Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.03 KB, 27 trang )

A .LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, nền kinh tế
nước ta phải phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, khi Việt Nam là thành
viên của tổ chức kinh tế thế giới (WTO); Nền kinh tế nước nhà cần phải vững
mạnh, hệ thống pháp lụât liên quan phải thông thoáng nhưng chặt chẽ để các nhà
đầu tư trong và ngoài nước yên tâm đầu tư. Hơn hết các cá nhân tổ chức hoạt
động thương mại cần thiết phải bản lĩnh thông minh và không chỉ đừn lại ở biết
luật mà còn hiểu đúng, hiểu sâu và nắm bắt kịp thời, chính xác các quy định
pháp luật hiện hành để thu lợi nhuận và hạn chế rủi ro cho chính bản thân.
Công cụ để xác lập quyền, nghĩa vụ của các chủ thể hoạt động thương
mại là hợp đồng, Do đó hợp đồng phải tuân thủ theo quy định của pháp luật để
có hiệu lực ràng buộc các bên có kết ước, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng
của những chủ thể kinh doanh chân chính. Chính vì vậy khi có những tranh
chấp, rủi ro bất ngờ có liên quan đế hợp đồng và hợp đồng thương mại bị tuyên
bố vô hiệu sẽ khó tránh khỏi tổn thất. Cho nên phải hiểu sâu, hiểu rõ các quy
định của pháp luật hiện hành về các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương
mại đẻ tiến hành kinh doanh có hiệu quả.
2.Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài nhằm hiểu sâu hơn các vấn đề pháp lý của hợp đồng
thương mại vô hiệu.Từ đó,nêu lên tình hình thực tiễn và đưa ra những kiến
nghị,giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hợp đồng thương mại.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Làm rõ các vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mại vô hiệu.
Đưa ra thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng thương mại và đưa ra
kiến nghị giải pháp mới.
4.Phạm vi nghiên cứu
Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại.
1
5.Phương pháp nghiên cứu


Phương pháp chung : Dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng,chủ nghĩa
Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Phương pháp riêng : phương pháp phân tích,so sánh.
6. Kết cấu đề tài:
Phần A : Lời mở đầu
Phần B : Nội dung :
Chương I : Các vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mại
Chương II: Thực tiễn tài phán các hợp đồng thương mại vô hiệu
Chương III : Một số kiến nghị,giải pháp
Phần C : Lời kết
2
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
1.Các vấn đề chung
1.1 Khái niệm hợp đồng, hợp đồng thương mại
Trong một nền kinh tế thị trường vai trò của hợp đồng vô cùng quan trọng,
đò là một công cụ pháp lý hết sức quan trọng, đó là công cụ pháp lý thông dụng
nhất trong việc kinh doanh buôn bán.
Theo điều 388 bộ luật dân sự 2005 “ Hợp đồng là sự thỏa thuận của hai hay
nhiều bên nhằm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ”.
Luật thương mại 2005 không định nghĩa thế nào là hợp đồng thương mại
nhưng theo Điều 1 và Điều 2 của luật thương mại 2005 ( Nêu phạm vi điều
chỉnh và đối tượng điều chỉnh của luật thương mại 2005) có thể định nghĩa: “
Hợp đồng thương mại là sự thoả thuận để thực hiện các hoat động thương mại
trên lãnh thổ Việt Nam và hoạt động thương mại ngoài lãnh thổ Việt Nam nếu
các bên thỏa thuận áp dụng luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quôc tế mà
Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng luật này.
1.2 Mối quan hệ giữa hợp đồng và hợp đồng thương mại.
Hợp đồng thương mại là một dạng của hợp đồng, nội dung và hình thức
ký kết hợp đồng thương mại đều phải tuân thủ theo quy định của luật dân sự và

các luật khác có liên quan.
Trong hầu hết các quốc gia trên thế giới,người ta không phân biệt giữa
hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự,các quy định của hợp đồng dân sự áp
dụng cho hợp đồng thương mại.Tuy nhiên,ở Pháp,một số hợp đồng thương mại
được điều chỉnh bằng luật thương mại.
Ở Việt Nam,Điều 3 bộ luật thương mại 2005 có quy định : “Hợp đồng
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi,bao gồm mua bán hàng
hoá,cung ứng dịch vụ,đầu tư,xúc tiến thương mại và các hoạt động khác nhằm
mục đích sinh lợi”.Các hợp đồng thực hiện các hoạt động thương mại này do
luật thương mại chi phối nên tạm gọi là hợp đồng thương mại.Nhưng lợi ích của
3
sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại chẳng còn là bao khi
bộ luật dân sự 2005 ra đời đã quy tụ mọi tranh tụng xét xử về một mối : toà án
dân sự xét xử mọi tranh chấp về dân sự ,thương mại ,lao động…Mặc dù vậy,các
hợp đồng thương mại cũng có những đặc tính riêng của nó,mà nó còn phải phụ
thuộc vào luật thương mại.
Nói chung,việc phân định ra hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự là
rất khó.
Ví dụ : công ty A (nhà sản xuất) ký hợp đồng bán cho công ty B (nhà kinh
doanh) một chiếc xe tải,thì khi đó,hợp đồng ký kết giữa hai công ty là hợp đồng
có tính cách thương mại đối với cả hai bên.
Nếu công ty A ký hợp đồng bán chiếc xe tải đó cho anh C,thì lúc đó,hợp
đồng có tính cách thương mại đối với công ty A nhưng có tính cách dân sự đối
với anh C. Nếu anh C ký hợ đồng chuyển nhượng chiếc xe lại cho anh D,để anh
D sử dụng thì hợp đồng có tính chất dân sự đối với cả hai bên.
1.3 Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại
1.3.1 Năng lực chủ thể
Năng lực chủ thể là yếu tố pháp lý được các thành viên trong thương trường
quan tâm.
* Năng lực pháp luật

“Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền và
nghĩa vụ dân sự” ( khoản 1 điều 14 bộ luật dân sự 2005).
- Cá nhân là chủ thể đầu tiên của các quan hệ xã hội, là tổng hoà các mối quan
hệ xã hội vì thế năng lực phápluật dân sự của các nhân là tiền đề, là khả
năng, điều kiện cần thiết để công dân có quyền, nghĩa vụ; Là thành phần
không thể thiếu được của cá nhân với tư cách chủ thể của quan hệ pháp luật
đân sự, lad một mặt của năng lực chủ thể.
- Pháp nhân: có năng lực pháp luật kể từ thời điểm tư cách pháp nhân phát
sinh. Khác với tư cách pháp luật của cá nhân, năng lực pháp luật của pháp
nhân do luật xác định về nội dung, phù hợp với đặc điểm của từng loại pháp
nhân, thậm chí từng pháp nhân của cá nhân. Mỗi pháp nhân có một mục đích
4
xác định để theo đuổi do đó có khả năng có những quyền và nghĩa vụ giới
hạn bởi chính các mục đích đó. Bởi vậy khi giao dịch với pháp nhân muốn
tránh khả năng giao dịch bị tuyên bố vô hiệu do không phù hợp với mục
đích của pháp nhân đối tác, nên tham khảo điều lệ của pháp nhân trước khi
tiến hành giao kết
* Năng lực hành vi:
- Cá nhân: tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hoàn thiện, độc lập khi họ
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ngoài năng lực pháp luật dân sự vốn là
thuộc tính được pháp lụt ghi nhận cho mọi cá nhân.
“ Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khẳ năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”.( Điều 17 bộ luật dân sự
2005).
Nếu năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền dân sự khách quan của chủ
thể, thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính thể tạo ra các quyền,
thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Cùngvới năng lực pháp luật,năng lực hành
vi dân sự là thuộc tính của cá nhân,tạo ra tư cách chủ thể của cá nhân trong các
trong các quan hệ dân sự.
Bất cứ ai cũng có quyền ký kết hợp đồng trừ những người bị pháp luaatj

coi là không có năng lực hành vi được quy định tại điều 19 bộ luật dân sự
2005 : “người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Người thành niên
là người đủ từ 18 tuổi trở lên ( điều 18 bộ luật dân sự 2005 ) , do đó người chưa
đủ 18 tuổi tròn trở xuống là người chưa thành niên và trên nguyên tắc không đủ
năng lực kí kết hợp đồng . Ngoài ra , những người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc
bệnh khác mà không thể nhận thức được hành vi của mình , và các người
nghiện ma tuý hay chât kích thích khác có thể bị toà án ra quyết định tước bỏ
hay hạn chế năng lực hành vi ( điều 22 – 23 bộ luật dân sự 2005 ) . Người kí kết
hợp đồng mà không có năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng bị tuyên vô hiệu .
- Pháp nhân không có năng lực hành vi thực . Suy cho cùng , khái niệm năng
lực hành vi của pháp nhân không thể được xây dựng như 1 khái niệm ứng dụng
được . Pháp nhân dù được nhân cách hoá , không phải là con người cụ thể và do
5
đó , không thể tự mình xử sự . Ngay cả các cơ quan của pháp nhân cũng chỉ vận
hành thông qua vai trò của những cá nhân cụ thể đảm nhận các chức vụ cụ thể .
Suy cho cùng , pháp nhân luôn luôn phải được đại diện , từ khi được thành lập
cho đến khi chấm dứt , trong tất cả các hoạt động của mình . Năng lực hành vi
của pháp nhân thực ra là năng lực pháp nhân vay ,mượn của những con người
mà phấp nhân hoá thân vào . Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là
người đứng đầu pháp nhân .
1.3.2 . Sự tự nguyện tự do của các bên giao kết hợp đồng .
Bản chất của mọi giao dịch là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí cho
nên sự tự nguyện bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý chí .
Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện , nếu 1 trong 2 yếu
tố này không có hặc không thống nhất cũng không thể có tự nguyện . Sự tự
nguyện của 1 bên hoặc sự tự nguyện của các bên trong hợp đồng là 1 trong
những nguyên tắc được quy định tại điều 4 bộ luật dân sự 2005: nguyên tắc tự
do , tự nguyện , cam kết , thoả thuận . vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi
phạm phấp luật . Vì vậy , giao dịch không có sự tự nguyện không làm phát sinh
hậu quả pháp lý .

Luật thương mại chỉ có hiệu lực ràng buộc các nghĩa vụ pháp lý của các
bên tham gia được cho là đã tự nguyện gánh vác các nghĩa vụ đó .
1.3.3 . Nội dung , mục đích của hợp đồng
“Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó ’’ ( Điều 123 Bộ luật dân sự Việt Nam
2005). Nội dung của mọi giao dịch là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã
cam kết, thoả thuận trong gioa dịch. Những điều khoản này xác định quyền
nghĩa vụ của các bên pháp sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Con người xác lập, thực hiện giao dịch luôn nhằm
đạt được mục đích nhất định. Để các giao dịch có hiệu lực pháp luật thì mục
đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, nói cách
khác các giao dịch này không vi phạm điều cấm của pháp luật, không xâm phạm
đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
6
người khác ( Điều 10 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005). Vì thế, chỉ những tài sản
được phép giao dịch, những công việc được thực hiện không vi phạm điều cấm
pháp luật, không trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung
hợp pháp làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó. Tuy vậy nội dung
của hợp đồng cũng phụ thuộc vào tự do ý chí của các bên giao kết trong khuôn
khổ của pháp luật.
Nội dung và mục đích của hợp đồng phải tuân thủ các quy định của pháp
luật, đồng thời pháp luật cũng cho chủ thể có quyền tự do thể hiện ý chí của
mình trong nội dung và hình thức của hợp đồng.
Tính độc lập của ý chí thể hiện trong nội dung của hợp đồng. Chủ thể của
quan hệ pháp luật có quyền tự do giao két hoặc không giao kết hợp đồng, có
quyền đồng ý hoặc không đồng ý những điều khoản trong hợp đồng. Khi một
hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, thì không dựa vào ngôn từ của hợp đồng
mà còn phải căn cúa vào ý chí chung của các bên để giải thích điều khoản đó.
Tính độc lập của ý chí thể hiện trong hình thức của hợp đồng. Nó được
khẳng định bằng các quy tắc đòi hỏi việc giải thích hợp đồng theo ý chí thực. Tự

do ý chí khi giao kết hợp đồng thì chủ thể và khách thể đều phải tuân theo quy
định của pháp luật vì “ mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các
bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó ( Điều 123 Bộ luật dân sự
2005). Nói cách khác chủ thể phải có đầy đủ năng lực pháp luật, nội dung và
mục đích của hợp đồng phải hợp pháp thì giao dịch mới được pháp luật bảo hộ.
1.4. Hình thức của hợp đồng
Hình thức giao kết hợp đồng là sự bộc lộ ý chỉ của các bên giao kết được
ghi nhận theo một cách nào đó. Trên nguyên tắc, các bên được tự do lựa chọn
cách thức bộc lộ ý chí của mình. Thông qua cách biểu hiện này, người ta có thể
biết được nội dung của giao dịch kinh doanh đã xác lập. Hình thức của hợp đồng
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận các
quan hệ kinh doanh đã và đang tồn tại giữa các bên từ đó xác định trách nhiệm
khi có vi phạm
7
Điều 127 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005: Giao dịch dân sự không có một
trong các điều kiện được quy định tại điều 122 Bộ luật dân sự 2005 thì vô hiệu.
Mà ở Khoản 2 Điều 122 Bộ luật dân sự quy định: “ Hình thức giao dịch dân sự
là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy
định”.Tuy nhiên theo đoạn cuối Khoản 2 Điều 401 Bộ luật dân sự quy định “
Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác” cho nên không thể suy đoán theo điều
127 và 122 trên mà tuyên bố hợp đồng vô hiệu ngay lập tức.
Có thể nói hình thức hợp đồng được hiểu là sự thể hiện nội dung của hợp
đồng và những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp
đồng phải tuân thủ khi ký kết một số loại hợp đồng nhất định.
1.5 Sơ lược hợp đồng vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu nếu không đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định
của pháp luật như đã phân tích ở trên thì vô hiệu; một hợp đồng vô hiệu thì
không phát sinh hiệu lực gì cả
Sự vô hiệu của hợp đồng được phân thành hai loại: vô hiêu tuyệt đối và

vô hiệu tương đối.
* Vô hiệu tuyệt đối:
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
( Điều 128 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005)
- Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vị đối với người thứ ba ( Điều 129 Bộ luật
dân sự Việt Nam 2005)
- Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo quy định bắt buộc của pháp
luật ( Điều 134 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005)
* Vô hiệu tương đối:
Điều 135 Bộ luật dân sự 2005: “ Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần khi
một phần của giao dịch bị vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực còn lại
trong giao dịch”. Như vậy, chỉ riêng những điều khoản bắt hợp pháp bị tiêu
huỷ, còn các phần khác của hợp đồng vẫn có hiệu lực.
8
Các trường hợp vô hiệu tương đối:
- Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện( Điều
130 Bộ luật dân sự 2005)
- Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn.( Điều 131 Bộ luật dân sự 2005)
- Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ( Điều 132 Bộ luật dân sự Việt Nam
2005)
- Hợp đồng vô hiệu do nười xác lập đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác
lập giao dịch tại thời điểm không nhận thức và làm chủ hành vi của mình
(Điều 133 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005).
2. Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại
2.1 Khái quát những quy định của pháp luật về các trường hợp vô hiệu của
hợp đồng thương mại
Hợp đồng là thoả thuận giữa các bên làm phát sinh thay đổi,chấm dứ
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao kết nhằm đạt được lợi ích hợp

pháp mà họ mong muốn.Khi giao kết,các bên phải tôn trọng một số điều
kiện.Bất kỳ hoạt động kinh doanh nào thực hiện với đối tác bên ngoài đều phải
thông qua hợp đồng.Đây chính là ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham
gia kinh doanh.
Chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp
lý của các bên.Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 đã quy định 4 điều kiện có hiệu
lực pháp luật của hợp đồng như đã phân tích ở trên.
Như vậy,các hợp đồng không tuân thủ một trong 4 điều kiện trên thì vô
hiệu (có thể tương đối hoặc tuyệt đối).
2.2 Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng thương mại:
2.2.1 Các trường hợp vô hiệu theo quy định chung
2.2.1.1Hợp đồng thương mại vô hiệu do vi phạm điều cấm pháp luật, trái đạo
đức xã hội
“ Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho
phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
9
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” ( Điều 128 Bộ
luật dân sự Việt Nam 2005).
Quy định hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội ở Điều 128 Bộ luật dân sự 2005: “ Giao dịch dân sự có mục đích và
nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”.
Vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội bao gồm nội dung
và mục đích của giao dịch trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng này đương
nhiên bị vô hiệu không phụ thuộc vào ý chí của các bên giao kết hợp đồng.
Pháp luật của các nước đều không thừa nhận các giao dịch dân sự mà
trong đó nội dung của chúng vi phạm các điều cấm của pháp luật, trái đạo đực.
Các giao dịch của các chủ thể vi phạm điều cấm của pháp luật là hành vi bất hợp
pháp và do đó vô hiệu.
Khi xem xét đến những ảnh hưởng của sự bất hợp pháp của các giao dịch trong

trường hợp này cần phải tính các yếu tố:
- Thứ nhất, biểu hiện cụ thể của sự bất hợp pháp ( vi phạm điều cấm của pháp
luật hay xâm hại đến trật tự công cộng).
- Thứ hai, các bên có biết về sự bất hợp pháp không?
- Thứ ba, phần nội dung bất hợp pháp của giao dịch có thể tách ra khỏi những
nội dung còn lại hay không?
Song vấn đề là ở chỗ : khi nào được coi là vi phạm đạo đức xã hội . Có 1 số
giao dịch dân sự mặc dù không bị pháp luật ngiêm cấm nhưng vẫn có thể coi là
vô hiệu vì vi phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội . Sự khác biệt của 2 khái
niệm này không phải khi nào cũng rõ rệt . Trong nhiều trường hợp , giao dịch
hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu khi :
- Vi phạm nguyên tắc công bằng ;
- Lợi dụng sơ suất hoặc hoàn cảnh khó khăn , bí thế của người khác nhằm
mục đích thu lợi bất công quá đáng
10
- Hạn chế quyền tự do của người khác ( ví dụ : trong 1 hợp đồng thuê mướn
hoặc chuyển giao 1 công việc nhất định lại kèm theo điều kiện cấm 1 bên
thực hiên loại hình công việc tương tự trong phạm vi rộng và thời gian dài . )
- Các giao dịch có tính chất đầu cơ hay cho vay nặng lãi .
Hiện nay , sự quá độ về đạo đức đang gây khó khăn cho việc xây dựng và
phát triển nhân cách . Những chuẩn mực cũ đã lỗi thời nhưng trong nhiều trường
hợp vẫn được ngộ nhận như là giá trị . Nững chuẩn mực mới đang hình thành
chưa đủ sức xác lập tính phổ biến trong hiện thực để định hướng nhân cách . Vì
vậy , cần phải chủ động xây dựng nhân cách đạo đức trong điều kiện hiện nay ,
cần xác định 1 hệ thống chuẩn mực mới phù hợp với thời đại . Có như vậy mới
giúp chủ thể tham gia các giao dịch trong hoạt động thương mại , không vi phạm
đạo đức xã hội , điều cấm pháp luật .
2.2.1.2 Hợp đồng thương mại vô hiệu do giả tạo
* Giả tạo trong hoạt động thương mại :
Trong hoạt động của các cơ quan , doanh ngiệp , quyền sở hữu tài sản thuộc

về nhà nước hoặc thuộc về nhà đầu tư hay cổ đông góp vốn . Những người đại
diện cho cơ quan , đơn vị trong hoạt động đầu tư , kinh doanh là những người
tham gia giao kết hợp đồng nên họ quan tâm đầy đủ và trước hết đến lợi ích của
đơn vị mình , tìm kiếm lợi nhuận tốt nhất cho đơn vị mình trong phạm vi có thể .
Nhưng do không phải là chủ sở hữu đích thực , người trực tiếp tiến hành các
hoạt động này ó thể không có lợi ích kinh tế cụ thể từ những giao dịch mà mình
tiến hành hoặc được hưởng 1 phần nào đó từ lợi ích thu được mà những lợi ích
đó nhiều khi quá nhỏ so với điều kiện cho phép , họ có thể tìm kiếm những cơ
hội , thông đồng với đối tác để mang lại lợi ích riêng cho cá nhân . Chính yếu tố
đó đã góp phần hình thành những hợp đồng giả tạo .
* Khái niệm :
Hợp đồng giả tạo theo quy định của luật Việt Nam : “ Khi các bên xác lập
giao dịch dân sự 1 cách giả tạo nhằm che giấu 1 giao dịch dân sự khác thì giao
dịch dân sự giả tạo vô hiệu , còn giao dịch che giấu vấn có hiệu lực , trừ trường
hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của bộ luật này ’’ ( điều 129 Bộ
11
luật dân sự Việt Nam 2005 ) . Nói cách khác , giao dịch dân sự giả tạo là giao
dịch có nội dung được thiết lập không phản ánh ý chí đích thực của các bên .
* Có 2 trường hợp giả tạo :
- Giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 : “ trong trường
hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 thì giao
dịch đó vô hiệu ” ( Điều 129 Bộ luật dân sự 2005 )
VD : giá ghi trong hợp đồng là 20 triệu đồng trong khi giá thực tế 2 bên giao
dịch là 100 triệu . Sự che giấu này trước tiên nhằm mục đích trốn thuế . Hợp
đồng giả tạo này sẽ bị tuyên vô hiệu do trốn tránh nghĩa vụ đóng thuế cho cơ
quan nhà nước.
- Giả tạo nhằm cố ý che giấu 1 giao dịch khác : giao dịch giả tạo vô hiệu ,
còn giao dịch che giấu vẫn có hiệu lực , trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô
hiệu ( Điều 129 Bộ luật dân sự Việt Nam 2005 ).
VD : X không phải là đối tượng làm dịch vụ môi giới cho công ty A , nhưng X

đẫ giả tạo ra 1 số hợp đồng mua bán giữa các công ty khác với công ty A và nhờ
B lập các hợp đồng môi giới giả tạo để rút tiền hoa hồng của công ty A thì
những hợp đồng đó vô hiệu .
2.2.1.3 Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ hình thức :
* Theo điều 124 bộ luật dân sự 2005 có quy định hình thức của các giao dịch :
“ giao dịch dân sự được biểu hiện bằng lời nói , văn bản hoặc bằng hành vi cụ
thể “.
Khoản 2, điều 122 bộ luật dân sự 2005 : “ hình thức giao dich dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định “,
cho nên , chỉ khi nào có quy định và luật yêu cầu thì hợp đồng mới phải tuân
thủ về hình thức. Hình thức của hợp đồng không phải là yếu tố đương nhiên
làm hợp đồng vô hiệu và cũng không thể dựa vào lập luận do hợp đồng không
tuân thủ hình thức nên vô hiệu.( khoản 2 điều 401).
Chỉ những giao dịch pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn
bản, phải có chứng thực , chứng nhận, đăng ký hoặc xin phép thì mới ràng buộc
các bên tuân theo, nếu các bên khôgn tuân thủ các quy định này đồng thời có
12
yêu cầu thì toà án xem xét và buộc các bên thực hện theo yêu cầu về hình thức
trong 1 thời hạn nhất định. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy
định về yêu cầu của hình thức về giao dịch trong thời hạn mà toà án ấn định thì
giao dịch mới đương nhiên vô hiệu . Bên có lỗi làm cho giao dich vô hệu phải
bồi thường thiệt hại.
Ví dụ :
2.2.1.4 Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên , nười mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập , thực
hiện,
Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi không đầy đủ
không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy giao dịch của họ phải
được xác lập, thiết lập dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khác
xác lập thực hiện.

Tuy nhiên , giao dịch do những người này xác lập không mặc nhiên bị coi
là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại diện cho họ: “Khi
giao dịch dân sự do người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân
sự hoặc nười bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập , thực hiện thì theo yêu
cầu của người đại diện của người đó, toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu
theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại dienj của họ xác
lập, thực hiện “ (điều 130 bộ luật dân sự 2005) .
Ngoài ra , “ Người có năng lực hanh vi dân sự nhưng đã xác lập vào đúng
thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêuc
ầu toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu” (điều 133 bộ luật dân sự 2005).
Ví dụ : anh A (giám đốc công ty X),trong một lần say rượu không làm chủ
được bản thân đã ký hợp đồng mua bán hàng hoá bất lợi cho công ty X với một
công ty khác.Khi tỉnh rượu anh ta mới nhớ ra.Như vậy,A cần chứng minh minh
đã không nhận thức được và không làm chủ được bản thân trong trường hợp đó
với toà án thì A có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
13
2.2.1.5 Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ
a. Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối:
* Hành vi lừa dối trong giao kết hợp đồng
Lừa dối là 1 thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày.
Theo cách nói thông thường lừa dối là lừa bằng thủ đoạn nói dối, gian lận để
làm cho người ta nhầm tưởng mà nghe theo, tin theo. Từ những lời lẽ gian dối
đến những mánh khoé xảo trá dùng để khiến người ta giao kết hợp đồng đều là
lừa dối . Cũng có cách hiểu : “ lừa dố là hành vi cố ý đưa thông tin sai không
đúng sự thật nhằm để người khác tin đó là sự thật . Nếu không có các thủ đoạn
ấy thì bên kia sẽ không giao kết hợp đồng “.
Ở Việt Nam coi lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của 1 bên
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể , tính chat của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó.
* Hợp đông lừa dối

Theo bộ luật dân sự 2005 – điều 132 : “Lừa dối trong giao dịch là hành vi
cố ý của 1 bên hoặc của người thứ 3 nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ
thể , tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập
yêu cầu của giao dịch đó”.
Ví dụ : một bác nông dân lên thị trấn mua xe máy của công ty kinh doanh
xe máy.Người bán hàng thấy bác nông dân có vẻ không hiểu biết rõ về chiếc xe
máy mà bác muốn mua.Vì muốn bán được hàng nên anh ta đã “quảng cáo” quá
đà,những đặc tính mà chiếc xe máy đó không có,anh ta cũng đưa vào.Bác nông
dân đã ký hợp đồng mua xe máy với người bán hàng(hợp đồng dân sự với bác
nông dân,nhưng là hợp đông mua bán hàng hoá – hợp đồng thương mại đối với
công ty kinh doanh xe máy) mà không biết mình đã bị lừa một số đặc điểm của
chiếc xe máy.vậy nên,hợp đồng mua xe máy giữa bác nông dân và người bán
hàng được hình thành nên từ hành vi lừa dối.Nếu,sau này,bác nông dân mà phát
hiện ra thì bác có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Tóm lại để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kết
hợp đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau :
14
- Một là, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của 1 bên.
- Hai là, người nghe phải không biết về sự sai lệch đó
- Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do 1 bên đưa ra nhằm giao kết hợp
đồng
- Bốn là, phải có thiệt hại xảy ra
b. Hợp đồng vô hiệu do bị đe doạ
* Sự đe doạ
Theo điều 132 bộ luật dân sự 2005 : “Đe doạ trong giao dịch dân sự alf
hành vi cố ý của 1 bên hoặc của người thứ 3 nhằm làm cho bên kia buộc phải
thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy
tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha mẹ, vợ chồng, con của mình”.
Ví dụ : Đại diện công ty A buộc B(giám đốc công ty X ) phải tiến hành
giao kết hợp đồng với mình bằng cách đe doạ sẽ công bố chuyên đời tư của C

( vợ của B) . Hợp đồng được xác lập trong trường hợp này không xuất phát từ
sự tự nguyện, tự do ý chí của B nên sẽ bị tuyên là vô hiệu.
* Điều kiện của sự đe doạ :
- Sự tiềm ẩn của hiểm hoạ
Nếu người đối tác đã dùng đến vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực để nạn nhân
chấp nhận giao kết hợp đồng, thì hợp đồng vô hiệu không phải vì sự ưng thuận
khôgn hoàn hảo mà hoàn toàn không có sự ưng thuận.Nói rõ hơn, đe doạ , ở
góc nhìn của người bị đe doạ , hình thành từ 2 yếu tố : 1 yếu tố khách quan-
mối nguy hiểm bủa vây – và yếu tố chủ quan- nỗi sợ. Chính dưới sự đe doạ đó
và ý chí được bày tỏ của người bị đe doạ không phản ánh trung thực ý chí nội
tâm của người này ( điều 132 bộ luật dân sự 2005 ).
- Người đe doạ :
Việc đe doạ phải xuất phát từ bên kết ước hoặc xuất phát từ sự đe doạ của
người thứ 3 . Với cách hiểu đó thì đe doạ có thể là hành vi của bất kỳ người
nào không nhất thiết là hành vi của người kết ước với người đe doạ.
- Tính chất của sự đe doạ :
15
Sự đe doạ phải có tác dụng quyết định đối với sự ưng thuận ( miễn cưỡng )
của người bị đe doạ , nghĩa là người bị đe doạ chấp nhận giao kết chỉ vì bị đe
doạ
- Người bị đe doạ :
Hành vi đe doạ có thể được thực hiện đối với chính người giao kết hoặc đối với
cha mẹ , vợ chồng , con của người này .
Đối tượng của hành vi đe doạ có thể là con người ( đe doạ dùng vũ lực để gây
thương tích , đe doạ công bố các thông tin về đời tư … ) hặc tài sản ( đe doạ đốt
nhà , huỷ hoại cây cối , mùa màng … )
2.2.1.6. Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn
Nhầm lẫn là những khiếm khuyết của sự thể hiện ý chí của các bên trong
giao kết hợp đồng và liên quan đến việc trình bày 1 cách trực tiếp hay gián tiếp
về những sự việc không đúng sự thật hay không tiết lộ về 1 sự thật . Nhầm lẫn

đưa đến hệ quả là hợp đồng có thể bị vô hiệu do thoả thuận không thể hiện đúng
ý chí thật của các bên .
Bộ luật dân sự 2005 Điều 131 : “ khi 1 bên có lỗi vô ý làm cho bên kia
nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch , thì bên nhầm
lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó ; nếu bên kia
không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch
vô hiệu ” . Theo luật việt nam , sự nhầm lẫn này là do sự vô ý của 1 bên , và
thực chất , cả 2 bên đều mong muốn giao kết 1 hợp đồng ngiêm túc , đúng pháp
luật .
* Giao kết hợp đồng do nhầm lẫn
Người giao kết chỉ có thể phản ứng với tư cách người bị nhầm lẫn 1 khi chính sự
nhầm lẫn đó có ảnh hưởng quyết định đối với sự ưng thuận của mình
- Bằng chứng về sự nhầm lẫn
Một cách hợp lý , người cho rằng mình đã nhầm lẫn phải chứng minh sự nhầm
lẫn đó . Việc chứng minh có thể thực hiện bằng bất kỳ phương tiện nào được
thừa nhận trong luật chung về chứng cứ ( văn bản , lời khai , lời thú nhận người
làm chứng ) . Người nhầm lẫn phải chứng minh không chỉ việc nhầm lẫn mà
16
còn phải chứng minh tính chất quyết định của sự nhầm lẫn đối với sự ưng thuận
của mình trong việc giao kết hợp đồng .
* Hệ quả của sự nhầm lẫn :
Pháp luật không cho phép người bị nhầm lẫn phát ngay yêu cầu tuyên bố
hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn : “ khi 1 bên do nhầm lẫn … thì có quyền bên kia
thay đổi nội dung của giao dịch ” . Trước hết , người bị nhầm lẫn phải thảo luận
với người đối tác về việc sửa đổi nội dung hợp đồng . Nếu người đối tác từ chối
thảo luận hoặc thảo luận không có kết quả như ý muốn của người bị nhầm lẫn ,
thì người này mới có quyền yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu .
VD : Thương nhân A đặt công ty B gia công 1000 bộ đồ thể thao vì nhầm
tưởng rằng công ty B đã gia công những bộ quần áo thể thao mà thương nhân A
rất ưng ý khi tìm thấy trên thị trường . Thực tế thì công ty B vẫn chưa gia công .

Trong trường hợp này , hợp đồng đã ký cần được thảo luận để chỉnh sửa lại ,
nếu không A có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu .
2.3 Các trường hợp hợp đồng thương mại vô hiệu riêng theo tính chất của
hợp đồng thương mại
2.3.1 Hợp đồng vô hiệu do người kí hợp đồng không đúng thẩm quyền
* Người có thẩm quyền giao kết hợp đồng thương mại trong doanh ngiệp
Theo quy định của luật doanh ngiệp 2005 thì người đại diện theo pháp luật
của công ty là người có thẩm quyền kí kết các hợp đồng kinh doanh thương
mại . Đại diện là 1 hoạt động phổ biến trong các lĩnh vực có sự phân công lao
động đối với sản xuất , phân phối hàng hoá và dịch vụ .
Đại diện theo pháp luật là người được pháp luật quy định hoặc quy định
khả năng được thông báo là đại diện bởi 1 sự kiện pháp lý đã được quy định , là
sự thống nhất của các thành viên trong điều lệ của tổ chức đó . Nội dung này
cũng được quy định trong luật doanh ngiệp 2005.
Ví dụ : A là phó giám đốc của công ty X.Trong khi B(giám đốc) đi vắng.A
đã tự mình ký kết hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng với công ty Z mà không
có sự đồng ý của B.Khi B trở về,B có quyền yêu cầu hợp đồng giưa A và công
ty Z vô hiệu do người ký hợp đồng không đúngthaamr quyền ký kết.
17
2.3.2 Hợp đồng thương mại vô hiệu do phán quyết của trọng tài thương mại
Để giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng,tổ chức và cá
nhân kinh doanh phải có thoả thuận với nhau một khoản về chọn trong tài để
giải quyết.
Trọng tài thương mại được hiểu ngắn gọn là trọng tài giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong lĩnh vực thương mại,do các bên tự nguyện lựa chọn trong
đó bên thứ 3 trung lập(trọng tài) sau khi nghe các bên trình bày sẽ đưa ra một
quyết định (phán quyết trọng tài) có tính chất bắt buộc với các bên tranh chấp.
Trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp bằng sự kết hợp hài hoà giữa
phương pháp hoà giải,thương lượng và giải quyết tại toà.Hình thức này cho phép
các bên tự định đoạt khi có tranh chấp xảy ra.

Như vậy,ta thấy rằng,khi có tranh chấp trong lĩnh vực thương mại,trọng tài
thương mại có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu.Và phán quyết của trọng tài phải
được các bên thực hiện,nếu các bên không tự nguyện thực hiện phán quyết thì
có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
Ví dụ : Công ty A ký hợp đồng mua 100 tấn gạo của công ty B.Trong hợp
đồng thương mại đã ký có thoả thuận một khoản về trọng tài nếu có tranh chấp
xảy ra.Theo hợp đồng,ngày 20/4 thì công ty A phải chuyển số gạo đó sang cho
công ty B.Nhưng đến ngày 25/4 vẫn chưa thấy số gạo được chuyển đến.Vì chưa
có gạo nên công ty B đã bị lỡ nhiều mối làm ăn lớn với những công ty khác,thiệt
hại nhiều.Sau đó,công ty B yêu cầu công ty A bồi thường thiệt hại,nhưng công
ty A không đồng ý.Tranh chấp đã xảy ra.Yêu cầu sự có mặt của trọng tài thương
mại phán xét.
3. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
Khi giao kết hợp đồng , các bên phải tôn trọng các điều kiện , quy định của
pháp luật . Thực tế cho thấy nhiều hợp đồng đã không tôn trọng 1 trong những
điều kiện này và bị tuyên bố vô hiệu . Theo pháp luật Việt Nam : “ Hợp đồng vô
hiệu không làm phát sinh , thay đổi , chấm dứt quyền , nghĩa vụ dân sự của các
bên từ thời điểm xác lập … các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu , hoàn trả
18
cho nhau những gì đã nhận ; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền , trừ trường hợp tài sản giao dịch , hoa lợi , lợi tức thu được bị tịch thu
theo quy định của pháp luật . Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường ” ( Điều
137 Bộ luật dân sự 2005 )
Tất cả các hành vi khiến hợp đồng vô hiệu : giả tạo , lừa dối , đe doạ … nếu
đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự .
Đồng thời,vấn đề “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” còn nhiều vấn đề
đáng quan tâm.Trong một số trường hợp,việc hoàn trả bằng hiện vật không thể
thực hiện được vì nhiều lý do như tài sản đã bị tiêu thụ,bị mất,bị bán lại cho
người khác.
Đối với các giao dịch vô hiệu tuyệt đối thì thời hiệu tuyên bố giao dịch vô

hiệu không bị hạn chế (Khoản 2 Điều 136 bộ luật dân sự Việt Nam 2005).Còn
đối với các giao dịch vô hiệu tương đối thì thời hiệu tuyên bố vô hiệu là ‘hai
năm kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập” ( Khoản 1 Điều 136 bộ luật dân
sự 2005 ) . Còn điều 139 luật thương mại 2005 quy định : “ thời hiệu khởi kiện
áp dụng đối với các tranh chấp thương mại là 2 năm kể từ thời điểm quyền và
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm ” . Tuy rằng , trên thực tế , trong 1 số trường hợp ,
thời điểm xảy ra là hành vi vi phạm và thời điểm phát hiện hành vi vi phạm có
thể trùng nhau . Tuy nhiên , đã gọi là vi phạm thì dù cố ý hay vô ý thì bên bị vi
phạm khó có thể biết hoặc xác minh ngay lập tức khi hành vi vi phạm xảy ra ,
đặc biệt là trong thương mại quốc tế . Thông thường thời điểm phát hiện hành vi
vi phạm được diễn ra sau thời điểm hành vi vi phạm . Cho nên nếu quy định thời
hiệu khởi kiện là 2 năm theo mốc thời gian là ngày giao dịch dân sự được xác
lập hoặc từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm thì có thể phương
hại đến quyền và lợi ích chính đáng của bên được hưởng quyền lợi .
19
CHƯƠNG II . THỰC TIỄN TÀI PHÁN VỀ CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ
HIỆU CỦA HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI .
* Khi bộ luật dân sự 2005 và luật thương mại 2005 chưa có hiệu lực thì pháp
lệnh hợp đồng kinh tế là công cụ chủ yếu bên cạch bộ luật dân sự 1995 và luật
thương mại 1997 để cơ quan có thẩm quyền tiến hành xét xử tính hiệu lực của
hợp đồng . Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ra dời từ những năm đầu của thời ký quá
độ sang kinh tế thị trường tạo cơ sở pháp lý cho việc ký kết hợp đồng kinh tế ,
dã từng có tác dụng thúc đẩy các hoạt động kinh tế lúc bấy giờ phát triển .
Khoản 1 , điều 8 hợp đồng kinh tế nêu rõ :
“ Những hợp đồng kinh tế sau đây được coi là vô hiệu toàn bộ :
a . Nội dung hợp đồng kinh tế vi phạm điều cấm của pháp luật
b . Một trong các bên ký kết hợp đồng kinh tế không có đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật để thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng
c . Người ký hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền hoặc có hành vi lừa
đảo”.

Chỉ cần căn cứ vào quy định này , các hợp đồng vi phạm sẽ bị tuyên vô
hiệu mà không cần xét đến nhiều yếu tố khác . Cho nên , nhiều giao dịch bình
thường đã bị tuyên vô hiệu , và việc xử lý ngày càng theo hướng bất lợi cho kẻ
bội ước .
VD : Một khách hàng của công ty Phú Mỹ Hưng đã kiện ra toà , yêu cầu
đơn vị này tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán đã ký . Tuy nhiên , toà án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh đã xử bác , tuyên giao dịch do phó giám đốc Phú
Mỹ Hưng ký là vô hiệu , vì ông này không phải là đại diện theo uỷ quyền của
công ty . Nếu phán quyết được thi hành , người mua nhà sẽ phải chấp nhận nhận
lại số tiền hàng trăm triệu đồng đặt cọc 2 năm trước đó , trong khi giá đất thời
gian qua biến động rất nhiều .
Qua ví dụ trên , thấy được pháp lệnh hợp đồng kinh tế không những không
tạo được sự điều chỉnh pháp lý thuận lợi hơn cho việc giao kết và thực hiện hợp
đồng mà còn gây trở ngại , thậm chí gây thiệt hại về kinh tế cho các chủ thể .
Trước thực trạng đố , tại kỳ họp thứ VII , ngày 14-6-2005 , Quốc hội khoá XI đã
20
thông qua bộ luật dân sự 2005 thay thế bộ luật dân sự 1995 . Bộ luật này đã có
những sửa đổi bổ sung quan trọng về chế định hợp đồng , theo đó , bộ luật dân
sự 2005 được coi là gốc của các ngành luật tư .
Các trường hợp vô hiệu của hợp đồng quy định trong bộ luật dân sự 2005
không quy định trực tiếp 2 trường hợp : hợp đồng vô hiệu do người ký không
đúng thẩm quyền và hợp đồng vô hiệu do không có dăng ký kinh doanh để thực
hiện công việc không có thoả thuận trong hợp đồng . Nhưng luật hiện hành có
cách hiểu và cách giải thích từng trường hợp vô hiệu của hợp đồng có cách đánh
giá về năng lực chủ thể , về sự nhầm lẫn , lừa dối … để kết luận hiệu lực của
hợp đồng thương mại . Cho nên , khi hợp đồng tranh chấp rơi vào 2 trường hợp :
người ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền và chủ thể không đăng ký kinh
doanh sẽ không có khung pháp lý cụ thể ràng buộc . Toà án phải căn cứ tổng
hợp nhiều yếu tố : nguyên nhân tranh chấp , lỗi … để phán quyết chính xác .
Nếu hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu rơi vào 2 truơng hợp trên thì cũng là hợp

đồng vô hiệu tương đối và theo luật hiện hành thì có thể khôi phục lại . Đây là 1
điểm tiến bộ của luật hiện hành .
Bộ luật dân sự 2005 xây dựng các điều luật rõ ràng và minh bạch hơn bộ
luật dân sự 1995 . VD : như điều 128 bộ luật dân sự 2005 , khi vi phạm hợp
đồng sẽ vô hiệu tuyệt đối , luật hiện hành đã định nghĩa rõ thế nào là điều cấm
của pháp luật , đạo đức xã hội là gì , đay là những vấn đề luật cũ bỏ qua . Hơn
nữa , ở các điều 137 , 140 , 141 , 142 ,143 bộ luật dân sự 1995 đều lặp lại 1 ý đã
quy định ở điều 146 là “ Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại ” luật 2005 đã khắc
phục được sự trùng lặp này .
Hoạt động thương mại trong nền kinh tế hiện nay rất đa dạng và phong
phú , theo đó các hợp đồng thương mại được mở rộng ở nhiều lĩnh vực : nhà
đất , chứng khoán , mua bán ngoại hối . Trên thực tiễn pháp lý , bộ luật dân sự
hiện hành là tương đối linh hoạt và hợp lý : các hợp đồng mà các bên thoả thuận
giao dịch và thanh toán đồng thời bằng ngoại tệ sẽ bị coi là vô hiệu , còn hợp
đồng thoả thuận giao dịch bằng ngoại tệ , nhưng có thoả thuận phương thức
21
thanh toán bằng tiền Việt Nam quy đổi ngang ngoại tệ thì không bị coi là vô
hiệu .
Tóm lại những quy định của luật hiện hành là những quy định mở và nhất
quán giữa những quy định tránh được tình trạng chồng chéo luật , từ đó toà án
hay trọng tài thương mại có thể linh hoạt xét xử đúng luật phù hợp với thực tiễn
và hạn chế thiệt hại . Tránh được tình trạng mỗi cấp khác nhau thì xét xử khác
nhau , thậm chí trái ngược mà vẫn đúng luật
Những nhà làm luật luôn nhìn từ thực tiễn để sửa đôi , bổ sung luật , góp phần
đưa luật vào thực tiễn cuộc sống . Ý thức chấp hành pháp luật của mỗi người
cần phải được nâng cao , nếu xem thường hay không chấp hành theo quy định
thì dù luật có chặt chẽ đến đâu cũng không bảo vệ được lợi ích chính đáng của
bản thân .
* Theo quy định của luật thương mại
- Theo quy định tại Điều 297 Luật Thương mại năm 2005, “Buộc thực hiện đúng

hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải
chịu chi phí phát sinh”. Như vậy, một phần trong định nghĩa về hình thức buộc
thực hiện đúng hợp đồng thể hiện tính không khả thi, cụ thể là cụm từ “thực hiện
đúng hợp đồng” là khó có thể thực hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp
đồng về mặt thời hạn. (Ví dụ: Trong hợp đồng có thỏa thuận thời gian giao hàng
vào 8h sáng ngày 01/01/2011) thì khi đã có hành vi vi phạm hợp đồng về mặt
thời hạn thì hợp đồng đó không thể “thực hiện đúng hợp đồng” được nữa vì các
bên không thể quay ngược thời gian vào thời điểm thỏa thuận trong hợp đồng để
thực hiện đúng hợp đồng.Do đó, để nâng cao tính khả thi đối với quy định về
buộc thực hiện đúng hợp đồng, nên xây dựng lại khái niệm về chế tài này theo
hướng: “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi
phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng
được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Khi xây dựng lại
khái niệm theo hướng như trên, sẽ giải quyết được tình trạng quy định của Luật
22
đặt ra những điều “không sát thực tế” và gây ra những lúng túng, khó khăn cho
các thương nhân khi áp dụng.
- Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng
Theo quy định tại Điều 308 Luật Thương mại năm 2005: “Tạm ngừng thực
hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp
đồng”.
Có hai căn cứ để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng: “(1) Xảy
ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực
hiện hợp đồng; (2) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”.
Khi chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng, hậu quả pháp lý đối
với hợp đồng này là “hợp đồng vẫn còn hiệu lực” và “bên bị vi phạm có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại” nếu hành vi vi phạm đó gây thiệt hại cho bên bị vi
phạm.
Như vậy, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của

hợp đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi điều
kiện áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Vấn đề đặt ra ở
đây là, sau khi áp dụng biện pháp này, thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt
việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng? Căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tục
thực hiện hợp đồng đã bị tạm ngừng thực hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng
bị tạm ngừng thực hiện do bên tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầu
của bên có hành vi vi phạm hợp đồng?
Tất cả những yếu tố này hiện nay đều chưa được tính đến trong Luật Thương
mại, gây khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Để giải
quyết sự bất cập này,cần bổ sung quy định cụ thể về căn cứ, thời điểm chấm dứt
áp dụng hình thức tạm ngừng thực hiện hợp đồng và nghĩa vụ của các bên khi
căn cứ tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Có như vậy mới đảm bảo
quyền lợi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, tránh trường hợp lợi
dụng việc áp dụng chế tài này để “chấm dứt” việc thực hiện các hợp đồng trên
thực tế.
23
CHƯƠNG III . MỘT SỐ KIẾN NGHỊ , GIẢI PHÁP
Luật hiện hành mặc dù đã chặt chẽ hơn và khắc phục được 1 số hạn chế của
luật cũ ở nhiều phương diện nhưng vẫn cần phải bổ sung 1 số quy định :
- Thứ nhất : về vấn đề hoàn trả cho nhau những gì đã nhận , khi hợp đồng bị
tuyên bố vô hiệu , quyền và nghĩa vụ của các bên quay lại lúc ban đầu khi
chưa giao kết hợp đồng , tức là ngoại việc hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận thì 2 bên không còn ràng buộc bất cứ quyền và nghĩa vụ nào với nhau .
Giải quyết như vậy là đúng nhưng chưa đủ . Nếu hợp đồng chưa được thực
hiện thì không có vấn đề gì nhưng thực tế đa số những hợp đồng thương mại
vô hiệu đều đã thực hiện , thậm chí đã gần hoàn thành xong . Trong suốt quá
trình thực hiện hợp đồng đó , giá trị của những tài sản mà 2 bên đã nhận của
nhau sẽ thay đổi theo thời gian do sự trượt giá của tiền , hao mòn thiết bị ;
nếu không đầu tư , không giao kết hợp đồng , tài khoản trong ngân hàng sẽ
sinh lãi … Do đó , nếu chỉ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận , nếu không

trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền thì không công bằng . Cho
nên cần phải trả thêm tiền lãi tương ứng với số tiền của tài sản mà các bên
đã hoàn trả cho nhau , tính từ khi giao kết hợp đồng cho đến khi có bản án
tuyên bố hợp đồng vô hiệu . Và điều này cần được nêu và giải thích cụ thể
trong luật ( VD : cách chứng minh thiệt hại thực tế , chứng minh sự ngay
tình …) .
- Thứ 2 : quy định “ bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại ” ở khoản 2 điều 137
bộ luật dân sự 2005 hầu như chưa đi vào thực tế . Nếu hợp đồng mua bán
cafe giữa công ty A ( bên bán ) và công ty B ( bên mua ) bị tuyên bố vô
hiệu , lỗi ở công ty B . Công ty B lại phá sản không hoàn trả nổi số tiền mua
café cho công ty A , tất nhiên sẽ không thể có thêm khả năng bồi thường
thiệt hại . Trường hợp này công ty B cứ lờ đi là xong , luật không đảm bảo
cho công ty A có quyền đòi nợ công ty B như 1 chủ nợ . Khi đó , công ty A
có thể mất trắng . Vậy nên khi 1 bên có lỗi và vi phạm hợp đồng , mặc dù
24
hợp đồng đã bị tuyên bố vô hiệu nhưng cần bảo vệ bên bị vi phạm như 1 chủ
nợ có đảm bảo đối với bên vi phạm để bảo vệ lợi ích hợp pháp của họ
- Cuối cùng , hợp đồng thương mại vô hiệu và hậu quả pháp lý của nó vô
cùng nghiêm trọng , gây thiệt hại rất lớn cho cá nhân , tổ chức và doanh
nghiệp . Cần quy định rằng , dù hợp đồng thương mại vô hiệu nhưng nếu các
bên vẫn chấp nhận , không yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng thương mại vô
hiệu , chỉ yêu cầu toà phân xử tranh chấp thì nên tôn trọng nguyện vọng của
các bên để hạn chế thấp nhất thiệt hại cho họ .
25

×