Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số vấn đề lý luận về quyền bí mật đời tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.89 KB, 13 trang )

Đề Số 31:
Chị A đề nghị ly hôn anh B (chồng chị) với lý do anh B ngoại tình
nhưng anh B phủ nhận điều này và dứt khoát không đồng ý ly hôn . Để
chứng minh anh B ngoại tình và Tòa án chấp nhận đề nghị đơn phương ly
hôn của mình, chị A đã: (i) thuê thám tử theo dõi anh B; (ii) thuê người đặt
trộm camera trong xe ô tô của anh B, (iii) ghi âm lén các cuộc nói chuyện
điện thoại của anh B; (iv) xin danh mục tất cả các cuộc điện thoại và nhắn
tin (có nội dung) từ nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động; (v) thuê người
áp dụng biện pháp kỹ thuật để tiếp cận được các thư điện tử của anh B.
Theo anh (chị) hành vi của chị A và các tổ chức, cá nhân liên quan có xâm
phạm quyền nhân thân của anh B hay không?

1


LỜI MỞ ĐẦU
Quyền bí mật đời tư là một quyền dân sự cơ bản của con người.
Trong hệ thống quyền con người, quyền bí mật đời tư nằm trong lĩnh vực
dân sự - chính trị và ngày càng được khẳng định vị trí vô cùng quan trọng
trong đời sống xã hội. Trong đời sống pháp lý hiện nay, khi mà ý thức cá
nhân cũng như ý thức pháp luật của mỗi thành viên trong xã hội ngày càng
được nâng cao, vấn đề bảo vệ các quyền nhân thân nói chung và quyền bí
mật đời tư nói riêng là một vấn đề cấp bách hiện nay khi mà càng ngày xảy
ra càng nhiều những hành vi xâm phạm đến lĩnh vực này. Để hiểu hơn về
vấn đề này bài viết sau đây xin được phân tích một vụ việc giả định về
quyền bí mật đời tư, qua đó góp phần làm rõ một số nội dung của quyền
này.
NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận về quyền bí mật đời tư:
1.1. Về khái niệm quyền bí mật đời tư:
Điều 38 BLDS 2005 không đưa ra khái niệm “bí mật đời tư”. Đây là


một trong những khó khăn khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến bí mật đời
tư. Theo cuốn Đại từ điển tiếng việt thì bí mật được giải thích “giữ kín,
không để lộ ra, không công khai”. Một cách giải thích khác cho rằng: bí
mật là thông tin cần che dấu, chỉ để một số nhất định những người liên quan
được biết. Những thông tin được xác định là bí mật chỉ mang ý nghĩa tương
đối. Dưới góc độ này hay đối với một bên thì nó có thể cần phải được che
đậy, giữ kín, nhưng dưới góc độ khác, đối với bên khác nó có thể không cần
che dấu. Tính bí mật có được do những gì chứa đựng trong thông tin có liên
quan đến một điều gì đó mà nếu để người khác không có nghĩa vụ biết thì
có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu, gây thiệt hại cho bên cần che dấu... “Bí mật
đời tư có thể được hiểu là những gì gắn với nhân thân của con người, là
quyền cơ bản. Đó có thể là những thông tin về hoàn cảnh cuộc sống gia
2


đình, tên gọi, con cái, các mối quan hệ...gắn liền với một cá nhân mà người
này không muốn cho người khác biết. Những bí mật đời tư này chỉ có bản
thân người đó biết và những người thân thích, người có mối liên hệ với
người đó biết và họ chưa từng công bố ra ngoài với bất kì ai. Ví dụ: con
ngoài giá thú, di chúc, hình ảnh cá nhân, tình trạng sức khoẻ, bệnh tật...
Quy định này cho rằng bí mật đời tư là những thông tin gắn liền với cá
nhân, chỉ có thể mình họ và một số người hạn chế biết được. Tuy nhiên, có
một số trường hợp tuy thông tin này đã được công bố nhưng bản thân người
tiếp nhận thông tin phải có nghĩa vụ bảo mật thông tin đó thì thông tin đó
vẫn được coi là bí mật đời tư. Quyền bí mật đời tư là một trong những
quyền nhân thân liên quan mật thiết đến sự tự do của mỗi người. Con người
có sự tự do của mình, sự tự do đó không chỉ trong suy nghĩ mà còn trong cả
công việc họ làm…
Như vậy, có thể hiểu là: Bí mật đời tư là những thông tin, tư liệu (gọi

chung là thông tin) về tinh thần,vật chất, quan hệ xã hội hoặc thông tin
khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được
pháp luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện
pháp mà pháp luật thừa nhận.
1.2. Phân tích quyền bí mật đời tư :
1.2.1. Chủ thể quyền :
Với tư cách là một quyền nhân thân, chủ thể quyền của quyền bí mật
đời tư chỉ có thể là cá nhân. Chủ thể mang nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật
liên quan đến quyền bí mật đời tư chính là tất cả các chủ thể còn lại trong
xã hội, trong đó có Nhà nước.
1.2.2. Đối tượng quyền :
Hiện nay trong hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy phạm nào
nêu rõ khái niệm « bí mật đời tư » và phạm vi của nó, dẫn tới nhiều quan
điểm khác nhau đã nảy sinh trong luật học. Khái niệm “bí mật đời tư” bao
hàm trong nó hai khái niệm là « bí mật » ; « đời tư » và Theo đó : “bí mật”
được hiểu là “giữ kín, không để lộ ra, không công khai”. Như vậy, việc giữ
3


kín, không công khai xét trong nôi dung thì liên quan đến các thông tin và
đó là những thông tin không bộc lộ công khai. Tất nhiên những thông tin
này chỉ có người nắm giữ bí mật đời tư hoặc người liên quan bí mật này
được biết đến. Tính “bí mật” này được xác định theo các tiêu chí sau:
+ Bản thân thông tin đó đã mang tính bí mật. Việc xác định thông tin mang
tính bí mật có thể dựa vào bản chất của thông tin có thể xác định theo quy
đinh của pháp luật (thư tín, điện thoại, tình trạng bệnh tật...). Những thông
tin này đã có văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành xác đinh rõ đó là bí mật mà không được tiết lộ và xâm phạm).
+ Người nắm giữ thông tin có thể đã áp dụng mọi biện pháp để bảo mật
như khoá, cài đặt mã số bảo vệ và áp dụng mọi biện pháp bảo vệ khác...

+ Giữa chủ sở hữu thông tin bí mật với cơ quan tổ chức, cá nhân khác đã
có sự thảo luận về nghĩa vụ giữ bí mật. Tuy nhiên, sẽ không coi là “bí mật”
nếu những thông tin đó xâm, phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng,
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Trong trường hợp
này tiết lộ thông tin sẽ không được coi là xâm phạm bí mật.
Khái niệm “đời tư”, chúng ta cũng đã đặt khái niệm này trong mối
liên quan, xuất phát từ các thông tin. Có ý kiến cho rằng “tư - có nghĩa là
riêng, việc riêng, của riêng”, một cách giải thích khác của cuốn Đại từ điển
tiếng Việt: tư là riêng, của cá nhân, trái với công (chung)... đời tư, riêng
tư...Như vậy, có thể hiểu rằng những thông tin liên quan đến đời tư là
những thông tin liên quan đến một cá nhân cụ thể, đó là những gì thầm kín
của cá nhân mà họ giữ bí mật. Đó có thể là các thông tin liên quan đến các
yếu tố tinh thần, vật chất, các quan hệ xã hội.
Những thông tin liên quan đến bí mật đời tư được bảo hộ phải là
những thông tin mang tính bí mật. Tính bí mật được xác định theo:
Bản chất thông tin: nếu cảm xúc, suy nghĩ của cá nhân bày tỏ ra trước
một số chủ thể nhất định thì không còn coi là bí mật, nhưng nếu một người
đã thể hiện thông tin qua một hình thức khác, như ghi vào nhật kí, thì đó
được coi là bí mật đời tư.
4


Bí mật được xác định theo quy định của pháp luật: Gồm có thư tín, điện
thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác, và một số thông tin đặc
biệt, như quy định tại khoản 5 Điều 8 Luật phòng chống nhiễm vi rút gây ra
hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) cấm việc
«công khai tên, địa chỉ, hình ảnh của người nhiễm HIV hoặc tiết lộ cho
người khác biết việc một người nhiễm HIV khi chưa được sự đồng ý của
người đó…”
Tính bảo mật của thông tin : Khi chủ sở hữu áp dụng các biện pháp bảo

mật, khi có tranh chấp phải chứng minh được chủ thể xâm phạm đã thực
hiện những hành vi như thu thập, công bố các thông tin, tư liệu,… mà
không có sự đồng ý của mình. Các biện pháp như khóa, cài mã số,… có thể
được coi là một bằng chứng hữu hiệu chứng minh tính bảo mật của thông
tin.
Thông qua quan hệ nghĩa vụ giữa các bên, theo đó giữa chủ sở hữu
thông tin và người biết được thông tin đó tồn tại một thỏa thuận với nghĩa
vụ bảo mật. Căn cứ theo Điều 10 BLDS , những thông tin được coi là “bí
mật đời tư” không được trái pháp luật và đạo đức xã hội, tức những thông
tin đó không được gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác. Trong những trường hợp này, việc bộc lộ
thông tin khong bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Việc người bạn này công
bố thông tin đó cho cơ quan công an không thể được coi là xâm phạm bí
mật đời tư.
1.2.3. Nội dung quyền bí mật đời tư: Được hiểu là phạm vi các quyền liên
quan đến bí mật đời tư được Nhà nước ghi nhận và bảo vệ cho cá nhân. Nội
dung quyền này được xác định theo Điều 38 BLDS:
1.2.3.1.Cá nhân có quyền đối với các thông tin, tư liệu của mình:
Thông tin được hiểu là tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới
xung quanh, tư liệu được hiểu là tài liệu được dùng cho việc nghiên cứu,
học tập. Trong phạm vi nội hàm của khái niệm bí mật đời tư tư liệu cũng có
thể hiểu là những thông tin.
5


Phạm vi các thông tin thuộc về cá nhân là rất rộng lớn. Đó có thể là những
thông tin liên quan đến cuộc đời của cá nhân được thể hiện ở nhiều hình
thức chưa đựng thông tin khác nhau như một câu chuyện hình aneh những
trang nhật ký, kỉ vật...Các thông tin đó cí thể có từ khi cá nhân mới sinh ra,
thông tin trong suốt cuộc đời cá nhân và thậm chí ngay cả khi cá nhân đã

chết.
Như vậy cá nhân có quyền công bí và không công bố các thông tin này, khi
có nhân không công bố điều đó có nghĩa là các thông tin này được coi là bí
mật. Bất cứ hành vi nào tiết lộ các thông tin mà không được phép của chủ
sở hữu thông tin sẽ bị coi là xâm phạm quyền của cá nhân đối với bí mật
đời tư (nếu chủ sở hũu thông tin đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự
thì phải được sự đồng ý của che mẹ, người giám hộ hợp pháp và những
người khác theo quy định của pháp luật).
1.2.3.2. Cá nhân có quyền bí mật đối với thư tín, điện tín và các hình thức
thông tin điện tử khác.
Điều 73 Hiến pháp năm 1992 quy định :”thư tín, điện thoại, điện tín của
công dân được đảm bảo an toàn và bí mật”. Như vậy tư tín điện tín và các
hình thức thông tin điện tưt khác chính là nội dung thuộc bí mật đời tư của
cá nhân thư tín, điện tín và các hình thức thông tin điện tủ khác của cá nhân
(gửi và nhận qua mạng internet) chứa đựng những nội dung thông tin được
chuyển tải có thể là những lời hỏi thăm mang tính chất tình cảm, công việc
hoặc bất kỳ nội dung nào khác. Dù nội dung thông tin được chuyển tải như
thế nào thì chỉ có người nhận và người gửi biết mà người khác không thể
can thiệp vào để biết những nội dung của thông tin này. Pháp luật về bưu
chính viễn thông của nhà nước ta đã đưa ra nguyên tắc bảo mật là một trong
những nguyên tắc trong hoạt động bưu chính viễn thông. Khoản 1 Điều 9
pháp lênh bưu chính viễn thông quy định “bí mật đối với thông tin riêng
chuyển qua mạng bưu chính, mạng viễn thông của mọi tổ chức, cá nhân
được đảm bảo theo quy định của pháp luật. Việc giữ bí mật thông tin bằng
kĩ thuật mật mã trong bưu chính, viễn thông được thực hiện theo quy định
6


của pháp luật về cơ cấu... Ngoài ra tại điều 10 của pháp lệnh này còn quy
định về các hành vi bị nghiêm cấm trong đó cs hành vi: “ thu trộm, nghe

trộm thông tin trên mạng viễn thông, trộm cắp sử dụng trái phép mật khẩu,
khoá mật mã và thông tin riêng của tổ chức, cá nhân khác, sản suất, mua
bán, sử dụng tem bưu chính giả...
Tuy nhiên, bí mật đời tư với thư tín, điện tín và các hình thức thông tin điện
tử khác cũng phải chịu những giới hạn nhật định theo quy đinh của pháp
luật. Việc kiểm soát thư tín, điện tín cũng như các hình thức thông tin điện
tử khác nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, giữ gìn an ninh, trật tự, hay nói cách
khác là nhằm mục đích bảo vệ lợi ích quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều có sự kiểm soát này, kể cả Hoa Kỳ-một trong những quốc gia
vẫn được coi là tôn trọng bí mật riêng tư một cách chặt chẽ nhất. Mặc dù có
thể có sự can thiệp vào thư tín điện tín và các hình thức thông tin điện tử
khác nhưng phải tuân theo một trình tự, thủ tục nhất định. Khoản 2 Điều 9
pháp lệnh bưu chính viễn thông quy định “việc kiểm soát thông tin trên
mạng viễn thông và internet việc kiểm tra, thu giữ thư bưu phẩm, bưu kiện
chuyển qua mạng bưu chính công cộng và mạng chuyển phát nhanh phải do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật.
Bộ luật tố tụng hình sự của nhà nước ta quy định việc khám người, chỗ ở,
chỗ làm việc, địa điểm, đô vật thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải
tuân theo trình tự thủ tục nhất định. Điều 140 BLTTHS quy định :”Khi cần
phải thu thập tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án thì có thể khám thư tín,
điện tín, bưu kiện, bưu phẩm :”Như vậy, xét về hành vi thì đây là những
hành vi can thiệp vào bí mật đời tư của cá nhân”. Tuy vậy, điều này là hết
sức cần thiết. Nhiều vụ án đã được phá, nhiều âm mưu phản động chống
phá chính quyền cũng như gây thiệt hại cho nhà nước, cho người dân đã
được ngăn chặn thông qua việc kiểm soát thư tín, điện tín và các hình thức
thông tin điện tử khác.
II. Giải quyết vụ việc giả định:

7



Văn bản pháp luật áp dụng

+ Nghi quyết

+ Hiến pháp 1992

TANDTC

+ BLDS 2005

hướng dẫn

+ BLTTDS 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011
+ Luật Viễn thông
+ Luật Công nghệ thông tin 2006

BLTTDS về
chứng minh và
chứng cứ

+ Luật Doanh nghiệp 2005
+ Nghị định hướng dẫn luật doanh nghiệp về đăng kí kinh doanh
Vấn đề cần làm rõ:
1. Về tính chất các thông tin của anh B mà chị A tìm cách tiếp xúc:
- Thông tin mà thám tử được thuê thu thập
- Hình ảnh mà camera ghi được
- Các cuộc điện thoại bị ghi âm
- Danh mục các cuộc điện thoại và nhắn tin (có nội dung) có phải là
bí mật đời tư hay không?

- Thư điện tử
Những thông tin đó:
- Có phải là “thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân” hay không?
- Chúng có được anh B giữ bí mật không? Có tồn tại một số lượng
hạn chế tổ chức, cá nhân được biết và phải có nghĩa vụ giữ bí mật không?
2. Về hành vi của chị A và các tổ chức, cá nhân liên quan:
- Mục đích của chị A tiếp cận thông tin của anh A là để làm gì?
- Pháp luật có qui định về việc thu thập thông tin trong các trường
hợp tương tự như trường hợp này như thế nào? Chị A có tuân thủ hay
không?
=> Hành vi của chị A và các tổ chức liên quan có phải là hành vi
xâm phạm quyền nhân thân của anh B hay không?
3. Anh A có thể làm gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình?
Cụ thể:
8


1.

Về tính chất các thông tin của anh B mà chị A tìm cách tiếp xúc:
Những thông tin của anh B mà chị A tìm cách tiếp xúc gồm có:
- Thông tin mà thám tử được thuê thu thập: Trong những thông tin

này, sẽ có những thông tin thuộc phạm vi bí mật đời tư, cũng có những
thông tin lại không thuộc phạm vi đó. Giả sử anh A làm việc tại cơ quan
Nhà nước và thám tử báo cáo cho chị B biết về giờ giấc anh đi làm thì đây
không phải là bí mật đời tư, do nhiều cơ quan nhà nước có chung quy định
về giờ giấc làm việc và thông tin này dễ dàng được tra cứu qua các phương
tiện thông tin đại chúng. Hay như trong khi nghỉ giữa giờ anh B đi đâu, làm
gì, gặp gỡ ai, thì đó tuy là những việc thuộc về tự do cá nhân, thuộc về đời

tư của anh, nhưng cũng không phải là bí mật đời tư do không đảm bảo yếu
tố “bí mật”, do rõ ràng những việc như vậy diễn ra trước sự chứng kiến của
rất nhiều người. Nhưng nếu thám tử lại theo dõi và điều tra được mật mã
địa chỉ hòm thư điện tử, hay mật mã thẻ tín dụng của anh B thì chắc chắn đã
có hành vi xâm phạm bí mật đời tư do những thông tin này là bí mật đời tư
của anh. Cả nhà cung cấp dịch vụ cũng như ngân hàng đều có trách nhiệm
bảo mật chúng và anh A có lẽ không bao giờ công khai.
-

Hình ảnh mà Camera ghi được:
Quyền bí mật đời tư thường có mối quan hệ chặt chẽ với nhiều quyền

nhân thân khác, như quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền bất khả
xâm phạm về chỗ ở, … Hành vi xâm phạm quyền của cá nhân đối với hình
ảnh thường cũng đồng thời xâm phạm đến quyền bí mật đời tư của cá nhân
đó. Những thông tin mà camera ghi lại được gồm có những hành động mà
anh B tiến hành trong xe ô tô riêng của mình. Những hành vi mà anh B tiến
hành trong xe riêng của mình, trừ các hoạt động mà tất cả những người lái
xe đều làm khi tham gia giao thông, thì việc anh vào xe trong giờ nghỉ trưa,
nghe bài hát nào, xem bộ phim nào để giải trí, hay việc gặp gỡ bạn bè cũ,…
thì đó là những hành vi thuộc về đời tư của anh. Nếu anh B khẳng định
những việc đời tư này được anh giữ bí mật, ví dụ thực hiện chúng khi đã lái
xe ra chỗ vắng, hay lúc đêm xuống,… thì chúng đã đủ điều kiện trở thành bí
9


mật đời tư.
- Các cuộc điện thoại bị ghi âm: Cũng có thể coi là xâm phạm bí mật
đời tư. Ví dụ như: các cuộc họp nội bộ của anh A với công ty hoặc với đối
tác trong công việc hoặc các cuộc họp kín,... Việc ghi âm lại các cuộc thoại

đó mà khi công bố sẽ ảnh hưởng tới lợi ích của công ty của anh…
- Danh mục các cuộc điện thoại và nhắn tin (có nội dung) và thư điện
tử có phải là bí mật đời tư hay không?. Căn cứ khoản 3 Điều 38 BLDS, có
thể nhận thấy ngay thư điện tử và các cuộc điện thoại bị ghi âm chính là đối
tượng của quyền bí mật đời tư. Danh mục các cuộc điện thoại và tin nhắn
có nội dung do nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động cung cấp.Việc anh
B sử dụng điện thoại di động của mình để thực hiện liên lạc, bất kể là với
ai, lúc nào, ở đâu đều là vấn đề thuộc về sự riêng tư của anh, anh được
quyền tự do thực hiện và không ai được ngăn cản. Thêm vào đó, căn cứ vào
Khoản 4 Điều 6 Luật Viễn thông:“Doanh nghiệp viễn thông không được
tiết lộ thông tin riêng liên quan đến người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao
gồm tên, địa chỉ, số máy gọi, số máy được gọi, vị trí máy gọi, vị trí máy
được gọi, thời gian gọi và thông tin riêng khác mà người sử dụng đã cung
cấp khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp…”
Ở đây, do không tồn tại yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, anh B không biểu hiện sự đồng ý cung cấp thông tin, vì thế các
thông tin đời tư này đã thỏa mãn điều kiện thứ hai của một bí mật đời tư, đó
là chúng được giữ bí mật. Nghĩa vụ bảo mật đã hình thành giữa anh A với
nhà cung cấp trên cơ sở của cả quy định pháp luật và hợp đồng dịch vụ giữa
hai bên.
2. Về hành vi của chị A và các tổ chức, cá nhân liên quan:
Mục đích của chị A tiếp cận thông tin của anh B là để nhằm thu thập chứng
cứ nhằm chứng minh anh B ngoại tình và để Tòa án chấp nhận đề nghị đơn
phương ly hôn của mình. Theo quy định tại Điều 81 BLTTDS, thì những tài
liệu mà chị A giao nộp cho Tòa án vẫn có thể được coi là chứng cứ, do
chúng đúng là “những sự việc có thật…”. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng
10


hành vi của chị A và các tổ chức, cá nhân liên quan là hành vi thu thập,

công cấp các thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân nhưng không được sự
đồng ý của cá nhân đó. Pháp luật TTDS1 hiện nay chưa có quy định về cách
thức thu thập chứng cứ trong trường hợp của đương sự mà chỉ quy định
trình tự thủ tục thu thập chứng cứ đối với những trường hợp Tòa án có thẩm
quyền thu thập chứng cứ, vì thế những thông tin mà chị B đưa ra vẫn có thể
được coi là chứng cứ nhưng hành vi của chị xâm phạm quyền bí mật đời tư
của anh B thì vẫn tồn tại. Quyền bí mật đời tư có thể bị hạn chế trong
trường hợp có quyết định đúng pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Tuy nhiên căn cứ theo các tình tiêt sự việc và các Điều 85 và 94 của
BLTTDS, thì thấy rằng ở đây chị B đã tự mình thu thập chứng cứ và việc
thu thập chứng cứ đó đã xâm phạm quyền bí mật đời tư của anh A.
Qua những phân tích trên thì các hành vi đó đều có dấu hiệu xâm
phạm bí mật đời tư. Nhưng do các quy định của pháp luật hiện hành về bí
mật đời tư chưa cụ thể cho nên việc vận dụng vào từng trường hợp cụ thể
gây rất nhiều khó khăn trong việc xác định hành vi vi phạm để có thể thực
hiện các biện pháp bảo vệ theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp chính đáng của mình
3. Anh A có thể làm gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình?
Theo quy định tại Điều 25 BLDS thì anh A thực hiện các quyền bảo
vệ như: Biện pháp tự bảo vệ; Biện pháp dân sự; Biện pháp hành chính; Biện
pháp hình sự. Tùy từng mức độ vi phạm mà anh có thể sử dụng để xử lý các
hành vi xâm phạm bí mật đời tư một cách tốt nhất.
=> Từ ví dụ trên và qua quá trình nghiên cứu pháp luật về quyền bí
mật đời tư em đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện và năng cao hiệu
quả xây pháp luật trong việc bảo vệ “quyền bí mật đời tư”:
Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định của BLDS về quyền bí mật
đời tư như: đưa ra khái niệm quyền bí mật đời tư để mọi người dễ dàng hiểu
được thế nào là bí mật đời tư; cần có những văn bản hướng dẫn những khái
1


Pháp luật tố tụng dân sự

11


quát chung các đặc điểm liên quan đến thông tin được coi là bí mật đời tư.
Sau đó liệt kê các thông tin được coi là bí mật đời tư.; trên cơ sở quy định
về bí mật đời tư, các thông tin được coi là bí mật đời tư thì cần xác định rõ
các hành vi bị coi là xâm phạm bí mật đời tư. Ngoài ra cần xác đinh giới
hạn của bí mật đời tư để xác định những hành vi không được coi là xâm
phạm bí mật đời tư;...
Thứ hai: Cần hoàn thiện và sửa đổi các quy định trong các văn bản
luật chuyên ngành có liên quan đến nội dung quyền bí mật đời tư, sau đó
cần tập hợp, sửa đổi, bổ sung và ban hành Luật về quyền riêng tư và Luật
về quyền tiếp cận thông tin, trong thời đại xã hội đang phát triển như hiện
nay là một yêu cầu tất yếu.
Thứ ba, cần tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật liên quan
đến bí mật đời tư của cá nhân để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống và
nâng cao ý thức của người dân…
KẾT LUẬN
Quyền bí mật đời tư là một quyền nhân thân rất quan trọng gắn liền với cá
nhân nên việc bảo vệ quyền này là hết sức quan trọng. Pháp luật Việt Nam
đã có nhiều quy định về việc này ngoài BLDS thì còn có các luật chuyên
ngành khác, đó là cơ sở pháp lý để bảo vệ có hiệu quả quyền bí mật đời tư
của mỗi người. Tuy nhiên, các hành vi bị coi là xâm phạm bí mật đời tư vẫn
còn chung chung, chưa cụ thể. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu một cách
cụ thể để nhằm bảo vệ một cách tối đa quyền đời tư của mỗi cá nhân rong
đời sống xã hội.

12



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I
và II, Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.
2. Bùi Đăng Hiếu, “Phân loại quyền nhân thân”, Tạp chí luật học, số
7/2009.
3. Lê Đình Nghị, “Bàn về khái niệm bí mật đời tư”, Tạp chí nghề luật,
số 4/2007.
4. Phùng Trung Tập, “Bí mật đời tư bất khả xâm phạm”, Tạp chí luật
học, số 6/1996.

13



×