Trường Đại học Luật Hà Nội
A.
MỞ ĐẦU.
Về mặt nguyên tắc chung, khởi tố vụ án hình sự là quyền và trách nhiệm
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm duy trì trật tự và công lý, không phụ
thuộc vào ý muốn cá nhân và không ai có thể can thiệp. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp nhất định, xuất phát từ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại,
pháp luật quy định cho phép người bị hại lựa chọn quyền yêu cầu khởi tố hoặc
không khởi tố vụ án. Các nhà làm luật đã xác lập một khả năng, điều kiện để
người bị hại cân nhắc, quyết định có yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xử lý về mặt hình sự đối với hành vi phạm tội hay không, tạo điều kiện cho
người phạm tội có cơ hội thuận lợi để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội
của mình gây ra, hạn chế việc gây thêm những tổn thất, mất mát về mặt tinh
thần, danh dự không cần thiết có thể có đối với người bị hại. Quyền yêu cầu
khởi tố vụ án hình sự của người bị hại được quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố
tụng Hình sự năm 2003.
B.
NỘI DUNG.
I, Một số vấn đề chung về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người
bị hại.
1. Khái niệm.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là một quan điểm mới
của Đảng và Nhà nước ta, được quy định lần đầu tiên trong BLTTHS năm 1988.
BLTTHS hiện hành chưa đưa ra định nghĩa pháp lí của khái niệm khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại. Khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003
quy định: “Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều
104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ
được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp
của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất”.
Từ quy định của pháp luật, có thể đưa ra những nhận xét như sau:
Thứ nhất, những tội chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại là
những trường hợp mà tính chất của tội phạm là ít nghiêm trọng (trừ tội hiếp
dâm, cưỡng dâm), không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và mức
nguy hiểm cho xã hội thấp.
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
1
Trường Đại học Luật Hà Nội
Thứ hai, về phía người bị hại. Họ “là người mà quyền và lợi ích hợp pháp
bị xâm hại nặng nề nhất, người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người
tham gia tố tụng”. Việc khởi tố vụ án hình sự trong một số trường hợp có thể
gây thêm những tổn thất về tinh thần cho người bị hại, nhất là ở những trường
hợp tội hiếp dâm, cưỡng dâm. Cũng có trường hợp người bị hại vì nhiều lí do
mà không muốn đưa vụ việc ra trước pháp luật, họ muốn chọn cách thỏa thuận
với người gây thiệt hại cho mình để giải quyết vụ việc.
Thứ ba, theo quy định tại Điều 105 BLTTHS 2003 đối với những tội quy
định trên, yêu cầu của người bị hại là một điều kiện bắt buộc để khởi tố vụ án
hình sự, cơ quan có thẩm quyền không thể tự ý quyết định khởi tố vụ án.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm như sau: Khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp mà do tính chất của vụ án
và vì lợi ích của người bị hại, cơ quan có thẩm quyền không được tự ý quyết
định việc khởi tố vụ án hình sự mà việc khởi tố vụ án được thực hiện theo yêu
cầu của người bị hại.
2. Cơ sở của quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại.
2.1, Cơ sở lý luận.
Với quan điểm duy vật về lịch sử, triết học Mác-Leenin nói riêng và chủ
nghĩa Mác-Lênin nói chung đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền con
người, khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa các quyền tự do cơ bản với các điều
kiện và biện pháp bảo đảm thực hiện quyền con người trong thực tế.
Xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Điều 71 Hiến pháp Nước CHXHCNVN năm 1992 sửa đổi,
bổ sung năm 2001 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”.
Ngoài ra, xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của BLTTHS là nguyên tắc “bảo
đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự” (Điều 3 BLTTHS 2003);
nguyên tắc “tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân” (Điều 4
BLTTHS 2003); nguyên tắc “bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân” (Điều 7 BLTTHS2003). Quyết định khởi tố vụ án hình sự
cũng là sự cụ thể hóa các nguyên tắc trên.
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
2
Trường Đại học Luật Hà Nội
Quyết định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại còn xuất
phát từ mối quan hệ của các giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và các giai đoạn
khác của quá trình tố tụng. Khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu làm cơ sở
cho các hoạt động tố tụng tiếp theo theo quá trình giải quyết vụ án hình sự.
2.2, Cơ sở thực tiễn.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại xuất phát từ tính chất
của vụ án và từ lợi ích của người bị hại.
- Xét về tính chất: Các tội quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS 2003
là những tội mà tính chất của hành vi phạm tội ở mức độ nguy hiểm cho xã hội
không cao, không có những tình tiết nghiêm trọng mà chỉ có những tình tiết quy
định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 131 và 171
BLHS năm 1999. Nói chung đây là những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng
và nếu có sự đồng ý của người bị hại, thì việc xử lí bằng các biện pháp khác như
hành chính, dân sự lại có thể đạt được những tác dụng thiết thực hơn là xử lí
bằng biện pháp hình sự mà vẫn đạt được tác dụng giáo dục.
- Thực tế, đối với một số vụ án, việc khởi tố có thể làm tăng thêm những
tổn thương về tinh thần cho người bị hại, làm lộ bí mật đời tư. Bởi vậy, pháp
luật dành quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự cho người bị hại, cho phép người
bị hại có thể lựa chọn cách giải quyết thích hợp với mình hoặc là yêu cầu sự can
thiệp của pháp luật hoặc tự dàn xếp thỏa thuận đền bù với người đã gây thiệt hại
cho mình.
3. Ý nghĩa của quy định pháp luật về khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại.
Về mặt chính trị - xã hội: Khởi tố vụ án hình sự đảm bảo phát hiện nhanh
chóng hành vi phạm tội, là biện pháp quan trọng nhằm ngăn chặn và phòng ngừa
hành vi phạm tội và là công cụ hữu hiệu để bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội
quyền và lợi ích hợp pháp người dân, đảm bảo quyền tự do dân chủ của công
dân được pháp luật bảo vệ.
Ý nghĩa pháp lý: Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là
giai đoạn tố tụng mở đầu cho hoạt động điều tra, tạo điều kiện thuận lợi cho các
hoạt động tố tụng tiếp theo, khi chưa khởi tố vụ án hình sự thì không được thực
hiện các hoạt động điều tra, trừ một số trường hợp đặc biệt.
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
3
Trường Đại học Luật Hà Nội
Ngoài ra, khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại còn mang ý
nghĩa khác, thể hiện sự cảm thông với những đau đớn mất mát của người bị hại,
hạn chế việc người bị hại có thể phải chịu thêm những tổn thương về mặt tinh
thần trong trường hợp khởi tố vụ án hình sự. Ngoài ra, một số trường hợp còn
giữ bí mật đời tư và danh dự cho người bị hại. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại còn khuyến khích hòa giải trong dân, giữ gìn tình cảm xóm
làng, anh em, họ hàng. Qua đó, còn có thể giảm bớt các vụ phạm tội phải xét xử
tại Tòa án, giảm bớt áp lực cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
II. Quy định của pháp luật hiện hành về khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại.
1.
Yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
1.1, Chủ thể.
a. Người bị hại.
Người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm;
đồng thời, người bị hại cũng là người biết rõ các tình tiết của sự việc. Sự tham
gia của người bị hại vào quá trình giải quyết vụ án là cần thiết. Vì vậy, pháp luật
dành cho họ những quyền và đồng thời quy định một số nghĩa vụ nhất định
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, cũng như tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giải quyết vụ án.
Theo khoản 2 Điều 51 BLTTHS năm 2003 quy định về những quyền của
người bị hại. Ngoài ra theo quy định tại khoản 4 Điều 51 BLTTHS người bị hại
còn có nghĩa vụ có mặt khi nhận được giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố
tụng và nghĩa vụ khai báo.
Ngoài ra các quyền và nghĩa vụ cơ bản trên, người bị hại còn có một
quyền đặc thù là quyền yêu cầu khởi tố tố vụ án hình sự. Đây là quyền đặc thù
của người bị hại, vì trong các chủ thể tham gia tố tụng chỉ có người bị hại mới
có quyền này. Nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về tâm thần, thể chất thì người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền yêu
cầu khởi tố vụ án hình sự.
b. Người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
4
Trường Đại học Luật Hà Nội
So với Điều 88 BLTTHS năm 1988, Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy
định thêm một chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, đó là người đại
diện hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất. Đây là một quy định mới, có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 không phải bất
cứ người đại diện hợp pháp của người bị hại nào cũng có quyền khởi tố vụ án
hình sự. Người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ có quyền yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự khi người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm
về tâm thần hoặc thể chất.
Người đại diện hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất có thể là cha mẹ, an chị em ruột, người nuôi
dưỡng của họ...
1.2, Những trường hợp chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu
của người bị hại.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 BLTTHS năm 2003 khởi tố vụ án
hình sự theo yêu cầu của người bị hại chỉ được áp dụng đối với một số tội được
quy định trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 20009) đó là các trường
hợp sau:
- Khoản 1 Điều 104: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.
- Khoản 1 Điều 105: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.
- Khoản 1 Điêu 106: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
- Khoản 1 Điều 108: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.
- Khoản 1 Điều 109: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.
- Khoản 1 Điều 111: Tội hiếp dâm.
- Khoản 1 Điều 113: Tội cưỡng dâm.
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
5
Trường Đại học Luật Hà Nội
- Khoản 1 Điều 121: Tội làm nhục người khác.
- Khoản 1 Điều 122: Tội vu khống.
- Khoản 1 Điều 131: Tội xâm phạm quyền tác giả.
- Khoản 1 Điều 171: Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
Ngày 19/6/2009, Quốc hội thông qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của BLHS năm 1999. Theo luật sửa đổi, bổ sung BLHS, Điều 131 BLHS năm
1999 đã bị bãi bỏ, thay vào đó tội xâm phạm đến quyền tác giả và quyền liên
quan được quy định bổ sung ở Điều 170a; đồng thời Điều 171 BLHS năm 1999
cũng đã được sửa đổi.
So với BLTTHS năm 1988, quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại đã được mở rộng thêm 6 trường hợp lên 11 trường hợp.
BLTTHS năm 2003 bổ sung 5 trường hợp: Khoản 1 Điều 105; khoản 1 Điều
106; khoản 1 Điều 108; khoản 1 Điều 109; khoản 1 Điều 171.
1.3, Nội dung, hình thức và thời điểm khởi tố vụ án hình sự theo yêu
cầu của người bị hại.
a. Nội dung.
BLTTHS năm 1988 cũng như BLTTHS năm 2003 chưa có quy định về
nội dung khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, có thể hiểu “nội dung yêu cầu khởi tố
vụ án hình sự là yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Nếu
chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc chỉ yêu cầu cải chính, xin lỗi thì không
phải là yêu cầu khởi tố vụ án hình sự”.
Như vậy, nội dung yêu cầu khởi tố vụ án hình sự có thể hiểu là yêu cầu
truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi phạm tội.
b. Hình thức.
BLTTHS 2003 không quy định hình thức yêu cầu khởi tố là gì nhưng
thông thường yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp
của người bị hại được thể hiện trong đơn hoặc họ trực tiếp trình bày (sau đó
được lập thành biên bản ghi ý kiến hoặc biên bản ghi lời khai). Trong khoa học
pháp lí cũng như thực tiễn áp dụng thì cả hai trường hợp trên, yêu cầu đều được
chấp nhận và có giá trị pháp lý như nhau. Theo Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT - VKSNDTC - BCA - BQP ngày 07-09-2005 của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ quốc phòng về quan hệ phối hợp giữa cơ quan
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
6
Trường Đại học Luật Hà Nội
điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS
năm 2003, yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc người đại diện thể hiện bằng
đơn yêu cầu có chữ ký hoặc điểm chỉ của họ; nếu người bị hại hoặc người đại
diện trực tiếp trình bày thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải lập biên bản ghi
rõ nội dung yêu cầu khởi tố và yêu cầu họ ký hoặc điểm chỉ vào biên bản. Biên
bản do Viện kiểm sát lập phải được chuyển ngay cho Cơ quan điều tra để xem
xét việc khởi tố vụ án hình sự và đưa vào hồ sơ vụ án.
c. Thời điểm.
Đối với những vụ án về các tội phạm quy định tại Điều 105 BLTTHS năm
2003, nếu người bị hại không yêu cầu khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền không
được khởi tố vụ án. Trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên,
chưa đủ năng lực hành vi hoặc là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất mà không thể hiện được ý chí của mình thì người đại diện hợp pháp của họ
có quyền yêu cầu khởi tố vụ án.
Để ra quyết định khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành
kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm, xác định dấu hiệu của tội phạm và
yêu cầu khởi tố của người bị hại. Yêu cầu khởi tố của người bị hại được thể hiện
qua đơn yêu cầu của họ hoặc ý kiến ở biên bản ghi lời khai.
2.
Rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Theo khoản 2 Điều 105 BLTTHS năm 2003 quy định: “Trong trường hợp
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên toà sơ thẩm thì vụ án
phải được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu
cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án vẫn có thể
tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ
trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”
Có thể thấy, khi người bị hại có yêu cầu khởi tố và vụ án đã được điều tra,
xử lí, nhưng trước khi Tòa án cấp sơ thẩm mở phiên tòa xét xử vụ án, người bị
hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án thì vụ án phải được đình chỉ. Nếu ngay sau khi
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
7
Trường Đại học Luật Hà Nội
khởi tố vụ án hình sự mà người bị hại hoặc người đại diện của họ rút yêu cầu
khởi tố thì Cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án và
thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp; nếu đang điều tra hoặc đã
kết thúc điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra; nếu đã
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án.
Việc rút yêu cầu khởi tố của người bị hại có thể được thực hiện bằng văn bản
hoặc bằng miệng.
Điều 105 BLTTHS năm 2003 cũng quy định khi tiếp nhận yêu cầu khởi tố
của người đã yêu cầu khởi tố nhưng Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có
căn cứ cho rằng việc rút yêu cầu đó trái với ý muốn của họ, do bị ép buộc,
cưỡng bức thì vẫn tiến hành tố tụng đối với vụ án. Trong trường hợp này, vấn đề
quan trọng nhất đặt ra đối với cơ quan tiến hành tố tụng là có đủ căn cứ chứng
minh việc trái với ý muốn của người rút yêu cầu khởi tố. Việc chứng minh sự
trái với ý muốn thường rất khó khăn, đặc biệt là trước những diễn biến phức tạp
về tính chất và thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm và tình hình hiện nay.
Khi đã rút yêu vầu khởi tố thì người bị hại không có quyền yêu cầu khởi tố lại,
trừ trường hợp việc rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức mà tại thời điểm người
bị hại rút yêu cầu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chưa có căn cứ chứng
minh vấn đề này.
Như vậy, so với quy định tương ứng về trường hợp rút yêu cầu trong khởi
tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại Điều 88 BLTTHS năm 1988,
BLTTHS năm 2003 đã có một số điểm mới như: Bổ sung quy định khi có căn
cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của
họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với
vụ án; thứ hai, quy định rõ người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có
quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
III, Một số hạn chế và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về
khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
1.
Một số hạn chế.
- Về các trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại:
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
8
Trường Đại học Luật Hà Nội
Trong BLTTHS năm 2003 quy định 11 tội chỉ được khởi tố theo yêu cầu
của người bị hại và đều thuộc khoản 1 của các điều : 104, 105, 106, 108, 109,
111, 113, 121, 122, 131 và 171 của BLHS.
Thực tiễn cho thấy có những hành vi thuộc một số loại tội lẽ ra nên trao
cho người bị hại quyền yêu cầu khởi tố nhưng luật lại không quy định. Cụ thể
như:
+ Trong các tội xâm phậm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con
người, có tội đe dọa giết người, tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (giống như tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng chỉ khác chủ thể là
người có chức vụ, quyền hạn và phạm tội trong lúc thi hành công vụ) vì vậy, nên
đưa hai tội này vào trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại.
+ Trong các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân có quy định
tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội xâm phạm chỗ ở của công dân,
tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật, các tội này
xâm phạm tới quyền cơ bản của con người như quyền tự do thân thể, quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở, quyền được lao động. Đối tượng bị xâm hại trực tiếp là
các quyền của người bị hại, vì vậy nên để cho người bị hại được tự do lựa chọn
hình thức xử lí sao cho có lợi nhất đối với họ thông qua việc yêu cầu hoặc không
yêu cầu khởi tố vụ án.
+ Trong các tội xâm phạm sở hữu có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản, tội chiếm giữ trái phép tài sản, tội sử dụng trái phép tài sản, tội hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản, tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản,
đối tượng bị xâm hại trong các trường hợp này chỉ thuần túy về mặt tài sản.
Những trường hợp này thông thường người bị hại chỉ cần thu hồi lại tài sản hoặc
khắc phục hậu quả là đủ, vì vậy nên đưa vào trường hợp khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại để giao quyền định đoạt việc xử lí người phạm tội
cho người bị hại.
- Về chủ thể yêu cầu khởi tố:
Tại khoản 1 điều 105 BLTTHS 2003 quy định một số trường hợp chỉ
được khởi tố khi có “ yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp
của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
9
Trường Đại học Luật Hà Nội
hoặc thể chất”. Như vậy, chủ thể có quyền yêu cầu khởi tố trước hết là người bị
hại, trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền
yêu cầu khởi tố. Trong thực tế khi áp dụng quy định này đã nảy sinh những
vướng mắc ở một số trường hợp. Chẳng hạn, 2 người đánh nhau người bị hại tỷ
lệ thương tật 15% thuộc khoản 1 Điều 104 BLHS, trong quá trình điều tra, người
bị hại (gần đủ 18 tuổi) không yêu cầu xử lí nhưng cha của người bị hại (đại diện
hợp pháp của người bị hại) lại yêu cầu xử lí.
- Về hình thức thể hiện của yêu cầu khởi tố:
BLTTHS 2003 không quy định hình thức yêu cầu khởi tố là gì nhưng
thông thường yêu cầu khởi tố của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp
của người bị hại được thể hiện trong đơn hoặc họ trực tiếp trình bày (sau đó
được lập thành biên bản ghi ý kiến hoặc biên bản ghi lời khai). Trong khoa học
pháp lí cũng như thực tiễn áp dụng thì cả hai trường hợp trên, yêu cầu đều được
chấp nhận và có giá trị pháp lý như nhau. Tuy nhiên, hiện nay còn có sự nhận
thức chưa thống nhất, cho rằng hình thức yêu cầu khởi tố do người bị hại trực
tiếp trình bày có mặt hạn chế là dễ bị làm sai lệch hoặc bị người bị hại phủ nhận.
Trong thực tế các trường hợp trên không nhiều nhưng không phải không
xảy ra. Vì vậy, nên có quy định về hình thức yêu cầu khởi tố theo hướng người
bị hại phải thể hiện yêu cầu khởi tố trong đơn yêu cầu, trừ trường hợp không
biết chữ hoặc có lý do chính đáng mà họ không thể viết đơn được thì có thể trực
tiếp trình bày và nội dung yêu cầu đó phải được lập thành biên bản.
- Về trường hợp rút đơn yêu cầu khởi tố tại phiên tòa:
Tại khoản 2 điều 105 BLTTHS 2003 quy định: “ Trong trường hợp người
đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải
được đình chỉ”, trừ trường hợp “có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố
rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy
người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án”.
Như vậy, BLTTHS chỉ quy định về trường hợp người đã yêu cầu khởi tố
có yêu cầu từ trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, còn trường hợp người đã yêu
cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố rút yêu cầu tại phiên tòa thì chưa có quy định xử
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
10
Trường Đại học Luật Hà Nội
lý như thế nào. Do vậy, trong thực tế khi có trường hợp người bị hại rút yêu cầu
khởi tố tại phiên tòa đã gây ra sự lúng túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
Vì vậy, pháp luật nên có quy định về trường hợp người bị hại rút yêu cầu
khởi tố tại phiên tòa, theo hướng khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố tại phiên
tòa thì HĐXX vẫn tiếp tục tiến hành xét xử và kết luận bị cáo phạm tội nhưng có
thể miễn hình phạt nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạt cảnh cáo, cải tạo không
giam giữ nếu tội đó có quy định loại hình phạt này hoặc cho bị cáo hưởng án
treo nếu có đủ điều kiện.
- Về thời hạn yêu cầu khởi tố: Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự không
quy định thời hạn cụ thể mà trong đó người bị hại được quyền yêu cầu khởi tố,
nghĩa là họ có quyền yêu cầu khởi tố vụ án bất cứ lúc nào, không bị giới hạn về
mặt thời gian. Nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố
tụng Hình sự mà vì một lý do nào đó người bị hại chưa yêu cầu không tố, nhưng
cũng không thể hiện ý chí là không yêu cầu khởi tố vụ án thì vụ án sẽ bị "treo"
và chưa thể được giải quyết. Những trường hợp này Cơ quan điều tra không thể
ra quyết định khởi tố vụ án vì chưa có yêu cầu khởi tố của người bị hại, cũng
không thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án vì không có căn cứ. Mặt khác,
theo quy định tại Điều 103 Bộ luật Tố tụng Hình sự, thời hạn giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm là 20 ngày, trường hợp đặc biệt có thể tới hai tháng. Tuy
nhiên, thực tế có những trường hợp thuộc quy định tại Điều 105 Bộ luật Tố tụng
Hình sự, đã quá hai tháng nhưng người bị hại vẫn không có yêu cầu khởi tố vụ
án, họ cũng không thể hiện ý chí từ bỏ quyền này. Hệ quả là Cơ quan điều tra
không thể giải quyết vụ án và buộc phải chấp nhận vi phạm thời hạn giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm theo quy định tại Điều 103 Bộ luật Tố tụng Hình sự
vì liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại.
2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại.
Thứ nhất, về quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp người
bị hại là người có nhược điểm về thể chất và tâm thần: Theo quy định tại khoản
1 Điều 105, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất không thể trực tiếp
thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án
trước đó mà phải thông qua người đại diện. Thực tiễn, có những trường hợp
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
11
Trường Đại học Luật Hà Nội
một người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần nhưng khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi của họ chỉ bị hạn chế một phần, nghĩa là họ vẫn có khả
năng nhận thức nhất định về hậu quả của việc khởi tố hay không khởi tố vụ án
cũng như ảnh hưởng của việc khởi tố vụ án đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín
của mình. Trong khi đó, luật tố tụng hình sự lại "tước" quyền yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự mang tính chất trực tiếp của họ mà buộc phải thực hiện thông qua
người đại diện, mặc dù họ hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức để tự thực hiện
quyền này, đó rõ ràng là điều bất hợp lý. Vấn đề sẽ càng trở nên phức tạp hơn
nếu quan điểm giữa người bị hại và người đại diện của họ không đồng nhất với
nhau trong việc có yêu cầu khởi tố vụ án hay không hoặc có rút yêu cầu khởi tố
vụ án hay không. Vì vậy, cần phải sửa đổi Điều 105 Bộ luật Tố tụng Hình sự
theo hướng không phải mọi trường hợp người có nhược điểm về tâm thần hoặc
thể chất đều phải thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự thông qua người
đại diện hợp pháp. Chỉ những trường hợp người bị hại bị bệnh làm mất khả năng
nhận thức hoặc điều khiển hành vi thì mới phải thực hiện quyền này qua người
đại diện, các trường hợp khác họ có thể tự mình yêu cầu khởi tố vụ án hoặc rút
yêu cầu khởi tố vụ án bình thường. Vì vậy, theo đó luật nên quy định cụ thể và
rõ ràng hơn theo hướng nếu người bị hại là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì chỉ người đại diện hợp pháp của người
bị hại mới có quyền yêu cầu.
Thứ hai, về thời hạn yêu cầu khởi tố: Cần phải bổ sung quy định về thời
hạn yêu cầu khởi tố vụ án, trong đó quy định trong thời hạn 30 hoặc 45 ngày,
người bị hại có quyền yêu cầu khởi tố vụ án. Quá thời hạn nói trên, nếu người bị
hại không yêu cầu khởi tố vụ án thì coi như họ đã từ chối quyền của mình, vụ án
được giải quyết theo trình tự thông thường. Quy định như vậy một mặt nâng cao
trách nhiệm, ý thức của người bị hại trong việc cân nhắc quyền yêu cầu khởi tố
hay không khởi tố vụ án của mình; mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan
tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tránh việc vụ án bị “treo”
không thể giải quyết được và tình trạng vi phạm pháp luật một cách “bất đắc dĩ”
như trên.
Thứ ba, về thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự có liên quan đến
quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại: Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
12
Trường Đại học Luật Hà Nội
định về căn cứ, trình tự và thẩm quyền thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự
khi quá trình điều tra xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm
tội xảy ra. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 cũng như các văn bản
hướng dẫn liên quan chưa dự liệu đến trường hợp thay đổi quyết định khởi tố vụ
án có liên quan đến quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của người bị hại. Xét
về bản chất, việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự là để xác định chính
xác tội danh, nghĩa là xác định đúng bản chất của vụ án. Do đó nếu việc thay đổi
quyết định khởi tố vụ án sang tội danh mới mà tội danh này cần phải có yêu cầu
khởi tố vụ án của người bị hại thì cần lấy ý kiến của họ về việc có yêu cầu tiếp
tục xử lý vụ án hình sự hay không. Không thể cho rằng do sai lầm của cơ quan
tiến hành tố tụng mà tước quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của họ, bởi
quyền này đã được luật quy định và có liên quan mật thiết đến lợi ích về mặt
tinh thần hoặc danh dự, nhân phẩm của họ. Ngược lại, nếu vụ án được khởi tố
theo yêu cầu của người bị hại nhưng quá trình điều tra xác định tội phạm đã khởi
tố không đúng với hành vi tội phạm xảy ra và cần thay đổi quyết định khởi tố vụ
án, nhưng tội phạm mới khởi tố này không thuộc trường hợp quy định tại Điều
105 Bộ luật Tố tụng Hình sự, nghĩa là khởi tố vụ án không cần yêu cầu của
người bị hại; trong trường hợp này, xét về bản chất đây là tội phạm thông
thường, việc thay đổi quyết định khởi tố vụ án chỉ là nhằm xác định lại đúng tội
danh của cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, vụ án lúc này cần phải được tiến
hành theo thủ tục thông thường, các điều kiện về yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại không còn tồn tại nữa, do đó người bị hại không
có quyền rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự trước đó.
- Thứ tư, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan có
thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Nên mở rộng đối
với các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm và chỉ áp
dụng đối với các tội ít nghiêm trọng.
+Trường hợp một người gây thương tích cho nhiều người và đều thuộc
trường hợp quy định tại khoản 1 điều 104 BLHS nhưng chỉ có một người có yêu
cầu khởi tố. Cần sớm có hướng dẫn cụ thể để giúp các địa phương tháo gỡ
vướng mắc.
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
13
Trường Đại học Luật Hà Nội
+ Trong các tội xâm phạm sức khỏe, nhất là đối với tội cố ý gây thương
tích, có trường hợp người bị hại bị chém rách mặt, thủng phổi, hay đứt gân tay...
chưa cần giám định cũng biết thương tích của họ trên 11%, có thể khởi tố và áp
dụng ngay biện pháp ngăn chặn đối với đối tượng gây án nhưng luật lại không
đề cập đến điều đó, mà chỉ được khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị
hại, trong khi nhiều người bị hại từ chối giám định thương tích, không đề nghị
khởi tố, vì họ đã bị đối tượng gây thương tích tác động, hay vì khoản tiền đền bù
hậu hĩnh.... nên cơ quan pháp luật không thể xử lí được, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến việc đấu tranh, xử lý tội phạm, nhất là các tội phạm hoạt động có
tổ chức với tính chất côn đồ, sử dụng hung khí nguy hiểm. Do vậy, nên sửa đổi
theo hướng vẫn quy định tội cố ý gây thương tích phải khởi tố theo yêu cầu của
người bị hại nhưng loại trừ trường hợp hành vi có tính chất côn đồ, sử dụng
hung khí nguy hiểm.
IV, Một số nhận xét:
So với quy định tương ứng về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại tại Điều 88 BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 đã có một số
điểm mới sau đây:
Thứ nhất, bổ sung quy định khi có căn cứ để xác định người đã yêu cầu
khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì
tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Thứ hai, quy định rõ người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có
quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Thứ ba, để đảm bảo thống nhất với quy định về người bị hại tại Điều 51
BLTTH năm 2003, Điều 105 cũng đã quy định: “Trong trường hợp người bị hại
là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì
người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng
khởi tô vụ án hình sự”.
Thứ tư, ngoài các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại đã được quy định tại Điều 88 BLTTHS năm 1988 BLTTHS năm
2003 đã bổ sung thêm 5 trường hợp “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (khoản 1
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
14
Trường Đại học Luật Hà Nội
Điều 105); tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” (khoản 1 Điều 106); tội “vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” (khoản 1 Điều
108); tội “vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính” (khoản 1 Điều 109); tội
“cưỡng dâm” (khoản 1 Điều 113).
Khoản 3 Điều 51 BLTTHS năm 2003 còn quy định: “Trong trường hợp
vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ
luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lợi buộc
tội tại phiên tòa”.
Những quy định về các trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của
người bị hại trong BLTTHS năm 2003 đánh dấu bước tiến bộ về kỹ thuật lập
pháp tố tụng hình sự nước ta theo hướng phân định rõ hơn những vụ án công tố
và những vụ án tư tố. Tuy nhiên, trong Bộ luật này vẫn chưa đưa ra được định
nghĩa pháp lí của khái niệm tư tố và chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục đối
với những vụ án tư tố. Vì vậy, pháp luật cần hoàn thiện hơn nữa những quy định
về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại nhằm bảo đảm áp dụng
linh hoạt vào giải quyết các vụ án cụ thể trên thực tế.
C.
KẾT LUẬN.
Để hạn chế những trường hợp khi có tội phạm xảy ra, việc khởi tố vụ án
hình sự có thể gây thêm những tổn thất cho người bị hại, pháp luật quy định
trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại được quy định
tại Điều 105 BLTTHS năm 2003. So với BLTTHS năm 1988 BLTTHS năm
2003 đã có những quy định tương đối cụ thể, rõ ràng, tiến bộ hơn tuy nhiên vẫn
còn một số vướng mắc, hạn chế trong quy định của pháp luật. Vì vậy, cần phải
hoàn thiện, bổ sung để phù hợp khi giải quyết các vụ án trên thực tế.
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
15
Trường Đại học Luật Hà Nội
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2008.
2.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
3.
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 20003, PGS.TS Nguyễn
Ngọc Anh (chủ biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
4.
Vấn đề khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại / Nguyễn Hải
Ninh // Tạp chí Luật học. Trường Đại học Luật Hà Nội , Số 6/2010.
5.
Một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chế định khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại / Nguyễn Đức Thái // Tạp chí Kiểm sát. Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Số 09/2009.
6.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại - những vấn đề lý
luận và thực tiễn : Khoá luận tốt nghiệp / Trương Thị Hồng Nhung; Người
hướng dẫn: ThS. Hoàng Văn Hạnh . - Hà Nội, 2010 .
7.
http//www.tailieu.vn
Bài tập lớn học kỳ - Môn Luật tố tụng hình sự
16