải cân nhắc-nhất là
đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.3 Những quan đIểm sai lầm về chứng chỉ chất lượng ISO 9000
2.3.1. Ngộ nhận khi xây dựng hệ thống chất lượng
23
-Trình độ cơng nghệ khơng nhất thiết phảI có cơng nghệ thật tiên tiến
mới phấn đấu có hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và được chứng nhận
ISO 9000
- Chất lượng sản phẩm
Doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm có chất lượng chưa cao nhưng ổn
định và được khách hàng chấp nhận đặt mua vì phù hợp với yêu cácầu sử
dụng của họ, mặc dù đoi khi các sản phẩm này khơng hồn tồn đáp ứng đúng
u cầu tiêu chuẩn kĩ thuật quốc tế hay quốc gia nhưng vẫn đảm bảo các yếu
tố an toàn, vệ sinh sức khoẻ và mơi trường, vẫn có thể xây dựng hệ thống chất
lượng theo tiêu chuẩn của ISO 9000. Điều quan trọng là sự phù hợp của sản
phẩm với tiêu chuẩn mà xí nghiệp đã được khách hàng chấp nhận.
ở Nam Phi dù nhân viên khơng biết chữ, một xí nghiệp vẫn đạt được
chứng chỉ ISO 9001 mặc dù các qui trình và chỉ dẫn cơng việc đều được trình
bày dưới dạng hình vẽ ! ISO 9000 khơng địi hỏi mọi nhân viên sản xuất phải
có học vấn cao, mà chỉ địi hỏi họ được đào tạo và đạt đến sự thành thạo theo
yêu cầu cho công việc.
2.3.2 Ngộ nhận và vướng mắc trong khi xây dựng hệ thống
- Các tiêu chuẩn ISO 9000 khơng đề cập đến khía cạnh tài chính như quản
lý tài sản cấu trúc hành chính. Do khi đó xây dựng ISO 9000 xí nghiệp khơng
cần đề cập mọi phạm vi tài chính kế tốn trong hệ thống văn bản chất
lượng .Người tư vấn và đánh giá viên bên ngồi khơng có quyền xem xét hay
đề cập đến vấn đề tài chính kế tốn .
-
Tổ chức nhân sự
Theo tiêu chuẩn ISO 9000 người lãnh đạo tối cao (giám đốc) phải bổ
nhiệm người đại diện của lãnh đạo, được gọi là người phụ trách chất lượng .
Người phụ trách chất lượng có năng lực chun mơn và có thực quyền trong
24
lãnh đạolà một thuận lợi đáng kể, Trong thực tế, người phụ trách chất lượng
phải giành được ít nhất là 60-80% thời gian cho việc xây dựng hệ thống.
Người phụ trách chất lượng và ban chất lượng là một nhóm đặc biệt được
thành lập để xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000
-Hệ thống văn bản
Vì muốn được sớm chứng nhận ISO 9000, có đơn vị cho rằng có thể tham
khảo, thậm chí có thể “sao chép” các văn bản của những cơ sở đã được chứng
nhận đẻ rút ngắn q trình hồn tất văn bản, nhưng họ không biết rằng như
vậy sẽ không mô tả chính xác những gì đang xảy ra trong cách vận hành
doanh nghiệp và không được các cán bộ và nhân viên sử dụng làm cơ sở cho
việc cải tiến chất lượng . Những văn bản như vậy càng không thể làm cơ sở
cho việc đánh giá nội bộ
2.3.3 Những ngộ nhận sau khi xây dựng hệ thống
Trên nguyên tắc, việc đánh giá hệ thống cho mục đích cứng nhận chỉ được
thực hiện sau khi các cuộc đánh giá nội bộ đã được thực hiện một cách thoả
đáng cho toàn hệ thống. Nhiệm vụ của người phụ trách chất lượng là giúp
đánh giá hệ thống bên ngoài hiểu và đồng tình với mình về sự hợp lí hay phù
hợp của hệ thống chất lượng của mình . Có thời gian, người đánh giá bên
ngoài được gọi là “thanh tra” nên đã đem lại những ấn tượngvề quyền uy mà
họ có. Do đó, việc đánh giá hệ thống chất lượng có thể coi như việc hợp tác
chặt chẽ giữa người đánh giá chất lượng bên ngoài và người phụ trách chất
lượng .
Một thái độ đúng đắn và hợp tác từ người phụ trách chất lượng, sự cởi mở,
kiên nhẫn đẻ nắm vững hiện trình của doanh nghiệp là điều tối cần thiết của
người đánh giá bên ngoài- sự hợp tác như vậy sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy
rõ cái được và chưa được trong hệ thống chất lượng của mình, nhằm tìm ra
giải pháp tốt nhất cho việc cải tiến chất lượng liên tục
25