Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.89 KB, 14 trang )

BÀI LÀM.

Cân đối ngân sách là một vấn đề quan trọng được đặt ra đối với mỗi Nhà
nước, nó đảm bảo cho Nhà nước đó thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình.
Nhưng ở từng thời kỳ khác nhau thì chức năng và nhiệm của Nhà nước sẽ có sự
thay đổi, nó được mỡ rộng và nâng lên cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Đăc
biệt khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, Nhà nước đã có sự can thiệp
vĩ mô vào hoạt động kinh tế. Do đó, ngân sách nhà nước đã trở thành công cụ đắc
lực để Nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh tế và vấn đề cân đối ngân sách nhà
nước lại càng được quan tâm hơn.
I. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước.
1. Khái niệm cân đối ngân sách trong hoạt động ngân sách nhà nước.
Xét về bản chất, cân đối ngân sách là cân đối giữa các nguồn thu mà Nhà
nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự chi
phối, sử dụng nguồn thu đó thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước trong năm đó.
Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách là mối tương quan giữa thu và chi
trong một tài khóa. Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà
còn thể hiện sự hợp lí giữa phân bổ cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi
của ngân sách nhà nước.
Xét về phương diện phân cấp quản lí nhà nước, cân đối ngân sách nhà nước
là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung
ương với địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và
nhiệm vụ được giao.

1


Cân đối ngân sách không chỉ đơn thuần là số lượng biểu hiện qua các con số
giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua các khía cạnh khác nhau. Tóm
lại, cân đối ngân sách được hiểu là một bộ phận quan trọng của chính sách tài
khóa, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà


nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước đã đề ra trong lĩnh
vực và địa bàn cụ thể.
2. Một số học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước hiện nay.
Hiện nay tồn tại nhiều học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước mà tầm ảnh
hưởng của nó đến các Quốc gia trên thế giới là vô cùng lớn.
Thứ nhất là học thuyết về ngân sách chu kì: Nền kinh tế trải qua một chuỗi
dài các chu kì, mỗi chu kì đều có các giai đoạn phồn vinh và suy thoái. Ở giai đoạn
phồng vinh thì vật chất của cải được tạo ra nhiều, năng suất lao động xã hội cao,
thất nghiệp ít... Do đó, nguồn thu vào ngân sách nhà nước sẽ lớn hơn nhu cầu chi
tiêu và ngân sách nhà nước thường ở tình trạng bội thu. Vì vậy nếu không xem xét
ngân sách nhà nước theo chu kỳ, Nhà nước rất dễ dùng số bội thu này chi tiêu vào
việc không cần thiết. Ngược lại, khi có khủng hoảng xảy ra, nền kinh tế chuyển
sang giai đoạn suy thoái, của cải vật chất tạo ra ít, năng suất lao động xã hội thấp,
thất nghiệp tăng cao… Như vậy, việc thu ngân sách sẽ gặp nhiều khó khăn, ngoài
ra nhà nước còn phải chi tiêu để phục hồi nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã
hội phát sinh làm cho ngân sách nhà nước lâm vào tình trạng bội chi. Như vậy,
theo thuyết này sự cân bằng ngân sách sẽ không duy trì được trong khuôn khổ một
năm mà phải duy trì theo chu kì kinh tế. Nghĩa là nguyên tắc cân đối giữa thu và
chi ngân sách nhà nước vẫn được tôn trọng nhưng phải thực hiện trong chu kí phát
triển kinh tế.

2


Thứ hai là học thuyết về Ngân sách thâm hụt: Theo học thuyết này thì trong
một số thời kỳ nhất định nên chi nhiều hơn thu, đặc biệt là trong thời kì suy thoái
cố gắng vay nợ, tăng chi tiêu để đưa nền kinh tế thoát ra khỏi suy thoái. Việc áp
dụng học thuyết này có thể gây nên ảnh hưởng xấu đến chính sách tiền tệ, lạm phát
tăng nhanh. Nhưng những người ủng hộ thuyết này cho rằng “ Sự phục hồi nền
kinh tế sẽ đem lại trạng thái cân băng cho ngaansasch nhà nước và đẩy lùi lạm

phát” và thực tế học thuyết này đã đúng, ít nhất là đúng với một số quốc gia sau
chiến tranh thế giới lần hai. Đến bây giờ, học thuyết này vẫn được coi là số một để
giải quyết vần đê suy thoái.
Ngoài ra còn có các học thuyết Ngân sách thặng dư, học thuyết Ngân sách
thăng bằng… Mỗi học thuyết bàn về cân đối ngân sách ở những khía cạnh, góc độ,
thời điểm khác nhau nhưng cùng hường tới một vấn đề lám sao cho ngân sách nhà
nước được cân bằng. Trước sự thay đổi chóng mặt của nền kinh tế Thế giới và
trong nước, chùng ta phải vận dụng linh hoạt các học thuyết để đem đến sự hiệu
quả tối đa, đưa đất nước phát triển.
3. Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách.
Cân đối ngân sách nhà nước là vấn đề quan trọng và cần thiết để Nhà nước
thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Nhưng để ngân sách nhà nước giữ
được ở mực cân đối và ổn định là không đơn giản vì nó còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố như: tình hình kinh tế, chính trị xã hội ở mỗi quốc gia. Tình trạng mất cân
đối ngân sách chính là sự không ổn định trong hoạt động thu và chi ngân sách nhà
nước. Nắm được tầm quan trọng của cân đối ngân sách nhà nước trong sự nghiệp
phát triển đất nước và ổn định xã hội, nước ta đã đưa ra những biện pháp, chính
sách để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối. Nhưng trước hết ta cần

3


phải xây dựng nguyên tắc cân đối ngân sách phù hợp với điều kiện kinh tế, chính
trị xã hội thì việc cân đối mới đảm bảo hiệu quả.
Theo Điều 8 Luật Ngân sách nhà nước 2002 thì việc cân đối ngân sách nhà
nước dựa theo nguyên tắc sau:
“1. Ngân sách nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế,
phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày càng
cao vào chi đầu tư phát triển; trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn
số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách.

2. Bội chi ngân sách nhà nước được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và ngoài
nước. Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc không sử
dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí
ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn.
3. Về nguyên tắc, ngân sách địa phương được cân đối với tổng số chi không vượt
quá tổng số thu; trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu
tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm,
thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán,
thì được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng
năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không
vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách
cấp tỉnh.
4. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung
ương, Uỷ ban nhân dân các cấp, các tổ chức và đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức

4


thực hiện dự toán ngân sách trong phạm vi được giao; nghiêm cấm các trường
hợp vay, cho vay và sử dụng ngân sách nhà nước trái với quy định của pháp luật”.
Nguyên tắc thứ nhất đã phân định ranh giới giữa chi đầu tư phát triển và chi
thường xuyên, thể hiện sự thận trọng trong chính sách tài khóa của Việt Nam. Theo
đó các khoản thu thường xuyên được sử dụng để trang trải các khoản chi thường
xuyên và một phần thu thường xuyên cùng với thu bù đắp dùng để chi đầu tư phát
triển. Trong đó chi đầu tư phát triển được chú trọng hơn vì nó có thể làm tăng khả
năng thu hồi vốn của ngân sách nhà nước, nhưng phải đảm bảo được sự cân đối
giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển ( vì giữa chúng có mối quan hệ mật
thiết với nhau trong chi tiêu công của nhà nước. Chi đầu tư phát triển là hoạt động
cần thiết đối với sự phát triển kinh tế, xã hội đối với một quốc gia. Nó tạo ra những

điều kiện cơ sở vật chất cho nền kinh tế, cũng từ đó kéo theo sự phát triển của
nhiều lĩnh vực khác và đảm bảo các vấn đề xã hội của đất nước, giúp nhà nước
thực hiện tốt các chức năng của mình. Vì vậy chi đầu tư phát triển là vấn đề được
Nhà nước ưu tiên trong xây dựng nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường nhu hiện nay thì tình trạng bội chi ngân
sách là điều khó tránh khỏi đối với một số quốc gia. Nhưng chưa hẳn sự bội chi
ngân sách là thể hiện sự yếu kém của nền kinh tế, mà ngược lại nó còn là một trong
những cách thức tạo ra sự cân đối ngân sách nhà nước. Nguyên tắc vay bù đắp bội
chi nên dành cho mục đích phát triển và đảm bảo bố trí ngân sách để trả hết nợ khi
đến hạn là rất cần thiết để đảm bảo ngân sách nhà nước được cân đối, tận dụng
nguồn vốn vay một cách có hiệu quả. Chi cho tiêu dùng là hoạt động không có tính
chất thu hồi vốn và không tạo thặng dư, do đó nguồn vay bù đắp bội chi chỉ để
dành cho mục đích phát triển.

5


Nguyên tắc thứ ba đã tạo ra cho chính quyền địa phương có được nhiều ưu
thế hơn trong việc quyết định ngân sách cấp mình, vấn đề cho phép cấp tỉnh vay nợ
là cần thiết giúp cho chính quyền địa phương có thể chủ động hơn trong việc tạo ra
những điều kiện cơ sở vật chất hạ tầng để phát triển kinh tế và đảm bảo đời sống
xã hội ở địa phương mình. Tuy nhiên khoản vay nợ này được tính vào thu ngân
sách địa phương, do vậy nhìn một cách tổng thể thì ngân sách địa phương phải tôn
trọng nguyên tắc cân đối thu chi theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, song
thực chất ngân sách địa phương có khỏan bội chi và khoản bội chi này lại không
tính vào bội chi ngân sách nhà nước. Điều này dẫn đến sự thiếu minh bạch trong sự
cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Ngoài ra việc quy định tỷ lệ tối đa chung
cho các địa phương là 30% (trừ Hà Nọi và Tp. Hồ Chí Minh) là chưa hợp lí vì mỗi
địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên nhu cầu vay nợ, khả năng
quản lí nợ và trả nợ là khác nhau.

Ngoài những nguyên tắc cân đối ngân sách theo quy định của luật hiện hành
thì trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước phải dựa trên hệ thống các nguyên
tắc lập ngân sách và quản lí chi tiêu công hiệu quả như:
Tính tổng thể và tính kỉ luật tài chính: Để kiểm soát được các nguồn tài
chính có hiệu quả, yêu cầu trong cân đối ngân sách nhà nước phải đánh giá đúng
ngồn lực tài chính đó và lực chọn những công cụ thích hợp nhất để phân bổ nguồn
lực nhằm đạt được mục tiêu ngâm sách đã đề ra. Có nghĩa là khi cân đối ngân sách
nhà nước thì những quyết định về chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên phải
gắn kết với nhau. Trong chi tiêu ngân sách nhà nước cần tập trung chi vào những
khoản cần thiết, chi tiêu tiết kiệm, tránh lãng phí để thực hiện tốt các chiến lược mà
chính phủ để ra.

6


Tính linh hoạt và tính tiên liệu: Trong cân đối ngân sách nhà nước tính linh
hoạt và tính tiên liệu là cần thiết vì nó giúp các nhà quản lí diều phối và xử lí các
nguồn lực tài chính mội cách hợp lí, tạo điều kiện thuận lợi để nhà nước thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Tính linh hoạt yêu cầu phải trao quyền cho
người quản lí trong việc ra quyết định phân bổ nguồn lực tài chính. Tính tiên liệu
đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chươ trình có hiệu quả.
Nguyên tắc này đòi hỏi cân đối ngân sách nhà nước phải cân đối trong dài hạn và
ngắn hạn và phải vận dụng cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh mất cân
đối ngân sách nhà nước.
Tính trung thực: Khi cân đối ngân sách nên dựa vào những dự đoán đã được
lập từ thực tế tình hình kinh tế xã hội của đất nước, mà không có sự thiên vị về vấn
đề thu hoặc chi ngân sách nhà nước. Những dự đoán quá lạc quan dẫn nảy sinh vấn
đề thiếu kỉ luật tài chính và dẫn đến việc không thực hiện được những chiến lược,
chính sách Nhà nước đã đề ra.
Thông tin minh bạch và trách nhiệm: Đây là vấn đề rất cần thiết trong cân

đối ngân sách nhà nước. Thong tin tốt sẽ làm tăng tính trung thực và giúp người
quản lí sẽ đưa ra những quyết định hợp lí. Thông tin chính xác về chi phí, đầu ra và
kết quả đã đạt được sẽ giúp cho quá trình thực hiện cân đối ngân sách đạt hiệu quả.
Tính minh bạch và trách nhiệm trước hết yêu cầu những người ra quyết định phải
nắm bắt tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp, phải chịu trách nhiện về quyết
định của mình.
II. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
1. Một vài nét về thực trạng cân đối ngân sách ở một số quốc gia tiêu
biểu trên thế giới.

7


Cân đối ngân sách ở Mỹ: Từ những thập niên 50 và thập niên 60 nền kinh
tế Mỹ hết sức phát triển. Mỹ đã vận dụng học thuyết Keynes để phục hồi kinh tế,
kiểm soát thu chi ngân sách một cách triệt để với việc chính phủ tăng chi tiêu công
cộng và đầu tư cho kinh tế phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước. Ở những
năm 90, nên kinh tế Mỹ suy thoái, tình trạng thâm hụt ngân sách vẫn gia tăng. Do
đó, nước này đã kiên quyết giảm bội chi ngân sách và hướng tới chiến lược thặng
dư ngân sách nhằm tăng cường tài chính quốc gia và đạt được hiệu quả trong
những năm cuối của thạp niên 90. Trong những năm gần đây nền kinh tế Mỹ lại đi
xuống, sự thâm hụt ngân sách tăng mạnh. Để giải quyết tình trạng trên, Tổng thống
Mỹ Barack Obama đã đưa ra một số biện pháp như: cắt giảm chi phí chiến tranh
bằng việc rút quân khỏi Iraq, thực hiện gói kích cầu… Với những giải pháp trên
nền kinh tế Mỹ có thể khắc phục được tình trạng thâm hụt, dần trở lại cân đối và
tiến tới thặng dư.
Cân đối ngân sách ở Nhật Bản: Sau chiến tranh thế giới lần hai Nhật Bản
thực hiện nhiều chính sách để phục hồi nền kinh tế, khắc phục hậu quả sau chiến
tranh. Họ đã gia tăng tiết kiệm chi tiêu dùng, đầu tư phát triển kinh tế, giảm chi phí
quân sự và đã đạt được sự cân bằng cho đến giữa những năm 1960. Những năm 80

và 90 nền kinh tế Nhật biến động, vấn đề ngân sách không ổn định. Vì vậy Nhật đã
phải thực hiện nhiều chính sách như : tăng chi đầu tư, phát hành trái phiếu, … Hiện
nay, nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn suy thoái và kinh tế Nhật cũng không
thoát khỏi tình trạng đó. Tuy nhiên với những chính sách và biện pháp tích cực,
nền kinh tế Nhật Bản được cho rang sẽ vượt qua khỏi suy thoái sớm nhất thế giới.
Cân đối ngân sách ở Trung Quốc: Về cơ bản Chính phủ Trung Quốc đặc
biệt chú trọng đến vấn đề cân đối ngân sách trong phân cấp giữa chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương. Trước cải cách, cân đối ngân sách ở Trung Quốc
cố đặc trưng là tập trung cao độ nguồn tài chính vào ngân sách trung ương để thực
8


hiện chính sách kế hoạch hóa tập trung và thực hiện bao cấp cho toàn bộ nền kinh
tế quốc dân. Trong cải cách đã có sự chia nguồn thu cho chính quyền địa phương
trong việc cân đối ngân sách, thực hiện cơ chế hóa ngân sách và thực tế đã rất
thành công cho tới nay.
2. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
a. Bội chi ngân sách ở Việt Nam hiện nay.
Trong những năm qua nước ta đã kiểm soát được mức bội chi NSNN ở giai
đoạn cho phép ( không quá 5% GDP/năm) và nguồn vay chủ yếu chi cho đầu tư
phát triển. Đây là thành công đáng ghi nhận trong vấn đề kiểm soát bội chi trong
NSNN ở nước ta. Giai đoạn 1999-2000 tình trạng bội chi ở mức chuyển biến tích
cực, thu không những đủ chi thường xuyên mà còn được rành ra để chi đầu tư phát
triển. Vì vậy, NSNN được thống kê ở mức thấp. Do tác động của khủng hoảng
kinh tế, nền kinh tế khó khăn, phải chi nhiều thu ít dẫn đến bội chi NSNN trong
giai đoạn này biển đổi liên tục, tỷ lệ bội chi ở mực thấp là 3% GDP năm 1996 lên
đến 4,95% GDP năm 2000. Giai đoạn từ năm 2001-2007, bộ chi NSNN được duy
trì ở mức 5% GDP/năm. Năm 2008, mức bội chi NSNN là 62.200 tỷ đồng bằng
4,95% GDP. Đây là vấn đề đáng lo ngại để thực hiện cân đối NSNN, vì mức bội
chi hàng năm không có chiều hướng giảm xuống.

Với kết quả bội chi như vậy, Chính phủ cũng đã có nhiều biện pháp khắc
phục hạn chế bội chi. Trong xử lí bội chi NSNN, các nguyên tắc cân đối được tuân
thủ nghiêm chỉnh, các biện pháp bù đắp bội chi thheo quy định của luật được vận
dụng một cách hiệu quả, Nhà nước đã chấm dứt hoàn toàn việc phát hành tiền trực
tiếp để tài trợ bội chi NSNN, thay vào đó là tăng cường phát hành trái phiếu chính
phủ và tận dụng những nguồn vốn vay từ nước ngoài dưới hình thức ODA nhằm
đảm bảo đủ nguồn lực tài chính để cân đối NSNN.
9


b. Một số giải pháp cần đối NSNN.
Tăng cường công tác kiểm soát bội chi NSNN: Chính phủ cần năng
cao vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc kiểm soát bội chi
NSNN. Vì thực tế một trong những lí do dẫn đến việc bội chi ngân sách là
do sự yếu kém trong năng lực và trình độ quản lí bộ mày nhà nước, không
phát hiện và xử lí kịp thời những trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán
NSNN đã đề ra, nguồn vốn vay bù đắp bội chi chưa sử dụng hiệu quả. VÌ
vậy, Chình phủ cần rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu ngân sách chưa
thật cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ đầu
vốn vay để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển. Bên cạnh đó, tạo
điều kiện cho người dân tham gia giám săt, theo dõi quá trình thực hiện
nhiệm vụ ngân sách các ngành, các cấp bằng việc cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác và kịp thời cho người dân qua các phương tiện truyền thanh, báo
chí.
Hoàn thiện biện pháp bồi đắp bội chi NSNN bảo đảm cân đối NSNN:
Theo Luật NSNN năm 2002, biện pháp bù đắp bội chi NSNN là vay nợ
(trong và ngoài nước). Đây là biện pháp màn lại hiệu quả cao mà không dẫn
đến lạm phát và nhà nước có thể huy động các nguồn lực trong và ngoài
nước để đảm bảo cân đối NSNN. Nhằm khắc phục những yếu kém cần có
một số thay đổi về cách thức vay nợ và sự dụng nguồn vay này hợp lí: Về

vay trong nước cần củng cố và mở rộng thị trường trái phiếu Chính phủ và
trái phiếu chính quyền địa phương theo hướng nâng cao tính thanh khoản
của thị trường, mở của thị trường trái phiếu thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Về vay nợ nước ngoài, Chình phủ cần làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận vốn
ODA, tạo điều kiện thuận lới cho việc thực hiện các chương trình, dự án
ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ.
10


Hoàn thiện phân cấp quản lí NSNN để đảm bảo cân đối trong hệ
thống NSNN: Qua thực trạng phân cấp quản lí NSNN, vấn đề đáng chú ý gây
nhiều bất cập làm ảnh hưởng đến sự cân đối NSNN là : Ngân sách trung
ương thực hiện cân đối thay cho ngân sách địa phương. Sau những ưu điểm,
cơ chế này tạo ra cho địa phương quá bị động và không đảm bảo tính trách
nhiệm cũng như tính minh bạch trong quá trình sử dụng và quản lí tài chính
ở địa phương. Vì vậy trong thời gian tới cần khắc phục tình trạng Ngân sách
Trung ương cân đối thay cho Ngân sách đia phương trên cơ sở tăng tính chủ
động và trách nhiệm của địa phương: Thứ nhất, phải mở rộng phân định
nguồn thu, xác định rõ ràng nhiệm vụ chi của từng cấp phù hợp với chức
năng và năng lực của từng cấp chính quyền địa phương. Thứ hai hoàn thiện
cơ chế bổ sung cân đối NSNN nhằm khắc phục vấn đề ngân sách địa phương
cọn quá lệ thuộc vào ngân sách trung ương, mà không linh động tận dụng
khả năng vốn có của địa phương.
III. Kết luận.
Trong thời gian qua, thực trạng cân đối NSNN của Việt nam thường
xuyên là bội chi. . Điều này cũng tác động lại nền kinh tế làm cho lạm phát
tăng, không đủ nguồn vốn đầu tư các hạng mục cơ bản, tăng nợ vay nước
ngoài, làm cho chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ xung đột lẫn nhau, .
Nhưng quan trọng hơn cả, nó là chỉ tiêu phản ánh an ninh tài chính quốc gia,
ảnh hướng đến uy tín của một quốc gia trên trường quốc tế. Do vậy, để đảm

bảo cân đối NSNN thì chính phủ các nước đã có những biện pháp như kiểm
soát chặt chẽ các khoản thu chi tránh tình trạng thất thoát, chi sai, định
hướng hợp lý theo từng năm và đặc biệt là phải áp dụng linh hoạt và tuân thủ
các nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước

11


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.

1. Luật Ngân sách nhà nước năm 2002; Nxb LAO ĐỘNG
2.
3.
4. sinhvienluat.vn

12


MỤC LỤC.
T
rang.
I. Nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách nhà nước………..………………1
1. Khái niệm cân đối ngân sách trong hoạt động ngân sách
nhà nước…………………………..………………………………..…………….1
2. Một số học thuyết về cân đối ngân sách nhà nước hiện nay……………...….2
3. Nguyên tắc cân đối ngân sách nhà nước theo Luật Ngân sách………...………3
II. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
1. Một vài nét về thực trạng cân đối ngân sách ở một số quốc gia
tiêu biểu trên thế giới……………………………….…………...….…………….7
2. Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay…………..…….9

a. Bội chi ngân sách ở Việt Nam hiện nay……………………………………….9
b. Một số giải pháp cần đối NSNN……………………………...…….………..10
III. Kết luận………………………………...……………………..………………11

13


BÀI TẬP LỚN HỌC KÌ
MÔN: LUẬT TÀI CHÍNH VIỆT NAM

ĐỀ BÀI: Số 08
Tìm hiểu về nguyên tắc cân đối trong hoạt động ngân sách
nhà nước theo Luật ngân sách và thực tế áp dụng

14



×