MỤC LỤC
Kết luận.......................................................................................................................................................9
Danh mục tài liệu tham khảo.....................................................................................................................10
Lời mở đầu
Hiện nay, việc quan tâm, chăm sóc và bảo vệ trẻ em được coi là nhiệm vụ
trọng tâm trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta. Quyền làm cha,
làm mẹ, làm con là quyền thiêng liêng, vì vậy mà viêc xác định cha, mẹ, con nhằm
xác định thân phận và quan hệ huyết thống giữa các chủ thể là việc làm hết sức
quan trọng, góp phần làm ổn định các mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội.
Để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Luật
HN&GĐ) năm 2000 đã dành chương VII quy định về vấn đề xác định cha, mẹ
,con. Nguyên tắc xác định cha, mẹ, con đã được quy định tương đối sớm trong hệ
thống pháp luật của nhà nước ta, giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển của Luật
HN&GĐ nói riêng và toàn xã hội nói chung. Một trong những vấn đề được quan
tâm và có ý nghĩa trực tiếp trong thực tiễn hiện nay đó là vấn đề thủ tục xác định
cha, mẹ, con. Vì vậy đề tài em lựa chọn tìm hiểu cho bài tập lớn môn học Luật
HN&GĐ là: “ Phân biệt việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính và
thủ tục tư pháp”
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ , CON
1. Khái niệm xác định cha, mẹ, con.
Trong từ điển Tiếng Viêt thì, ‘’xác định” trong từ điển Tiếng việt là “qua
nghiên cứu, tìm tòi, biết được rõ ràng, chính xác”, vậy xác định cha, mẹ cho con là
việc nghiên cứu, tìm tòi tòm ra nguồn gốc của một người một cách rõ rang, chính
xác.
Dưới góc độ sinh học-xã hội: Xác định cha mẹ cho con là việc nghiên cứu,
tìm hiểu, nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thong
qua sự kiên sinh đẻ.
Dưới góc độ pháp lý: Xác định cha, mẹ cho con là một chế định bao gồm các
quy phạm pháp luật, quy định về căn cứ pháp lý, thủ tục pháp lý xác định cha, mẹ
con, cơ sở để hình thành ở các chủ thể quyền và nghĩa vụ theo luật định.
1
2.Ý nghĩa của nguyên tắc xác định cha, mẹ, con:
Chế định xác định cha, mẹ, con trong Luật HN&GĐ có hiệu lực từ năm 2001
đã góp phần bảo đảm cho các trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi được chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục một cách tốt nhât, bảo đảm cho các bà mẹ có đầy đủ các cơ sở pháp lý để
xác định nguồn gốc cho con mình. Hơn hết, xác định cha, mẹ, con đã đảm bảo thực
hiện triệt để nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em được Luật HN&GĐ quy định.
3.Thủ tục xác định cha, mẹ, con.
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng, thủ tục là “cách thức tiến hành một công
việc, với nội dung trình tự nhất định, theo quy định của nhà nước” (Nguyễn Như
Ý, từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, Hà Nội 1995)
Thủ tục xác nhận cha, mẹ, con việc tiến hành theo một trình tự nhất định, theo
quy định của nhà nước việc nghiên cứu, tìm tòi, tính toán để đưa ra kết quả rõ ràng,
chính xác quan hệ cha, mẹ, con của chủ thể yêu cầu xác định cha, mẹ, con.
Thủ tục xác định cha, mẹ, con gồm hai thủ tục, đó là việc tự nguyện nhận cha,
mẹ, con được thực hiện tại UBND (thủ tục hành chính) và tranh chấp trong việc
xác định cha, mẹ, con được thực hiện tại Tòa án nhân dân (thủ tục tư pháp). Thủ
tục hành chính là trình tự, cách thức, điều kiên và thời hạn tiến hành hay thực hiện
một hoạt động quản lý hành chính nhà nước do pháp luật hành chính Việt Nam quy
định (TS. Lê Thị Thủy, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, NXB Giáo Dục
2010). Thủ tục tư pháp là thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, hình sự, hành chính,
lao động, kinh tế do các chủ thể có quyền tư pháp tiến hành (Trường Đại học Luật
Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, 2010)
II. PHÂN BIỆT XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON THEO THỦ TỤC HÀNH
CHÍNH VÀ THEO THỦ TỤC TƯ PHÁP
1.Thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có
hôn nhân hợp pháp
Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về căn cứ xác định cha, mẹ,
con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp. Đó là căn cứ vào thời kỳ hôn nhân,
sự kiện sinh đẻ, sự thừa nhận của cha mẹ và con.
1.1. Thủ tục hành chính
Thủ tục đăng ký khai sinh
Trong hôn nhân hợp pháp, sự kiện sinh đẻ của người vợ là căn cứ phát sinh
quan hệ cha, mẹ, con về mặt thực tế. Đứa con luôn được xác định là con chung của
vợ chồng một cách đương nhiên theo nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha,
mẹ, con trong hôn nhân hợp pháp. Việc xác định cha, mẹ, con về mặt pháp lý phải
2
thông qua thủ tục đăng ký khai sinh tại UBND cơ sở. Việc đăng ký khai sinh được
tiến hành theo Nghị định 158 về đăng ký hộ tịch.
Cơ quan có thẩm quyền đăng ký khai sinh là UBND cấp xã nơi cư trú của
người mẹ hoặc của người cha (Điều 13, NĐ 158); Thời hạn đăng ký khai sinh là 60
ngày, người có trách nhiệm đăng ký khai sinh là cha, mẹ hoặc người thân thích
khác, nếu những người này không thể đi được thì có thể ủy quyền bằng văn bản có
công chứng chứng thực. Người đi đăng ký khai sinh phải xuất trình các giấy tờ
sau: Giấy chứng sinh do cơ sở y tế cấp, nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế thì giấy
chứng sinh được thay thế bằng văn bản của người làm chứng. Trong trường hợp
không có người làm chứng thì người đi làm giấy khai sinh phải làm giấy cam đoan
về việc sinh là có thực; Giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ trẻ. Đây là chứng thư
pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng, đồng thời cũng là căn
cứ để suy đoán quan hệ cha mẹ và con trong giá thú
1.2.Thủ tục tư pháp
a, Quyền khởi kiện
- Người hiện là cha, mẹ của một người có quyền yêu cầu xác định
người đó không phải con mình (Điều 64 Luật HN&GĐ)
- Người đang không phải là cha, mẹ của một người có quyền yêu cầu
xác định người đó là con mình. Bất kỳ chủ thể nào cũng có quyền khởi kiện
một người đang là con chung của một cặp vợ chồng là con của mình
- Người đang không phải là con của một người có quyền xác định mình
là con của cha, mẹ có hôn nhân hợp pháp
- Những chủ thể trên chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị mất
năng lực hành vi dân sự thì quyền khởi kiện sẽ thuộc về người giám hộ của
họ hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ
b, Chứng cứ xác minh trong vụ án xác định lại quan hệ cha, mẹ, con khi cha, mẹ
có hôn nhân hợp pháp.
Người có quyền khởi kiện phải nộp đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 164
Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2004, Điều 62 Luật HN&GĐ năm 2000, Nghị quyết
02 kèm theo đó là những tài liệu chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có
căn cứ hợp pháp. Do hiện nay pháp luật không có quy định cụ thể về chứng cứ mà
đương sự có thể sử dụng để chứng minh nên các đương sự có thể đưa ra bất cứ
chứng cứ nào. Tuy nhiên những chứng cứ này phải được rút ra từ những nguồn
nhất định do pháp luật quy định, được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật
tố tụng dân sự.
c,Thủ tục hòa giải
3
Vụ án xác định cha, mẹ, con không thuộc những vụ án dân sự không được hòa
giải (Điều 181 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004). Và hòa giải được coi là thủ tục bắt
buộc trong giải quyết vụ án. Nội dung của hòa giải nhằm để các đương sự tự
nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Việc hòa giải này không chỉ
dựa trên sự tự nguyện thỏa thuận nhận cha, nhận mẹ, nhận con vì nếu các bên đã tự
nguyện nhận cha, mẹ, con thì việc xác định cha mẹ con đã thuộc thẩm quyền của
UBND. Vì vậy, nếu trong quá trình giải quyết vụ án mà các đương sự lại tự
nguyện, thỏa thuận nhận cha, mẹ, con thì TAND vẫn phải căn cứ vào những chứng
cứ chứng minh quan hệ cha con, mẹ con để giải quyết.
2. Thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp trong việc xác định cha, mẹ, con khi
cha mẹ không có cuộc hôn nhân hợp pháp.
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 không quy định cụ thể về căn cứ pháp lý
cho việc xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp . Tuy
nhiên theo tinh thần các điều luật trong chế định xác định cha, mẹ con thì việc xác
định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp là có cơ sở pháp lý
(Theo Điều 64, Điều 65 Luật HN&GĐ). Đó là các căn cứ: Căn cứ vào thời điểm
thụ thai, thời gian mang thai và thời điểm sinh con; Căn cứ vào khoảng thời gian
hai bên có quan hệ tình dục; Căn cứ vào quan hệ cha mẹ và con trên thực tế.
2.1.Thủ tục hành chính
a,Thủ tục đăng ký khai sinh
Theo Điều 13 NDD158 thì ngoài UBND cấp xã nơi cư trú của người mẹ có
thẩm quyền đăng ký khai sinh còn có UBND trẻ em đang sinh sống trên thực tế
nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, hoặc nơi cư trú của người đang
tạm thời nuôi dưỡng hoặc nơi có trụ sở của tổ chức đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ
em đó nếu trẻ em đó bị bỏ rơi. Dù cha, mẹ của đứa trẻ không có giấy chứng nhận
kết hôn thì đứa trẻ đó vẫn được khai sinh bình thường, nhưng phần họ tên cha bị
bỏ trống. Nếu tại thời điểm khai sinh trẻ em đó mà người cha nhận con thì UBND
cấp xã sẽ kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh (Điều 15-NĐ 158).
Đối với những đứa trẻ bị bỏ rơi không có giấy tờ gì, sau khi lập biên bản, UBND
phải thông báo trên các phương tiện truyền thông tìm kiếm cha mẹ đẻ. Khi hết thời
hạn luật định mà không thấy cha mẹ đẻ thì người hoặc tổ chức đang tạm thời nuôi
dưỡng đứa trẻ có trách nhiệm đi đăng ký khai sinh, phần họ tên cha, mẹ phải để
trống. Nếu có người nhận nuôi thì ghi tên cha mẹ nuôi vào giấy khai sinh của đứa
trẻ nhưng trong sổ đăng ký khai sinh phải ghi rõ là cha mẹ nuôi và điều này được
giữ bí mật. Như vậy trong trường hợp này trẻ em vẫn được khai sinh nhưng chưa
xác định được cha mẹ.
4
b, Thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con.
Điều kiện nhận cha, mẹ, con
Theo Điều 32 NĐ 158 và Điều 65 Luật HN&GĐ thì:
- Bên nhận là cha, mẹ, con phải còn sống vào thời điểm đăng ký nhận
cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp.
- Nếu cha, mẹ đã chết thì người con đã thành niên hoặc người giám hộ
của con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mât năng lực hành vi dân
sự cũng được đăng ký nhận cha mẹ nếu việc nhận là tự nguyện và không có
tranh chấp.
Đối với việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài chỉ tiến hành nếu
bận nhận và bên được nhận còn sống vào thời điểm nộp đơn yêu cầu, tự
nguyện và không có tranh chấp. Điều này được quy định tại Điều 28 Nghị
Định 68 và thông tư số 07/2002/TT-BTT.
Thẩm quyền đăng ký nhận cha, mẹ, con.
Đối với việc đăng ký nhận cha, mẹ, con trong nước do UBND cấp xã nơi cư
trú của người nhận hoặc người được nhận cha, mẹ, con thực hiện.
Đối với việc đăng ký nhận cha, mẹ,con có yếu tố nước ngoài do UBND cấp
tỉnh nơi cư trú của người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện nếu người nước
ngoài xin nhận công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam là
cha, mẹ, con hoặc công dân Việt Nam xin nhận người nước ngoài thường trú tại
Việt Nam là cha, mẹ, con.
Đối với việc đăng nhận cha, mẹ con giữa công dân Việt Nam thường trú ở khu
vực biên giới với Việt Nam do UBND cấp xã ở khu vực biên giới thực hiện.
Thủ tục tiến hành đăng ký nhận cha mẹ con
Giấy tờ cần thiết cho việc nhận cha, mẹ, con bao gồm: tờ khai đăng ký việc
nhận cha, mẹ, con; giấy khai sinh của người con, các giấy tờ đồ vật hoặc các chứng
cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con. Điều quan trọng nhất trong việc
nhận cha mẹ con đó là sự tự nguyện của các chủ thể trong mối quan hệ đó.
Đối với việc nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài thì cần thêm một số giấy
tờ khác như bản sao chứng minh nhân dân, hộ chiếu của người nhận và người được
nhận cha, mẹ, con; thẻ thường trú đối với người nước ngoài thường trú tại Việt
Nam.
5
Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc
nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp thì UBND cấp xã đăng
ký việc nhận cha, mẹ, con; Đối với việc đăng ký nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước
ngoài thì thời hạn giải quyết là 45 ngày, có thể kéo dài thêm 20 ngày. Đối với việc
nhận cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài ở khu vực biên giới thì thời gian giải quyết
là 15 ngày kể từ nhà nhận đủ giấy tờ hợp lý (NĐ 68)
2.2.Thủ t ục tư pháp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp
pháp.
a, Quyền khởi kiện
- Cha, mẹ, người giám hộ của người chưa thành niên hoặc người đã
thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu xác định
cha, mẹ, con cho người đó.
- Cha, mẹ, người giám hộ của người đã thành niên mất năng lực hành vi
dân sự có quyền yêu cầu xác định con cho người đó.
- Hội Liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu xác định con cho người đã
thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định cha, mẹ cho người chưa
thành niên.
b, Điều kiện nhận cha, mẹ, con: Khi cha không tự nguyện nhận con; người cha
nhận con nhưng người mẹ không đồng ý; đã có người khai là cha của con.
c, Chứng cứ chứng minh trong vụ án xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có
hôn nhân hợp pháp.
Để chứng minh tư cách cha, mẹ con trong trường hợp này cũng phải dựa trên
những cơ sở hợp lý để xác định tư cách người cha, người mẹ, người con về mặt
huyết thống. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự. Đương sự có thể đưa ra bất
cứ chứng cứ nào để chứng minh quan hệ cha con, mẹ con.
d, Thủ tục hòa giải
Việc xác định cha mẹ con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp được tiến
hành qua hai thủ tục trên
3. Thủ tục xác nhận cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con theo phương pháp
khoa học.
Đối với cặp vợ chồng vô sinh thì căn cứ xác định cha, mẹ, con cũng được xác
định dựa trên nguyên tắc suy đoán pháp lý được quy định định tại Điều 63 Luật
HN&GĐ năm 2000. Các căn cứ bao gồm: Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ
chồng vô sinh; Căn cứ vào sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ
nữ độc than, của người cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi
6
3.1. Thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính trong trường hợp này được áp dụng tương tự như những
trường hợp đăng ký khai sinh thông thường.
3.2. Thủ tục tư pháp
Về nguyên tắc, trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học, khi
quan hệ cha mẹ và con đã được xác lập giữa cặp vợ chồng vô sinh với đứa con
được sinh ra thì không đặt ra việc xác định lại quan hệ giữa cha mẹ và con đó. Bởi
vì sinh con theo phương pháp khoa học chỉ được thực hiên khi có sự tự nguyện của
cặp vợ chồng vô sinh, được thể hiện rất rõ ràng và chặt chẽ.
Tuy nhiên trên thực tế đã xảy ra những trường hợp tranh chấp trong việc xác
định cha, mẹ, con. Ví dụ như: Một người phụ nữ đồng ý mang thai hộ cho cặp vợ
chồng vô sinh nhưng sau khi sinh lại không muốn trao đứa bé; Các bên kí kết hợp
đồng mang thai một cách lén lút có sự hỗ trợ của nhân viên y tế và người phụ nữ
sau khi sinh cũng không muốn trao đứa trẻ; Trường hợp người vợ không thể mang
thai đã thỏa thuận với chồng và một người phụ nữ khác làm hợp đồng đẻ thuê, sau
khi sinh người phụ nữ này cũng không muốn trao trả đứa bé.
Trong những trường hợp trên, phương án giải quyết là Tòa án sẽ tuyên bố hợp
đồng mang thai hộ hoặc hợp đồng thuê mang thai vô hiệu theo pháp luật dân sự. Vì
vậy trong trường hợp này, việc khôi phục lại trạng thái ban đầu khi đã tuyên bố
giao dịch vô hiệu là không thể thực hiện.
4. Sự khác biệt giữa thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp trong việc xác định
cha, mẹ, con.
Từ các phân tích đối với các trường hợp cụ thể trên đây có thể rút ra những
nhận xét về sự khác biệt giữa hai thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp trong việc
xác định cha, mẹ, con.
Thứ nhất, ý chí và sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong quan hệ: Nếu việc
xác định cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính dựa trên sự tự nguyện, không có
tranh chấp giữa các chủ thể thì khi có tranh chấp xảy ra yêu cầu xác định cha, mẹ,
con phải được tiến hành theo thủ tục tư pháp.
Thứ hai, thẩm quyền giải quyết: Đối với việc xác định cha, mẹ, con theo thủ
tục hành chính, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký xác nhận là Ủy ban nhân
dân. Cụ thể đó là UBND cấp xã đối với trường hợp xác định cha mẹ con giữa công
7
dân Việt Nam, và giữa công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với Việt
Nam do UBND cấp xã ở khu vực biên giới thực hiện; UBND cấp tỉnh đối với
trường hợp xác định cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài.
Việc xác định cha, mẹ, con theo thủ tục tư pháp sẽ được giải quyết tại Tòa án
nhân dân.
Thứ ba, điều kiện nhận cha, mẹ, con
III. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG THỰC TẾ.
1. Khái quát về thực tiễn xác định cha, mẹ, con theo thủ tục hành chính
Hiện nay việc tự nguyện nhận cha, mẹ, con tuy không nhiều nhưng diễn ra khá
thuận lợi vì việc nhận cha mẹ con là tự nguyện và không có tranh chấp. Theo thủ
tục này các bên sẽ tiến hành đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác
định nhân thân giữa các chủ thể. Do các bên cha mẹ lo sợ việc nhận cha, mẹ, con
ngoài giá thú sẽ ảnh hưởng đến uy tín công việc, danh dự tiền bạc của họ nên việc
này diễn ra không nhiều, chủ yếu là việc đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú.
Cũng có những trường hợp cha mẹ đã kết hôn hợp pháp với nhau hoặc đã nghỉ hưu
mới chính thức đến UBND để đăng ký nhận cha, mẹ, con. Đối với những trường
hợp người con đã thành niên làm thủ tục nhận cha, mẹ, con trong trường hợp cha
mẹ đã chết mà có sự phản đối của người mẹ hoặc người cha còn sống hoặc thuộc
diện, hang thừa kế của người chết thì UBND thường lúng túng khi giải quyết.
Trong thực tế việc người mẹ không có chồng mà sinh con hoặc có chồng ngoại
tình mà sinh con thường hay giấu giếm tên thật của mình trong giấy chứng sinh.
Sau đó nếu họ bỏ rơi con mình thì khai sinh của đứa trẻ lại được dựa trên những
thông tin giả đó. Nếu sau đó người mẹ muốn nhận lại con mình thì thủ tục hành
chính rất khó khăn.
2. Khái quát về thực tiễn áp dụng thủ tục tư pháp để xác định cha, mẹ, con
Thủ tục tư pháp được giải quyết tại TAND khi có tranh chấp về việc xác định
cha, mẹ, con. Các trường hợp xác định cha, mẹ, con trong giá thú theo thủ tục tư
pháp thường ít hơn nhiều so với các trường hợp ngoài giá thú. Chủ yếu tập trung
vào các trường hợp người mẹ muốn xác định cha cho đứa con mình sinh ra hoặc
người con đã thành niên muốn xác định cha mình.
Hiện nay theo báo cáo tổng kết hằng năm của ngành tòa án thì số vụ kiện về
hôn nhân gia đình ngày càng tang. Tuy nhiên số vụ kiện về xác định cha, mẹ con
8
chiếm một tỷ lệ nhỏ, mà thường liên quan đến các vụ kiên khác như ly hôn, tranh
chấp tài sản và con cái khi ly hôn,…
Thực tiễn cho thấy khi giải quyết các vụ việc này, vấn đề xác định chứng cứ
thường rất khó khan và phức tạp. Hiện nay việc áp dụng kỹ thuật giám định gene
khá phổ biến vì sự chính xác của nó nhưng chi phí giám định cao, không phải
đương sự nào cũng có thể chi trả được.
3. Một số kiến nghị và giải pháp
Thứ nhất, luật quy định khi có tranh chấp trong việc xác định cha mẹ con thì
phải có chứng cứ và được Tòa án chấp nhận, tuy nhiên Luật lại chưa dự liệu chứng
cứ đó như thế nào. Do đó Luật HN&GĐ và các văn bản liên quan cần bổ sung
những quy định về chứng cứ nhằm xác định cha mẹ con chính xác và khách quan.
Thứ hai, luật HN&GĐ cần quy định rõ hơn về thẩm quyền xác định cha mẹ
con theo thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Hiện nay Luật HN&GĐ mới chỉ
quy định chung chung về quyền nhận cha, mẹ và những người có yêu cầu xác định
cha mẹ con mà chưa phân định rõ thẩm quyền của loại việc này.
Thứ ba, cần tuyên truyền cho người dân về thủ tục xác định cha mẹ con nhằm
giúp họ tự chủ trong việc quyết định nhận cha mẹ con của mình. Những người có
con ngoài giá thú thường rất ngại khi phải làm thủ tục công nhận cha mẹ con vì sợ
điều tiếng xã hội. Theo đó, khi làm thủ tục đăng ký nhận cha, mẹ, con thì UBND
nên giải quyết nhanh gọn hợp tình hợp lý và cũng nên giữ kín các thông tin về
nhân thân của các bên.
Kết luận
Pháp luật về xác định cha mẹ con ngày càng hoàn thiện hơn, đã kịp thời điều
chỉnh các thực trạng về quan hệ HN&GĐ trong xã hội. Nguyên tắc này đã đã giúp
xác định cha mẹ con được chính xác hơn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ thể đặc biệt là quyền và lợi ích của bà mẹ và trẻ em. Tuy nhiên chế định xác
định cha, mẹ, con vẫn còn có những hạn chế và bất cập, cần được quan tâm bổ
sung, sửa đổi và hoàn thiện. Vấn đề quan trọng luôn được đặt ra đó là việc tuyên
truyền phổ biến pháp luật tới người dân, giúp họ chủ động trong điều kiện hoàn
cảnh của mình, trong đó có thủ tục xác định cha, mẹ, con và sự khác biệt giữa hai
trình tự thủ tục thực hiện vấn đề này.
9
Danh mục tài liệu tham khảo
1.
Hiến pháp 1992
2.
Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, nxb Từ điển bách
khoa 2006
10
3. Nguyễn Thị Lan, luận án tiến sỹ luật học, Xác định cha mẹ con trong pháp
luật Việt Nam, Đại học Luât Hà Nội năm 2008
4.
Nguyễn Thị Lan, luận văn thạc sỹ luật học, Xác định cha mẹ con một số vấn
đề lý luận và thực tiễn, Đại học Luật Hà Nội, năm 2002
5.
Nguyễn Văn Cừ, Một số vấn đề xác định cha mẹ và con ngoài giá thú theo
Luật HN&GĐ Việt Nam, tạp chí luật học số 1 /2002
6.
Nguyễn Ngọc Quyên, khóa luận tôt nghiêp, Nguyên tăc xác định cha, mẹ,
con trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, 2010
7.
Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000
8.
Bộ Luật Dân sự Việt Nam năm 2005
9.
Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam
10. Nghị định của Chính phủ số 158/2005 NĐ-CP ngày 27/12/2005 về quản lý
và đăng ký hộ tịch
11. Nghị định của Chính phủ số 68/2002 NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi
tiết về thi hành một số điều của luật HN&GĐ về hôn nhân có yếu tố nước ngoài
12. Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 hướng dẫn TAND các cấp áp dụng một số quy định của Luật
HN&GĐ
13. Ngô Thị Hường, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, 2010
14. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, 2009.
15. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, nxb.
Công an nhân dân, 2008.
11