Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Các yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.88 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống hằng ngày của con người, một yếu tố không thể thiếu được
là việc chuyển giao tài sản, quyền tài sản hoặc thực hiện một dịch vụ giữa người
này, tổ chức này với người khác, tổ chức khác như mua bán tài sản hoặc khoán làm
một công việc nào đó. Những giao dịch đó gọi là giao dịch dân sự (GDDS). Những
giao dịch ấy được hình thành thông qua sự thỏa thuận giữa các bên tham gia, được
pháp luật ghi nhận từ đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa họ và buộc các bên
tham gia phải thực hiện. Sự thỏa thuận đó gọi là hợp đồng. Như vậy, có thể thấy,
hợp đồng là một quan hệ xã hội được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên để
thỏa mãn nhu cầu trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng là sự thừa
nhận, là yêu cầu của Nhà nước đối với các GDDS đó. Hợp đồng là một trong
những chế định quan trọng của pháp luật dân sự và là phương tiện pháp lý quan
trọng để thỏa mãn quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong xã hội. Do vậy,
dưới góc độ pháp lý, HĐDS là sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm
dứt quyền, nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những hợp đồng bảo đảm đúng các yêu cầu của pháp
luật, thỏa mãn được ý chí của các chủ thể tham gia thì vẫn đang còn tồn tại không
ít những HĐDS vô hiệu làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích của cá
nhân cũng như của Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự.


Những quy đinh về hợp đồng dân sự vô hiệu là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo ổn
định giao lưu dân sự, đồng thời là cơ sỏ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể khi tham gia GDDS. Đồng thời, thông qua các quy định về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự và hợp đồng dân sự vô hiệu, Nhà nước
có thể kiểm soát được các hợp đồng dân sự nhất định nếu thấy cần thiết vì lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng.
NỘI DUNG
I.


Khái quát chung về hợp đồng dân sự vô hiệu
1.1 Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 388 BLDS năm 2005). Để hợp đồng
dân sự có hiệu lực pháp lý thì hợp đồng phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu
lực do pháp luật quy định.
Điều 121 BLDS năm 2005 quy định: “giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”. Như vậy, hợp đồng dân sự chính là một dạng của GDDS. Do đó, điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chính là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
dân sự. Điều 122 BLDS 2005 quy định các điều kiện có hiệu lực của GDDS:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định”.
Từ những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự, có thể hiểu hợp đồng
sẽ vô hiệu khi vi phạm những điều kiện kể trên. Tuy nhiên, cần căn cứ vào từng
trường hợp cụ thể để xem xét và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự
vô hiệu. Xuất phát từ lý do này, khoản 1 Điều 410 BLDS năm 2005 quy định: “các
quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến điều 138 của bộ luật này
cũng được áp dụng đối với hợp đồng dân sự vô hiệu”.
1.2 Các đặc điểm của hợp đồng dân sự vô hiệu
Cũng là một loại giao dịch dân sự vô hiệu, nên hợp đồng dân sự vô hiệu
cũng có những đặc điểm sau:
-Hợp đồng dân sự vô hiệu không được pháp luật bảo vệ, tức là pháp luật quy định
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết hợp đồng đó.
2



-Tính vô hiệu được xác định từ thời điểm các bên xác lập (từ khi giao kết hoặc
tuyên bố ý chí).
-Hậu quả pháp lí có thể bất lợi cho các bên tham gia giao kết hợp đồng.
II. Các yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng dân sự:
Điều 410 BLDS 2005 có quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu: “Các quy
định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng
được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.
2.1 Về chủ thể
2.1.1 Người tham gia giao kết hợp đồng là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự
Điều 130 BLDS 2005 quy định: “Khi giao dịch dân sự do người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Toà
án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này
phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện”.
Sở dĩ quy định như trên vì người chưa thành niên, người bị mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ không thể có đủ điều
kiện để tự do ý chí tham gia hợp đồng. Do vậy, việc giao kết hợp đồng của họ phải
được xác lập, thực hiện dưới sự kiểm soát của người đại diện. Khi hợp đồng do
người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hợp đồng
đó được xác lập, theo yêu cầu của người đại diện của người đó, Tòa án tuyên bố
hợp đồng vô hiệu, nếu theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại
diện của họ xác lập, thực hiện (Điều 136 BLDS 2005).
Người đại diện của họ cũng có quyền yêu cầu bên đã biết người thực hiện
giao dịch dân sự với mình là người chưa thành niên, người bị mất nămg lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà vẫn giao dịch phải bồi
thường thiệt hại cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,

người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, nếu hành vi đó gây ra thiệt hại.
2.1.2 Người tham gia giao kết không nhận thức và làm chủ được hành vi
Trong trường hợp người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao
dịch dân sự vào đúng thời điểm không nhận thức và điều khiển được hành vi của
mình, ví dụ như một người đang trong tình trạng say rượu, mộng du … cũng bị coi
là vô hiệu theo điều 133 BLDS. Trong thời hạn 2 năm, người có quyền, nghĩa vụ
liên quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu. Trong trường
hợp này, người nào biết hoặc phải biết mình xác lập giao dịch với người không
nhận thức và điều khiển được hành vi của mình mà vẫn cố tình xác lập giao dịch,
thì phải bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra đối với người không nhận thức và điều
khiển được hành vi của mình.
2.1.3. Người tham gia giao kết hợp đồng không đúng thẩm quyền
3


Đối với người chưa thành niên,người không có năng lực hành vi dân sự,
người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, theo
quy định của pháp luật khi giao kết hợp đồng phải thông qua hành vi của người đại
diện hợp pháp.Năng lực hành vi của chủ thể được coi là cơ sở pháp lí quan trọng
để xác nhận tư cách của chủ thể.Ví dụ, khi định đoạt tài sản chung thuộc sở hữu
của nhiều người nhưng chỉ có một chủ thể tự ý định đoạt khi chưa có sự thống nhất
ý chí của các chủ thể khác thì không thể chỉ căn cứ vào năng lực chủ thể đã giao
kết hợp đồng để đánh giá xem hợp đồng có họp pháp hay không.
- Đối với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác
Các chủ thể này tham gia vào HĐDS thông qua người đai diện của họ (đại
diện theo pháp luật,theo ủy quyền). Người đại diện xác lập, thực hiện HĐDS nhân
danh người được đại điện. Các quyền, nghĩa vụ do người đại diện xác lập làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Đại diện của pháp
nhân phải hội đủ thẩm quyền kí kết hợp đồng. Thông thường chỉ có người đứng
đầu pháp nhân mới có quyền kí kết hợp đồng.

Tuy nhiên pháp nhân chỉ tham gia các HĐDS phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng liên quan đến
quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số
lĩnh vục kinh doanh khác theo quy đinh của pháp luật (Điều 106 BLDS 2005). Tổ
hợp tác chỉ được tham gia các hợp đồng liên quan đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của tổ chức được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS 2005).
Người đại diện xác lập hợp đồng dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của
pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được
điều lệ hoặc pháp luật quy định. Khi họ tham gia giao dịch thì họ chỉ được thực
hiện những quyền trong phạm vi pháp luật cho phép và trong vi giới hạn mà người
ủy quyền đặt ra. Khi người ủy quyền vượt quá thì giao dịch do họ xác lập do vượt
quá bị tuyên bố là vô hiệu, nếu các bên không thỏa thuận được với nhau và giải
quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật.Người được ủy
quyền thực hiện vượt quá phạm vi ủy quyền phải chịu trách nhiệm bồi thường toàn
bộ thiệt hại do hành vi vượt quá của họ gây ra. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tại
Tòa án cần xem xét trong giao dịch mà người được ủy quyền vượt quá phạm vi ủy
quyền không hay họ thực hiện dúng phạm vi ủy quyền.
2.2 Về ý chí
Điểm c, khoản 1 điều 122 BLDS đã quy định: “Người tham gia giao dịch
hoàn toàn tự nguyện”.

4


Cơ sở để hình thành HĐDS là ý chí của các chủ thể tham gia. Do bản chất
của HĐDS là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí, nên người tham gia giao kết
HĐDS phải hoàn toàn tự nguyện trong việc xác lập ý chí và bày tỏ ý chí của mình.
Đây là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại điều 4 BLDS. Trong HĐDS các
chủ thể tham gia hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được ép buộc, cướng ép, đe
dọa bên nào. Điều đó có nghĩa là các chủ thể được tự do lựa chọn tham gia hay

không tham gia giao kết HĐDS mà không bị chi phối hoặc bị can thiệp bởi bất kỳ
một tác động nào chủ quan nào khác. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan
bên trong của chủ thể và phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất
định. Tuy nhiên, ý chí này phải được kiểm soát bởi lý trí của chủ thể. Khi nguyện
vọng, mong muốn chủ quan bên trong được thể hiện ra bên ngoài đúng như vậy (ý
chí đích thực) thì khi đó cho thấy chủ thể có sự tự nguyện. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, hợp đồng được giao kết không xuất phát từ ý chí đích thực của các chủ
thể mà lại được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, đe dọa hoặc nhầm lẫn. Cũng
như nhiều quốc gia khác, pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam thừa nhận lừa dối
trong giao kết hợp đồng như một yếu tố có thể đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng.
2.2.1 Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 131 BLDS)
Điều 131 BLDS năm 2005 quy định :
“Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao
dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia
thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm
lẫn có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Trong trường hợp một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung
của giao dịch thì được giải quyết theo quy định tại Điều 132 của Bộ luật này.
Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai nội dung của giao dịch mà tham gia
vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Sự nhầm lẫn xuất phát từ
nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự việc, sự nhầm lẫn
phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của giao dịch phải xác định
được. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được sự nhầm lẫn của mình thì giao dịch
có thể được tuyên bố vô hiệu.
Khi một bên nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của hợp đồng mà xác lập hợp
đồng, thì có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó; nếu bên kia
không chấp nhận yêu cầu thay đổi của bên bị nhầm lẫn, thì bên bị nhầm lẫn có
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, lỗi ở đây chỉ có thể
là lỗi vô ý. Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố ý của bên đối tác thì khi đó sẽ thuộc trường
hợp hợp đồng vô hiệu do lừa dối.

5


Khi hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn, thì bên có lỗi trong việc xảy ra
nhầm lẫn phải bồi thường thiệt hại.
Để đánh giá về lỗi khiến cho hợp đồng vô hiệu thì theo điều 141 BLDS 1995
hợp đồng dân sự có thể bị tuyên vô hiệu do nhầm lẫn bất kể do lỗi của bên nào gây
ra.Nếu bên nào có lỗi sẽ phải bồi thường cho bên kia.Còn tại điều 131 BLDS 2005
hợp đồng chỉ bị tuyên bố vô hiệu nếu như sự nhầm lẫn xảy ra do lỗi vô ý của bên
đối tác.Nếu như chính bên bị nhầm lẫn có lỗi thì hợp đồng không bị vô hiệu,bên
nhầm lẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng
Ở đây có ý kiến cho rằng cách giải quyết thứ nhất là hợp lí hơn, bởi lẽ chỉ
cần có sự nhầm lẫn xảy ra là đã không đáp ứng được yêu cầu về sự thống nhất nhất
giữa ý chí và bày tỏ ý chí, do vậy, hợp đồng đã có thể bị tuyên bố vô hiệu. Còn
việc xác định lỗi thuộc về ai là chỉ nhằm giải quyết vấn đề hậu quả phát sinh khi
GDDS vô hiệu (bồi thường thiệt hại mà thôi).
Tình huốmg cụ thể: vụ án tranh chấp hợp đồng bảo hiểm bảo hiểm giữa
nguyên đơn là bà Trần Thị Ngạnh và bị đơn là công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí
Minh có ông Lê Sơn Phong là đại diện ủy quyền.
Nội dung vụ việc diễn biến như sau: Tháng 9/1999 bà Ngạnh mua một chiếc
xe Dream II trị giá 28.000.000 đồng của công ty Đô Thành. Khi đến ci cục thuế
Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh đóng thuế trước bạ, bà Ngạnh được báo số tiền
phải đóng là 1.424.000 đồng bao gồm 1.360.000 đồng tiền thuế trước bạ và 64.000
đồng phí bảo hiểm. Theo bà Ngạnh thì nhân viên chi cục Thuế giải thích rằng nếu
mất xe thì bà sẽ được bồi thường. Ngày 31/3/2000 nhà bà bị kẻ gian cạy cửa và lấy
mất chiếc xe này. Bà có trình báo công an phường 9 quận Tân Bình đến lập biên
bản hiện trường. Sau đó bà đến công ty bảo hiểm TP HCM làm thủ tục nhận tiền
bồi thường nhưng Công ty từ chối bồi thường nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết.
Còn Công ty bảo hiểm TP HCM không đồng ý bồi thường vì cho rằng số phí
64.000 đồng Công ty chỉ bảo hiểm trách nhiệm dân sự với người thứ ba và bảo

hiểm cho người ngồi trên xe chứ không bảo hiểm vật chất xe.
Tại bản án sơ thẩm số 22/DSST ngày 25/4/2001 của TAND quận 1, TP
HCM quyết định:
Buộc Công ty bảo hiểm TP HCM bồi thường thiệt hại vật chất xe Honda
Dream II và tiền lãi chậm trả cho bà Trần Thị Ngạnh là 25.652.000 đồng ngay sau
khi án có hiệu lực.
Bà Trần Thị Ngạnh phải nộp phí bảo hiểm vật chất xe cho Công ty bảo hiểm
TP HCM là 585.640 đồng ngay sau khi án có hiệu lực.
Ngày 8/4/2001 Công ty bảo hiểm TP HCM có đơn kháng cáo.
6


Tại bản án dân sự phúc thẩm số 1772/DSPT ngày 12/9/2001 TAND TP
HCM quyết định:
Buộc Công ty bảo hiểm TP HCM bồi thường thiệt hại vật chất xe Honda
Dream II cho bà Ngạnh là 24.200.000 đồng.
Bác đơn yêu cầu đòi tiền lãi của bà Ngạnh.
Bà Trần Thị Ngạnh có trách nhiệm nộp bổ sung phí bảo hiểm cho Công ty
bảo hiểm TP HCM là 585.640 đồng.
TAND thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định:
Tại giấy chứng nhận bảo hiểm nêu trên, phần phí bảo hiểm có ghi con số
64.000 đồng và phần các loại hình bảo hiểm có ghi 3 loại hình bảo hiểm gồm: bảo
hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ 3, bảo hiểm người ngồi trên xe máy và
bảo hiểm vật chất xe.
Phía Công ty bảo hiểm TP HCM cho rằng, với số phí 64.000 đồng bà Ngạnh
chỉ mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba và bảo hiểm đối với
người ngồi trên xe, chứ không mua bảo hiểm vật chất xe. Tuy nhiên, hội đồng xét
xử nhận thấy nếu căn cứ vào giấy chứng nhận pbảo hiểm xe nêu trên thì không có
dấu hiệu nào để phân biệt sự việc như lời trình bày của phía Công ty bảo hiểm TP
HCM, mà chỉ có thể xác định rằng với số phí 64.000 đồng, Công ty bảo hiểm TP

HCM và bà Ngạnh đã đồng ý mua bán cả loại hình bảo hiểm nêu trên.
Rất có thể là nhân viên bảo hiểm đã sơ ý không gạch bỏ phần ghi loại hình
bảo hiểm vật chất xe như lời giải thích của phía Công ty bảo hiểm TP HCM.
Nhưng nếu đưa ra lý do này để từ chối bồi thường là không phù hợp. Bởi lẽ việc sơ
ý của Công ty bảo hiểm TP HCM không làm cho hợp đồng ở vào tình trạng vô
hiệu theo quy định tạo các điều 130 đến 131 của BLDS mà chỉ làm cho Công ty
bảo hiểm TP HCM phải chịu một mức thiệt hại nhất định.
Ở đây, phiếu bán bảo hiểm đã được Công ty in sẵn, đã có chữ kí đại diện của
bên bán bảo hiểm, nhân viên bán bảo hiểm cần căn cứ vào vào bên tham gia đóng
phí đối với loại bảo hiểm nào thì sẽ được bảo hiểm loại hình bảo hiểm đó. Quy
định này đã trở nên phổ biến một cách thông dụng, bên bán công bố giá cả còn bên
mua đồng ý thì mua; không có việc thỏa thuận giá cả (mặc cả) như các GDDS
khác. Như vậy, chứng tỏ rằng khi bán bảo hiểm, nhân viên bảo hiểm đã sơ xuất
không gạch bỏ loại hình bảo hiểm vật chất xe, nên làm cho bên mua bảo hiểm
nhầm lẫn về đối tượng mua bán. Trong trường hợp này, lẽ ra Tòa án các cấp phải
tuyên bố giao dịch trên là vô hiệu do nhầm lẫn và phải giải quyết hậu quả theo quy
định của điều 131 BLDS mới đúng.
2.2.2 Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
7


a) Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối
Theo ngôn ngữ pháp luật, lừa dối là một xảo thuật dùng để lừa gạt người
khác. Theo pháp luật dân sự của nước ta thì Điều 132 BLDS quy định: “Lừa dối
trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho
bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao
dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”. Như vậy, lừa dối có tính chất quyết định
đến sự xác lập một hợp đồng là yếu tố có thể đưa đến vô hiệu của hợp đồng dân sự.
Tính chất quyết định làm cho hợp đồng dân sự vô hiệu thể hiện ở chỗ nếu không
dùng các mánh khóe làm cho đối phương hiểu sai về sự việc thì sẽ không xác lập

được hợp đồng lừa dối này, phải do cố ý của một bên nhằm đạt mục đích cho đối
phương tham gia giao kết hợp đồng để đạt một lợi ích nào đó. Tuy nhiên, trong
thực tế, không phải trường hợp nào diễn ra sai về sự việc nhằm cho đối phương
giao kết hợp đồng cũng đều được coi là lừa dối. Ví dụ việc một người bán hàng
khoe không đúng sự thật về hàng hóa của mình hoặc người bán hàng nói giá quá
cao (nói thách) thì không bị xem là lừa dối, bởi lẽ trong các trường hợp này người
tiếp nhận thông tin không buộc phải kí kết hợp đồng.
Về mặt khách quan, lừa dối thường biểu hiện bằng hành vi, lời nói, tuy
nhiên, pháp luật của một số nước, trong một số trường hợp coi sự kiện không nói
ra điều mà người kí có trách nhiệm phải nói khi kí hợp đồng cũng được coi là hành
vi gian trá và trong một số trường hợp pháp luật cũng thừa nhận việc khai gian hay
im lặng trong trường hợp xét một cách hợp lý phải thông tin cho người cùng giao
kết biết là lừa dối. Khi đưa ra bộ nguyên tắc Unidroit 2004 - hợp đồng thương mại
quốc tế, đã ghi nhận nguyên tắc: “Một bên có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu do
lừa dối khi cam kết củah họ được thiết lậptừ những thủ đoạn gian lận (đặc biệt từ
lời nói hay hành vi) của bên kia,hoặc khi người này, trái ngược với những yêu cầu
về thiện chí và trung thực trong lĩnh vực thương mại và một cách gian lận, đã
không cho bên kia biết về những tình huống đặc biệt mà người này đáng lẽ phải
phát hiện ra”. Như vậy, pháp luật nhiều nước cũng như nguyên tắc thương mại
quốc tế không chỉ giới hạn sự biểu hiện của lừa dối ở hành vi, lời nói mà thừa nhận
cả trường hợp một bên không cung cấp thông tin hoặc im lặng khi xét một cách
hợp lí là họ phải có nghĩa vụ thông báo. Pháp luật Việt Nam coi việc chủ thể biết
và có nghĩa vụ phải thông báo các thông tin cần thiết cho bên kia về đối tuợng, chủ
thể, tính chất, nội dung hợp đồng, nhưng họ im lặng không nói dẫn tới bên kia hiểu
sai lệnh mà giao dịch, thì giao dịch bị xác định vô hiệu do lừa dối. Lưu ý, đối với
những thông tin rõ rệt (khuyết tật rõ rệt…) thì im lặng không bị coi là lừa dối.

8



Lừa dối và nhầm lẫn đều có chung dấu hiệu là một hoặc các bên tham gia
giao kết hợp đồng nhận thức không đúng bản chất nội dung của hợp đồng. Song,
sự phân biệt giữa lừa dối và nhầm lẫn được xác định bởi tính chất và mục đích của
việc trình bày gian lận của một bên, sự lừa dối khác với nhầm lẫm ở chỗ, sự nhầm
lẫn vốn do người xác lập hợp đồng tự mình không tìm hiểu hoặc hiểu sai sự thật,
còn sự lừa dối lại là sự hiểu sai do đối phương gây ra. Do vậy, nhầm lẫn có thể xảy
ra đối với cả hai bên tham gia giao kết hợp đồng còn lừa dối chỉ xảy ra đối với một
bên. Việc một bên tạo lập cho bên kia một sự nhầm lẫn hoặc lạm dụng sự nhầm lẫn
đã tồn tại của bên kia để đưa đến việc giao kết hợp đồng sẽ bị coi là lừa dối. Nhầm
lẫn hay lừa dối đều đưa đến hậu quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thỏa thuận
không thể hiện đúng ý chí đích thực của các bên.
Ví dụ: Hợp đồng mua bán nhà giữa anh Đặng Hữu Mậu và chị Từ Ngọc
Nhàn. Ngày 27/9/2006 anh Mậu đã bán căn nhà KP4/97a thị trấn Gò Dầu, Tây
Ninh với diện tích 6m x 18m cho chị Từ Ngọc Nhàn với giá 20 lượng vàng. Chị
Nhàn đã trả cho anh Mậu 18 lượng vàng, còn lại hai lượng thì thỏa thuận khi nào
nhận nhà sẽ giao nốt. Giấy tờ mua bán đã được UBND thị trấn chứng nhận, nhưng
chưa làm thủ tục trước bạ sang tên. Ngày 27/10/2006 anh Mậu bán 1/2 căn nhà trên
cho anh Nguyễn Văn Đức, diện tích 3m x 15m giá 15 lượng vàng. Việc mua bán
này đã được sang tên, anh Đức dọn đến ở, khi anh Đức đến ở thì xảy ra tranh chấp.
Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã hủy hợp đồng mua bán nhà giữa anh Mậu
và anh Đức và công nhậ hợp đồng mua bán nhà giữa chị Nhàn và anh Mậu. Trong
vụ kiện trên cho thấy, việc mua bán nhà giữa anh Mậu và chị Nhàn là hoàn toàn tự
nguyện và chị Nhàn đã thực hiện nghĩa vụ gần như đã hoàn thành trên thực tế mặc
dù chưa làm thủ tục sang tên trước bạ. Việc anh Mậu thực hiện mua bán với anh
Đức vi phạm nguyên tắc tự nguyện, trong quan hệ này, anh Mậu có ý thức lừa dối
với mục đích tư lợi. Về thực chất, quyền định đoạt của anh Mậu đối với ngôi nhà
gần như không còn, nó bị hạn chế bởi quyền sở hữu nhà của chị Nhàn, khi đã hợp
thức về thủ tục. Quan hệ mua bán đã hoàn thành trên thực tế, chỉ còn chờ sự ghi
nhận của pháp luật mà thôi. Bản án quyết định hủy hợp đồng mua bán giữa anh
Mậu và anh Đức của tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh là phù hợp với pháp luật.

b) Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị đe dọa
“Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm
cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng,
con của mình” (Điều 132 BLDS 2005).

9


Nếu một người do bị đe doạ mà phải xác lập, giao kết một hợp đồng dân sự,
thì tất nhiên ý chí của người này không phải là ý chí tự do,tự nguyện và vì thế giao
dịch dân sự mà họ xác lập sẽ không có hiệu lực pháp luật.
Để có thể xác định là hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự đe dọa, sự đe dọa
phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Bên đe dọa thực hiện hành vi đe dọa với lỗi cố ý, mục đích là buộc chủ thể
phía bên kia phải xác lập giao dịch dân sự với mình hoặc muốn xác lập giao dịch
dân sự với mình hoặc xác lập giao dịch dân sự với chủ thể mà bản thân bên đe dọa
mong muốn;
- Hành vi đe dọa nhằm làm cho bên kia “sợ hãi”, tức là bản thân bên bị đe
dọa hoàn toàn tê liệt ý chí mà không thể có một sự lựa chọn nào khác;
- Chủ thể bị đe dọa có thể là một bên trong giao dịch nhưng cũng có thể là
người khác. Trước đây BLDS năm 1995 xác định những người khác này là “người
thân thích”, còn theo quy định của BLDS 2005 thì những người này là cha, mẹ, vợ,
chồng, con của người bị đe dọa.
- Hành vi đe dọa chưa gây thiệt hại về đối tượng đe dọa mà hành vi đó
hướng tới, tức bên bị đe dọa mới chỉ sợ hãi về hậu quả của sự đe dọa có thể xảy ra.
Khoa học pháp lí nước ta cũng như các nước khác đều chỉ rõ sự đe doạ
nhằm buộc một người phải tham gia xác lập,thực hiện giao dịch hợp đồng dưới hai
hình thức là :đe doạ về thể chất và đe doạ về tinh thần
Đe doạ về thể chất là sự đe doạ làm cho người bị đe doạ mất hoàn toàn ý chí

tự do. Ví dụ: ông A cầm dao doạ ông B buộc phải kí kết hợp đồng bán nhà cho A .
Đe doạ về tinh thần không làm cho người bị đe doạ bị mất ý chí tự chủ và
không xảy ra ngay lập tức. A doạ B nếu không mua của A chiếc xe máy sẽ báo cho
gia đình B biết B có con riêng.
Tuy nhiên, không phải mọi hành vi đe dọa đều bị coi là trái pháp luật và là
căn cứ để xác định hợp đồng dân sự vô hiệu. Tuy nhiên không phải mọi hành vi đe
doạ đều bị coi là hành vi trái pháp luật và là căn cứ để xác định là hợp đồng vô
hiệu: sự đe doạ phải có thực và phải mang tính chất nghiêm trọng và sự đe doạ là
yếu tố quyết định việc người đe doạ tham gia xác lập,thực hiện hợp đồng dân sự.
Nếu sự đe dọa mà không nhằm mục đích xâm phạm đến lợi ích của người bị đe
dọa hoặc người thân của họ thì không thể coi là căn cứ để tuyên bố hợp đồng dân
sự vô hiệu do bị đe dọa được.
Ví dụ: vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa nguyên đơn bà Phạm
Thị Loan với bị đơn là bà Nguyễn Thị Lịch

10


Nội dung vụ việc như sau: theo bà Loan trình bày,ngày 10/3/1999 bà Lịch
viêt giấy bán cho bà Loan căn nhà cấp 4,tại xã Hợp Minh,với giá 30.000.000 đồng,
bà Lịch đã nhận đủ tiền và làm thủ tục theo quy định, bà Loan được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001 nhưng bà Lịch không chịu giao nhà nên
bà Loan yêu cầu bà Lịch trả nhà theo họp đồng mua bán. Còn phía bà Lịch cho
rằng, bà có vay của bà Loan 10 triệu đồng, lãi 10%/tháng,từ tháng 6/1997, tính đến
tháng 3/1999 thì bà nợ bà Loan 30.000.000 đồng,nhưng vì không có tiền trả nên bà
Loan đã bắt nhốt bà vào tầng 2 của nhà bà Loan, ép bà phải viết giấy bán nhà cho
bà Loan, vì sợ bà Loan đánh nên bà phải kí. Sau đó bà có báo chính quyền địa
phương.Tại UBND xã, chính con rể bà Loan thừa nhận có ép bà kí vào giấy mua
bán nhà. Do vậy, bà yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán nhà với bà Loan.
Tại bản án sơ thẩm số 03/DSST ngày 31/3/2004, TAND huyện Trấn Yên,

tỉnh Yên Bái công nhận hợp đồng mua bán nhà giữa bà Loan với bà Lịch.Vì cho
rằng việc mua bán này là hoàn toàn tự nguyện,không có sự ép buộc. Sau khi có bản
án sơ thẩm, bà Lịch kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 12/DSPT ngày 21/6/2004
TAND tỉnh Yên Bái tuyên bố hợp đồng mua bán giữa bà Loan với bà Lịch vô hiệu,
do bị ép buộc.
Trong thực tiễn thấy rằng, khi giải quyết đối với các loại hợp đồng vô hiệu
do bị đe dọa này, đôi khi các nhà thực thi pháp luật nhầm lẫn với hành vi đe dọa
thuộc đối tượng điều chỉnh của BLHS. Vì theo điều 135 BLHS quy định: “người
nào đe dọa dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm
chiếm đoạt tài sản thì bị phạt tù…”. Về mặt khách quan có điểm giống nhau ở
hành vi đe dọa được quy định trong BLDS và BLHS, mục đích đều nhằm chiếm
đoạt tài sản người khác nhưng tính chất và mức độ của hành vi đe dọa quy định
trong BLHS cao hơn.
Những hợp đồng được xác lập do bị lừa dối, đe dọa chỉ bị vô hiệu khi có yêu
cầu của bên bị lừa dối, bên bị đe dọa và toà án chấp nhận yêu cầu đó. Như vậy
những giao dịch được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực nếu không có
tác động của bên bị lừa dối, bị đe doạ.
2.2.3 Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo
Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo có đặc điểm là các bên tham gia hợp
đồng hoàn toàn tự nguyện khi giao kết hợp đồng nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không
đúng với ý chí đích thựccủa họ (có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất
giữa ý chí và bày tỏ ý chí).
Điều 129 BLDS 2005 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một
cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn
11


giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu
theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với

người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”.
Như vậy, có thể thấy có hai trường hợp giả tạo. Thứ nhất là giả tạo để che
dấu một hợp đồng khác. Khi đó, hợp đồng che dấu vô hiệu còn hợp đồng bị che
dấu vẫn có hiệu lực nếu như hợp đồng bị che dấu đó vẫn đáp ứng được các điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Ví dụ: Ngày 7/9/2008 bà Hằng bán nhà cho bà Yến căn nhà ở Nhật Tân với
giá 900.000.000 đồng. Bà Yết đã nhận nhà đất sử dụng, bà Hằng nhận
900.000.000 đồng tiền bán nhà.Vì căn nhà trên nằm trong diện giải tỏa, nên cùng
ngày 7/9/2008 bà Yến và bà Hằng lại ký giấy có nội dung: bà Hằng gửi bà Yến
nhà (căn nhà đã được bán cho bà Yến) mục đích của việc viết giấy gửi nhà là để
bảo vệ quyền lợi cho bà Yến, nếu nhà bị giải tỏa thì bà Yến được nhận tiền đền bù.
Như vậy,việc bà Yến và bà Hằng ký giấy gửi nhà là hợp đồng giả tạo, không
có giá trị pháp lý. Hợp đồng được các bên giao kết chỉ nhằm che giấu giao dịch
mua bán nhà trước cơ quan chức năng có thẩm quyển,vì nhà là đối tượng của giao
dịch mua bán cụ thể này nằm trong diện giải tỏa. Khi giải quyết vụ án này Tòa án
các cấp tuyên bố giao dịch gửi giữ nhà giữa bà Yến với bà Hằng là hợp đồng vô
hiệu và xác định giao dịch thực tế là việc mua bán nhà giữa hai bên.Việc áp dụng
hậu quả pháp lí đối với hợp đồng giả tạo trong trường hợp này là có cơ sở pháp lí.
Trường hợp thứ 2 là hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba. Ví dụ: các bên thoả thuận giao kết hợp đồng tặng cho, nhưng không làm
phát sinh quyền của người được tặng cho (hợp đồng tưởng tượng) nhằm trốn tránh
việc trả nợ người cho vay trước đó. Khi đó hợp đồng tặng cho giả tạo sẽ vô hiệu.
2.3 Về nội dung
Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự là các bên phải tuân thủ
pháp luật khi xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; khi pháp luật
không quy định thì các bên có thể cam kết, thỏa thuận về việc xác lập, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ, nhưng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của luật
dân sự. Đồng thời các bên phải bảo đảm gữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng, phát huy
phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tinh thần tương thân tương ái, mỗi người
vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân

tộc. Do vậy, điểm b khoản 1 Điều 122 BLDS quy định: “Mục đích và nội dung của
giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”.

12


Mục đích của hợp đồng là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt
được. Nội dung hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thoả
thuận trong hợp đồng, những điều khoản này xác định quyền và nghĩa vụ của các
bên phát sinh từ hợp đồng đồng thời cũng xác định trách nhiệm dân sự của các chủ
thể đó trong trường hợp các chủ thể này không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng cam kết. Mục đích và nội dung của hợp đồng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Con người xác lập,thực hiện hợp đồng dân sự luôn nhằm đạt được mục đích nhất
định. Muốn đạt được mục đích đó, họ phải cam kết, thoả thuận thực hiện hợp đồng.
Một hợp đồng dân sự muốn có hiệu lực pháp luật thì trước hêt nội dung của hợp
đồng phải không trái với pháp luật và không trái với truyền thống đạo đức xã hội.
“Điều cấm của pháp luật là những quy định pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định” (điều 128 BLDS 2005). Xuất phát từ lợi
ích công cộng mà pháp luật sẽ có những quy định cụ thể liên quan đến việc cấm
chủ thể được thực hiện những hành vi nhất định hoặc đưa ra những quy định xác
định cụ thể các loại tài sản không thể là đối tượng của HĐDS, những công việc mà
chủ thể không được làm.
“Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” (điều 128 BLDS
2005). Như vậy, khác với điều cấm của pháp luật là những quy định cụ thể trong
một văn bản xác định những hành vi nhất định không cho phép chủ thể thực hiện,
tính trái đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử của cộng đồng được thừa nhận
và tôn trọng nên việc xác định một HĐDS có mục đích và nôi dung trái đạo đức xã
hội hay không cần phải được cân nhắc hết sức kỹ càng.
Có những HĐDS có mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức

xã hội nhưng nội dung không vi phạm điều cấm của hợp đồng và ngược lại. Tuy
nhiên, dù là mục đích hay nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức
xã hội, những hợp đồng đó vẫn bị coi là vô hiệu.
Tình huống thực tiễn: Đó là vụ mua bán nhà số 187 đường Ngô Gia Tự, phường
3, quận 10 thành phố Hồ Chí Minh giữa ông Trần Định Quý và Trần Văn Nghệ.
Căn nhà này là một phần trong khối tài sản chung của ông Nghệ và vợ là bà
Nguyễn Thị Hạng, bà Hạng và ông Nghệ có 4 người con là Trần Minh Long, Trần
Thế Hiệp, Trần Thị Kiện, Trần Thị Hưng. Năm 1972, bà Hạng chết không để lại di
chúc. Năm 1989 ông Nghệ bán toàn bộ căn nhà trên cho ông Quý với giá 180
lượng vàng và ông Nghệ đã nhận 108 lượng vàng của ông Quý. Hai người con gái
của ôngNghệ là bà Kiện và bà Hưng đứng ra ngăn không cho ông Nghệ bán nhà,
nên việc mua bán không được làm thủ tục. Cấp phúc thẩm nhận định di sản của bà
Hạng có giá trị 96,1 lượng vàng nên kỷ phần của mỗi người thừa kế là 19,22
lượng, riêng ông Nghệ được 145 lượng và 6 chỉ vàng (bao gồm cả tài sản chung,
tài sản riêng và phần tài sản được thừa kế). Bà Kiện đang ở căn nhà 628/11B
đường Hậu Giang trị giá 12 lượng vàng, nay ông Nghệ đồng ý cho thêm 5 lượng
13


vàng nữa. Còn bà Hưng, ông Nghệ đồng ý cho 30 lượng vàng. Do đó quá kỷ phần
bà Hưng được hưởng. Cấp phúc thẩm chấp nhận hợp đồng mua bán, chánh án
TANDTC kháng nghị bản án trên, Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao xử
giám đốc thẩm và nhận định đây là di sản thừa kế chưa chia. Vì vậy, việc mua bán
trái pháp luật nên đã hủy hợp đồng mua bán giữa ông Nghệ và ông Quý.
2. 4 Về hình thức
Tuân thủ hình thức phù hợp với quy định của pháp luật là một trong những
điều kiện có hiệu lực của GDDS nói chung, của hợp đồng dân sự nói riêng. Nghĩa
là, trong quá trình thực hiện hành vi GDDS, bên cạnh việc cho phép các chủ thể
tham gia có quyền lựa chọn hình thức giao dịch, để bảo đảm trật tự quản lý của
Nhà nước, pháp luật cũng có quy định buộc các bên tham gia GDDS, trong một số

trường hợp nhất định phải tuân theo hình thức nhất định. Trong những trường hợp
như vậy, nếu các bên không tuân theo hình thức quy định đó thì hợp đồng bị coi là
vô hiệu. Tuỳ thuộc vào nội dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tuỳ thuộc
vào độ tin cậy lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định trong
việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể
Tại điều 401 quy định
“ 1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải
được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì
phải tuân theo các quy định đó.
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Hình thức GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp
pháp luật có quy định. Điều này có nghĩa, trong trường hợp pháp luật quy định một
hợp đồng cụ thể phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định thì hợp đồng đó
phải được thể hiện dưới hình thức đó. Đây cũng được xem là điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng. Nếu hợp đồng không được thể hiện dưới hình thức theo quy định
của pháp luật như không phải bằng văn bản, bằng văn bản nhưng không được công
chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên,
Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện
quy định về hình thức của giao dịch trong thời hạn nhất định. Quá thời hạn đó mà
các bên không thực hiện thì giao dịch vô hiệu. Bên có lỗi làm cho GDDS vô hiệu
phải bồi thường thiệt hại (điều 134 BLDS).
III. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

14



Điều 137 BLDS 2005 quy định: “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm
xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu,
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì
phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được
bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Đối với hợp đồng vô hiệu, vấn đề có ý nghĩa sat thực nhất đối với các bên đó
là hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và nó cũng nhắc nhở ý thức tôn trọng
pháp luật khi giao kết hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự dù là vi phạm bất kỳ
nguyên tắc nào như đã nêu ở phần trên thì khi đã bị Tòa án tuyên bố vô hiệu đều có
hậu quả pháp lý chung là phải hủy bỏ hợp đồng và các bên quay trở lại trạng thái
trước khi giao kết hợp đồng.
3.1 Đối với các bên tham gia hợp đồng
Khi một HĐDS vô hiệu, không có giá trị pháp lý tại thời điểm ký kết, do vậy
không có giá trị bắt buộc đối với các bên tham gia giao dịch, nghĩa là các bên
không còn ràng buộc bởi quyền và nghĩa vụ với nhau. Nói cách khác, khi HĐDS
vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của mỗi bên không được pháp luật công nhận và bảo
vệ. Thực tế, đa số các hợp đồng dân sự khi tuyên bố vô hiệu thì các bên đã thực
hiện được một phần, thậm chí đã thực hiện xong. Bởi các bên tham gia hợp đồng
thường không chú ý đến những quy định của pháp luật liên quan tới hợp đồng mà
chỉ quan tâm tới việc thực hiện và đạt được mục đích. Khi thấy quyền lợi của mình
bị ảnh hưởng thì mới yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Về nguyên tấc các bên
quay lại tình trạng ban đầu (hoàn nguyên) như khi chưa xác lập giao dịch. Cũng
giống như pháp luật của các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận
quan điểm là khi HĐDS vô hiệu thì các bên phải chấm dứt thực hiện hợp đồng đó.
Nếu mới xác lập chưa thực hiện thì các bên không được thực hiện, còn trong
trường hợp đang thực hiện cũng không được thực hiện nữa và phải hoàn trả cho
nhau những lợi ích vật chất đã nhận.
Hoàn trả tài sản là một trong những biện pháp phổ biến để giải quyết hậu

quả của hợp đồng dân sự vô hiệu nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu tại thời
điểm các bên tham gia kí kết.Tuy nhiên, trong thực tế tài sản được hoàn trả không
phải lúc nào cũng còn nguyên giá trị của nó tại thời điểm giao kết, thông thường nó
bị biến đổi do tác động của các yếu tố tự nhiên và xã hội
+Tài sản bị tác động của tự nhiên làm hao mòn hoặc xấu đi so với lúc ban
đầu khi giao kết.
15


+Tài sản có thể bị giảm giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của con người
+Tài sản có thể tăng, giảm giá trị do tác động của quy luật kinh tế thị trường.
+Khi quản lí tài sản các đương sự có thể khai thác một số lợi ích trong đó và
cũng có thể đầu tư công sức tiền bạc làm tăng giá trị và giữ gìn,bảo quản tài sản
Các hợp đồng vô hiệu do bị đe doạ, nhầm lẫn… đều phải có yêu cầu của một
bên. Nhưng đối với hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật thì lại
không phụ thuộc vào ý chí của các bên. Do vậy, tài sản giao dịch và lợi ích thu
được có thể bị tịch thu sung công quỹ. Ví dụ như trong trường hợp mua bán thuốc
phiện, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm.
Trong trường hợp có thiệt hại mà bên nào có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại
cho bên kia.Nếu cả hai bên đêu có lỗi thì họ phải chịu phần thiệt hại tương ứng với
mức độ lỗi của mình.
3.2 Đối với người thứ ba ngay tình
Theo từ điển thuật ngữ Luật học thì người thứ ba ngay tình khi tham gia
GDDS được hiểu là “người được chuyển giao tài sản thông qua GDDS mà họ
không biết, không buộc phải biết là tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu
được từ một giao dịch vô hiệu”. Vậy người thứ ba ngay tình khi tham gia giao kết
hợp đồng ngay tình là khi tham gia giao dịch trên cơ sỏ tự nguyện, bình đẳng và
tuân theo các quy định của pháp luật mà không biết đối tượng của hợp đồng là tài
sản bất minh, do chủ sở hữu được xác lập trước đó bởi một GDDS vô hiệu. Đây là
yếu tố quan trọng nhất để xác định người tham gia giao dịch hoàn toàn ngay tình.

Khi xác định hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu mà có người thứ ba
tham gia cần được bảo vệ cần phải xem xét một số các yếu tố. Đó là: xem xét tính
có hiệu lực của hợp đồng do người thứ ba xác lập; đánh giá khả năng nhận thức
hành vi, tính có lỗi hay không có lỗi của các bên tham gia giao dịch và người thứ
ba phải có nghĩa vụ chứng minh khi tham gia giao dịch họ hoàn toàn tự nguyện
Điều 138 BLDS 2005 quy định: “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
1. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là
động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao
dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản
phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho
người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp
người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao
16


dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do
bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.
Thứ nhất, đối với loại tài sản theo pháp luật được phép đưa vào giao dịch
trên thị trường và là loại tài sản thông dụng, những người tham gia giao kết hợp
đồng không nhất thiết phải điểu tra, xác minh về nguồn gốc tài sản. Tòa án căn cứ
vào đặc điểm, tính chất của loại tài sản và đối với từng hợp đồng cụ thể để ra phán
quyết bảo đảm tính chất mêm dẻo, linh hoạt, không trái pháp luật đồng thời đáp
ứng được nguyện vọng của các bên khi tham gia hợp đồng. Đối với các loại tài sản
không phải mang tính chất thiết yếu đối với chủ sở hữu hoặc các tài sản không để
được lâu, không thể lấy lại được, khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu chỉ cần các bên
hoàn lại cho nhau theo giá trị, theo nguyên tắc bù trừ nghĩa vụ.

Đối với những tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà nước nhưng không thuộc
diện Nhà nước cấm, khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu, Tòa án có thể căn cứ vào quy
định của pháp luật đối với từng loại tài sản để buộc người thứ ba phải trả lại cho
Nhà nước. Buộc người chuyển giao tài sản cho người thứ ba ngay tình phải bồi
thường thiệt hại cho người thứ ba ngay tình theo thời giá.
Đối với hợp đồng mà đối tượng là tài sản đặc trưng của chủ sở hữu mà chủ
sở hữu yêu cầu phải trả lại thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng, cần giao tài sản
lại cho chủ sở hữu và buộc người tham gia giao dịch bất hợp pháp phải hoàn trả lại
tiền cho người thứ ba tương đương với thời điểm giao kết hợp đồng và chịu mọi
thiệt hại mà do họ gây lên.
IV. Một số hạn chế và giải pháp khắc phục trong chế định hợp đồng dân
sự vô hiệu
Điều 127 BLDS 2005 qui định: “Giao dịch dân sự không có một trong các
điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Theo ngôn từ
của Điều 127 BLDS và các điều khỏan tiếp sau cũng như Điều 410 BLDS chúng ta
có thể hiểu các điều kiện được qui định tại Điều 122 BLDS chính là những điều
kiện cần và đủ để hợp đồng có hiệu lực. Nói cách khác chỉ khi một hợp đồng vi
phạm một trong các điều kiện trên thì mới có thể bị coi là vô hiệu ngoài ra không
còn bất cứ trường hợp vô hiệu nào khác. Tuy nhiên, Điều 411 BLDS lại qui định
trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được.
Như vậy cho thấy sự thiếu bao trùm của Điều 127 BLDS hay sự thiếu thống nhất
trong qui định về hợp đồng dân sự vô hiệu. Để tránh nhược điểm này Điều 127 cần
được sửa lại theo hướng mềm dẻo hơn và bao quát hơn đó là thay cụm từ mang
tính dân dã “không có” bằng cụm từ mang tính pháp lý “vi phạm” tại Điều 127
17


BLDS. Cụ thể là: “Giao dịch dân sự vi phạm một trong các điều kiện được quy
định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
Bên cạnh đó, qui định tại khoản 1 Điều 411 BLDS: “Trong trường hợp ngay

từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan
thì hợp đồng này bị vô hiệu” là qui định chỉ rõ đối tượng của hợp đồng cũng là một
trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tương tự như pháp luật các nước
(mặc dù không được qui định một cách minh thị). Nói cách khác, nếu không có đối
tượng của hợp đồng (giao dịch) thì sẽ không thể có hợp đồng. Tuy nhiên, qui định
này chỉ được đề cập đến trong từng chế định cụ thể của giao dịch dân sự chứ không
được qui định bao quát tại Điều 122 BLDS – điều luật qui định chung về điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự. Do đó nên bổ sung thêm điều kiện về đối tượng
vào các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 122 BLDS đồng thời
lược bỏ các qui định tại khoản 1 điều 411 và khoản 3 điều 667 BLDS.
Việc khoản 1Điều 122 chỉ đề cập đến điều kiện về năng lực hành vi mà
không đề cập đến điều kiện về năng lực pháp luật dân sự của chủ thể xác lập, thực
hiện hợp đồng dường như mâu thuẫn với các qui định được ghi nhận tại chế định
đại diện nói chung và chế định giám hộ nói riêng. Bởi với điều kiện “người tham
gia giao dịch là người có năng lực hành vi” thì rõ ràng người đại diện, và người
giám hộ trong hầu hết mọi trường hợp đều đáp ứng được điều kiện này và vì thế
hợp đồng mà người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá thẩm quyền đại diện hoặc
hợp đồng mà người giám hộ xác lập, thực hiện có đối tượng là tài sản của người
được giám hộ phải được xem là có hiệu lực. Tuy nhiên, đối với các trường hợp nêu
trên thì thái độ của pháp luật lại hoàn toàn khác.
Đối với trường hợp hợp đồng được xác lập bởi những người có năng lực
hành vi đầy đủ nhưng nếu họ không phải là người có quyền (không có năng lực
pháp luật) đối với tài sản là đối tượng của hợp đồng thì đương nhiên hợp đồng đó
sẽ có hiệu lực pháp luật (nếu chỉ xét trên phương diện năng lực hành vi của người
giao kết). Tuy nhiên, nếu coi đây là hợp đồng có hiệu lực thì rõ ràng lại trái với
nguyên tắc cơ bản được ghi nhận tại khoản 1 Điều 9 BLDS.
Để khắc phục điều này, khoản1 Điều 122 BLDS cần phải được sửa lại theo
hướng “Người tham gia giao dịch dân sự phải là người có năng lực giao kết giao
dịch dân sự” bởi có như vậy thì người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
phải đáp ứng được không chỉ điều kiện về năng lực hành vi mà còn phải đáp ứng

được cả điều kiện về năng lực pháp luật.
Điều 130 BLDS 2005 qui định trường hợp người xác lập giao dịch dân sự là
“người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
18


lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện” mà “theo quy định của pháp luật giao dịch
này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện” thì có thể vô hiệu. Như vậy,
điều luật này mới chỉ dừng lại ở qui định mang tính chất một chiều là bảo vệ những
người kể trên nhưng chưa tính đến các trường hợp cũng cần phải bảo vệ người
tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng không
biết và không buộc phải biết đối tác là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Nên bổ sung thêm qui
định cho phép bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự trong trường hợp những người này
không biết và không buộc phải biết đối tác của họ là những người nêu trên.
Về điều mục đích và nội dung của hợp đồng, qui định tại khoản 2 điều 122
BLDS mới chỉ đề cập đến những hành vi mà chủ thể của hợp đồng không được
thực hiện chứ chưa đề cập đến các trường hợp chủ thể xác lập hợp đồng dân sự
không thực hiện những hành vi đáng lẽ phải thực hiện. Qui định hiện nay có thể
dẫn đến trường hợp các bên tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng mặc dù không
tuân theo quy định của pháp luật nhưng không vi phạm điều cấm của pháp luật
(những việc mà pháp luật cấm thực hiện). Với logic này đương nhiên hợp đồng nói
trên vẫn có hiệu lực (hợp đồng đó không vô hiệu). Tuy nhiên, điều này lại đi ngược
lại mục đích của việc ban hành pháp luật. Ngoài ra, việc sử dụng các thuật ngữ của
BLDS liên quan đến hiệu lực của giao dịch dân sự còn thiếu thống nhất. Để khắc
phục điều này, nên sử dụng thống nhất thuật ngữ “không vi phạm qui định bắt
buộc” trong các điều khỏan nói trên. Cụ thể là khoản 2 điều 122 BLDS nên được

sửa lại là: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm qui định bắt buộc
của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”.
Đối với qui định về hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn BLDS Việt Nam chưa
nhấn mạnh vào mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn dẫn đến sự vô hiệu của hợp
đồng (sự nhầm lẫn quan trọng tới mức một người bình thường trong cùng hoàn
cảnh sẽ chỉ giao kết hợp đồng với những điều khoản khác hoặc không khi nào giao
kết hợp đồng đó nếu biết được sự thực) nhằm tránh các trường hợp người bị nhầm
lẫn cẩu thả nghiêm trọng trong xác lập hợp đồng. Nói cách khác qui định về nhầm
lẫn trong Điều 131 BLDS 2005 chưa có cái nhìn mang tính chất khách quan về
việc xem xét lỗi đối với các bên xác lập hợp đồng (bên nhầm lẫn và bên gây nhầm
lẫn) dẫn tới hậu quả pháp lý có thể không công bằng đối với các bên. Mặt khác,
theo Điều 131 BLDS qui định thì chỉ cần “một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia
19


nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch” thì giao dịch đó
đã có thể bị xem xét tính có hiệu lực. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng dân sự
gồm rất nhiều các điều khỏan khác nhau trong đó có những điều khỏan không
mang tính chất quyết định đến việc các bên xác lập, thực hiện giao dịch vì thế nếu
chỉ qui định chung chung như vậy thì điều luật này có thể được hiểu là nếu nhầm
lẫn về bất cứ nội dung nào cũng có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Điều này đương
nhiên là không bảo đảm cho các bên sự an toàn khi tham gia xác lập, thực hiện hợp
đồng cũng như thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.
Vì vậy Điều 131 BLDS đoạn 1 nên được sửa là “Khi một bên có lỗi vô ý
làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung chủ yếu của giao dịch dân sự mà xác lập
giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao
dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch vô hiệu trừ trường hợp bên bị nhầm lẫn cẩu thả nghiêm trọng”.
Về hợp đồng vô hiệu do bị đe dọa, so với Điều 142 BLDS 1995, Điều 132
BLDS 2005 đã cụ thể hóa “người thân thích” thành: “cha, mẹ, vợ, chồng, con” của

người bị đe dọa. Việc sửa đổi này đã thu hẹp phạm vi người được bảo vệ do bị đe
dọa. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp người bị đe dọa mặc dù không thuộc
nhóm đối tượng trên, nhưng lại là người có vị trí đặc biệt quan trọng với người xác
lập hợp đồng và vì vậy người xác lập hợp đồng đã buộc phải xác lập trái với mong
muốn của mình. Hoặc người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng mặc dù không
có quan hệ gì với một người nhưng do lo sợ thiệt hại có thể xảy ra ngay lập tức cho
người đó mà đã xác lập hợp đồng trái với mong muốn của mình. Nếu căn cứ vào
ngôn từ của Điều 132 BLDS, trong cả hai trường hợp trên người đã xác lập hợp
đồng trái với mong muốn của mình sẽ không có quyền yêu cầu tuyên hợp đồng vô
hiệu. Điều này dường như đi ngược lại với qui định của Điều 122 khỏan 1 điểm c
BLDS 2005 “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” và hơn nữa với qui
định này dường như đi ngược lại với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta
và nếu hành vi đe dọa này nghiêm trọng đến mức người bị đe dọa đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì việc người từ chối không xác lập hợp đồng
dân sự liệu có bị xem là coi thường sinh mệnh của người khác và phải chịu trách
nhiệm hình sự hay không. Bởi vậy, pháp luật chỉ nên qui định: “Đe dọa trong giao
dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực
hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân
phẩm, tài sản của mình hoặc của người khác”.
Như vậy, có thể thấy rằng các quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy
định hiện hành của pháp luật đã kế thừa truyền thống pháp luật Việt Nam của các
20


thời kỳ đã qua đồng thời tiếp thu tinh hoa pháp luật của các nước trên thế giới. Tuy
nhiên, trong các quy định cụ thể vẫn còn có những nội dung chưa thật sự hợp lý,
chưa phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và diễn biến thực tế của cuộc sống.
KẾT LUẬN
Một hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không tồn tại theo luật, không có giá trị
pháp lí, không bắt buộc phải thực hiện, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối

với các bên tham gia hợp đồng từ thời điểm xác lập do có vi phạm pháp luật hoặc
không thể hiện ý chí thực sự của các bên giao kết.Khi hợp đồng vô hiệu, pháp luật
không biết đến bất kì quyền và nghĩa vụ nào ràng buộc của các bên.Và ngay cả khi
các bên đã tiến hành những hành vi theo cách thực hiện hợp đồng thì những hành
vi đó cũng không phải là hành vi pháp lí, không phải là hành vi thực hiện hợp đồng
Xử lí hợp đồng vô hiệu là một vấn đề phức tạp, có ý nghĩa lớn về mặt lí luận
cũng như thực tiễn, đặc biệt trong giai đoạn nước ta đang dần hoàn thiện pháp luật,
cần phải được thực hiện theo hướng tạo ra sự phù hợp giữa các quy định của pháp
luật với thực tiễn,tạo cơ sở cho pháp luật đi vào cuộc sống, điều chỉnh quan hệ hợp
đồng và giảm bớt sự khác biệt giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế .
Trong phạm vi bài viết của mình chắc chắn em không thể tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong được sự nhận xét, đánh giá của các thầy cô để bài làm của em
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 1) – NXB
Công an nhân dân – Hà Nội, 2009
2. Trường Đại học Luật Hà Nội – Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2) – NXB
Công an nhân dân – Hà Nội, 2009
3. TS Lê Đình Nghị (chủ biên) - Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 1) – NXB
Giáo dục – Hà Nội, 2009
4. TS Lê Đình Nghị (chủ biên) - Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2) – NXB
Giáo dục – Hà Nội, 2009
5. Bộ tư pháp, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý – Bình luận khoa học BLDS Việt
Nam (tập 1) – NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 2001
6. Đặng Văn Được, Tạ Thị Hồng Vân – Hướng dẫn pháp luật hợp đồng dân sự và
cơ chế giải quyết tranh chấp trong bộ luật TTDS – NXB Lao động – xã hội, Hà
Nội 2006
7. Nguyễn Mạnh Bách – Pháp luật về hợp đồng – NXB Chính trị quốc gia – Hà
Nội, 1995
8. Nguyễn Mạnh Bách – Luật dân sự Việt Nam lược giải: các hợp đồng dân sự

thông dụng – NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội, 1997
21


9. Nguyễn Văn Cường – Một số vướng mắc trong việc áp dụng các văn bản pháp
luật về tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu –
Tạp chí TAND 12/2004
10. Trần Trung Trực – Một số vấn đề về giao dịch dân sự và hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu – Luận án thạc sỹ luật học – Trường đại học Luật Hà Nội,
1997
11. Lưu Bình Dương – Bàn về hậu quả pháp lý của GDDS vô hiệu trong luật dân
sự Việt Nam – Tạp chí kiểm sát 5/2003
12. Nguyễn Văn Cường – GDDS vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của
GDDS vô hiệu – Luận án tiến sĩ luật học – Trường đại học Luật Hà Nội, 2005
12. Bộ luật dân sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2005
13. Website: thongtinphapluatdansu.wordpress.com

22



×