Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến đánh giá tác môi trường của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.31 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) là công cụ pháp lý và kỹ thuật quan trọng
để xác định, phân tích, dự báo tác động môi trường của các dự án, các kế hoạch,
quy hoạch phát triển; cung cấp luận cứ khoa học cho chính quyền, cơ quan quản lý
chuyên ngành và doanh nghiệp cân nhắc trong quá trình ra quyết định đầu tư. Tuy
nhiên, hoạt động ĐTM ở Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều bất cập và yếu kém về cả chất
lượng cũng như việc tuân thủ quy trình ĐTM như pháp luật đã quy định. Trước
thực trạng này, Việt Nam cần có những đánh giá và nhận thức lại về khiá cạnh
pháp lý cũng như hiện trạng thực hiện của hoạt động ĐTM. Những cân nhắc này,
nếu được xem xét kỹ lưỡng và thấu đáo, sẽ giúp cải thiện các quy định pháp luật
cũng như cải thiện hiệu quả của ĐTM ở Việt Nam.

NỘI DUNG
I.Các vấn đề lý luận về đánh giá tác động môi trường.
1. Quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến đánh giá tác môi
trường của Việt Nam
Ở Việt Nam, ĐTM được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1984 do Chương trình
Tài nguyên và Môi trường giới thiệu qua tài liệu "Giới thiệu các phương pháp đánh
giá tác động môi trường" của Chương trình.
Các chế tài về ĐTM lần đầu tiên được quy định tại Điều 17 và 18 của Luật bảo vệ
môi trường ban hành ngày 27/12/1993, và tiếp đó là Nghị định 175/CP của Chính
phủ về hướng dẫn thi hành Luật BVMT 1993.

1


Luật BVMT sửa đổi ban hành ngày 29/11/2005 đã dành riêng một chương quy
định về công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và
cam kết bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, các yêu cầu về đánh giá tác động môi
trường đã được cụ thể hóa trong Nghị định số 80/2006/NĐ-CP ngày 9.8.2006 của
Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật


BVMT; Thông tư hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường và cam kết bảo vệ môi trường... Và mới đây nhất, tháng 4.2011, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 29/2011/NĐ-CP quy định về đánh giá môi trường
chiến lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường. Nghị định
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5.6.2011 và thay thế một số quy định tại Nghị định
số 80/2006/NĐ-CP và một số quy định của Nghị định số 21/2008/NĐ-CP về việc
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BVMT...
2. Khái niệm đánh giá tác động môi trường.
Luật bảo vệ môi trường 2005 định nghĩa: Đánh giá tác động môi trường là việc
phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra
các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai các dự án đó.
Định nghĩa của Luật bảo vệ môi trường 2005 đã cân nhắc đến những đặc tính pháp
lý cơ bản của những tương ứng được sử dụng rộng rãi trên thế giới.Chẳng hạn theo
chương trình môi trường liên hợp quốc, Đánh giá tác động môi trường “là quá trình
nghiên cứu nhằm dự báo các hậu quả môi trường của một dự án phát triển quan
trọng. ĐTM xem xét việc thực hiện đề án sẽ gây ra những vấn đề gì với đời sống
của con người tại khu vực dự án, tới kết của chính dự án và của các hoạt động khác
tại vùng đó. Sau dự báo của ĐTM phải xác định các biện pháp làm giảm đến mức
tối thiểu các tác động tiêu cực, làm cho dự án thích hợp với môi trường của nó”
(ROAP. UNEP.1998).

2


3. Vai trò của đánh giá tác động môi trường.
- Đánh giá tác động môi trường là công cụ bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững. Ngày nay, ĐTM đã trở thành một lĩnh vực của khoa học môi trường và là
một phần không thể thiếu khi xây dựng, xét duyệt và thẩm định các dự án phát
triển. Thông qua việc bắt buộc các dự án/ hoạt động phát triển phải lập báo cáo
ĐTM và trình cho cơ quan quản lý môi trường có thẩm quyền thẩm định và phê

duyệt báo cáo, Nhà nước sẽ xác định được những dự án nào là tốt và không có tác
động tiêu cực đáng kể tới môi trường và những dự án nào có nhiều tác động tiêu
cực được coi là đáng kể tới môi trường.
- Đánh giá tác động môi trường là công cụ để quy họach và quản lý các hoạt động
phát triển kinh tế xã hội.Ngoài vai trò là công cụ quan trọng để bảo vệ môi trường
và phát triển bền vững, việc thực hiện đánh giá tác động môi trường còn là công cụ
để quy hoạch và quản lý các hoạt động phát triển như là:
+Về quy hoạch phát triển:
Giữa môi trường và phát triển luôn có mối quan hệ rất chặt chẽ và giữa chúng
cũng tồn tại một mâu thuẫn, đó là phát triển càng nhanh thì càng có nhiều tác động
tiêu cực đến môi trường và càng có xu thế làm suy giảm chất lượng môi trường
sống. Việc tăng trưởng kinh tế nếu không tính tới yêu cầu bảo vệ môi trường cũng
như việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên thì đến một thời điểm nào đó chất
lượng môi trường sẽ bị suy giảm nghiêm trọng và sẽ cản trở phát triển, tác động
xấu tới kinh tế xã hội của vùng.
+Về quản lý các hoạt động phát triển:
Ngoài xác định, dự báo các tác động tiềm tàng của dự án, báo cáo ĐTM còn đưa
ra chương trình/ kế hoạch giám sát môi trường để thực hiện trong quá trình vận

3


hành dự án nhằm quan trắc số liệu các thông số môi trường và theo dõi giám sát
các tác động môi trường thực của dự án xảy ra như thế nào để khi cần thiết có
những biện pháp quản lý điều chỉnh. Chính vì vậy, hoạt động phát triển được quản
lý chặt chẽ ngay từ khi đề xuất và trong suốt cả quá trình thực hiện dự án.

II.Thực trạng đánh giá tác động môi trường hiện nay ở nước ta.
1. Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức.
Như chúng ta biết bản chất của công tác ĐTM là tìm hiểu, dự báo các tác

động môi trường và tác động xã hội tiêu cực, đề xuất giải pháp ngăn ngừa, hạn chế
các tác động này khi dự án được thực hiện, đảm bảo dự án không chỉ mang lại lợi
ích kinh tế mà còn thúc đẩy phát triển an sinh xã hội và bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, một bộ phận nhỏ các nhà quản lý và chủ đầu tư chưa nhận thức được ý
nghĩa của công tác này. Họ thường coi yêu cầu lập báo cáo ĐTM như là một thủ
tục trong quá trình chuẩn bị để thực hiện dự án (vé qua cửa). Nhiều người còn “đổ
lỗi” cho ĐTM như một lực cản của hoạt động phát triển sản xuất và đầu tư. Vì vậy,
khi được yêu cầu lập báo cáo ĐTM chỉ làm lấy lệ, chú trọng làm cho đủ thủ tục để
dự án được thông qua chứ không quan tâm đến những tác động và nguy cơ môi
trường thực sự.
Ví dụ: Phong trào cấp phép ồ ạt cho các dự án xây dựng sân golf ở Việt Nam
trong những năm qua là một minh chứng điển hình. Bên cạnh đó còn nhiều ví dụ
khác không kém phần nóng như; việc cấp phép xây dựng các tòa nhà Chung cư
hay các dự án khu nghỉ dưỡng, các dự án công nghiêp, khu chế xuất cũng có nhiều
dự án lâm vào cảnh tương tự, để xẩy ra tình trạng không khả thi. Hiện nay rất nhiều
dự án giải tỏa mặt bằng “đất bỏ không” còn người dân thì thiếu đất để sản xuất.

4


Nếu như các nhà hoạch định chính sách không quá đam mê xây dựng các dự án
phát triển theo kiểu như vậy thì không thể có tình trạng diễn ra mâu thuẫn như hiện
nay. Nếu các dự án này tuân thủ thực hiện ĐTM nghiêm túc và chất lượng thì sẽ
không có những xung đột xảy ra giữa các chủ dự án và cộng đồng địa phương do
tranh chấp quyền sở hữu, tiếp cận, sử dụng tài nguyên đất, rừng và nguồn nước…
- Bên cạnh đó, hiện tượng các chuyên gia tư vấn thường được “khoán” làm
một báo cáo ĐTM cho “phù hợp với yêu cầu của pháp luật” là rất phổ biến ở các
địa phương. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình và yêu cầu chất lượng báo cáo ĐTM
thường bị làm ngơ hoặc xem nhẹ. Các phương án giảm thiểu tác động thì hoặc là
quá sơ sài, hoặc thiếu tính khả thi, hoặc chỉ là lời hứa hẹn không có cơ sở”.

Theo Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển (OECD), Ông Phạm Quang Tú đã
phát biểu về vấn đề ĐTM ở Việt Nam tại 1 cuộc hội thảo do trung tâm Panature tổ
chức "khía cạnh xã hội của báo cáo ĐTM hiện nay rất nhạt nhòa” và Ông đã dẫn
chứng bằng các báo cáo ĐTM của dự án xây dựng nhà máy thủy điện Hương Sơn
và dự án khai thác mỏ ti-tan ở tỉnh Hà Tĩnh. Nội dung các báo cáo ĐTM cho thấy
phần đánh giá tác động xã hội thường quá ngắn gọn, rất chung chung, thiếu cơ sở
khoa học, và ít thuyết phục. Ví dụ, phần đánh giá tác động xã hội trong báo cáo
ĐTM cuả dự án ti-tan Hà Tĩnh chỉ có ½ trang; dự án thủy điện Hương Sơn có 01
trang. Các đánh giá được trình bày chung chung, không có chiều sâu, và dường
như chỉ được “xào xáo” lại từ các báo cáo ĐTM khác". Báo cáo ĐTM của dự án
thủy điện Lai Châu - một trong ba công trình thuỷ điện lớn trên sông Đà với công
suất thiết kế là 1.200MW, toàn bộ nội dung dày tới 200 trang, nhưng phần đánh giá
tác động kinh tế - xã hội chỉ cũng chiếm 2 trang (1% toàn bộ nội dung). Rõ ràng,
yêu cầu đánh giá tác động xã hội đã không được đề cao trong yêu cầu lập báo cáo
ĐTM.

5


Hay một chia sẽ khác của GS.TS. Trần Hiếu Nhuệ, một chuyên gia trong
lĩnh vực ĐTM của Đại học Xây dựng Hà Nội cũng chia sẻ nhận xét trên khi đánh
giá khoảng 20% số báo cáo ĐTM ông tham gia thẩm định (cho đến năm 2003)
được copy từ các bản báo cáo khác. Thậm chí nhiều trường hợp chủ đầu tư còn
“quên” thay đổi địa danh cho phù hợp với dự án mới. Bên cạnh đó, có những báo
cáo đã cố tình làm ngơ hoặc đánh giá thấp giá trị, vai trò của môi trường và hệ sinh
thái ở nơi dự án đề xuất can thiệp. Ví dụ, VQG Tam Đảo đã được quy hoạch và
khẳng định là "khu rừng đa dạng sinh học cao với rừng lùn thường xanh điển
hình". Tuy nhiên, báo cáo hiện trạng môi trường phục vụ cho dự án Tam Đảo II ở
vùng lõi VQG đã đánh giá khu vực là "nghèo đa dạng sinh học, không có giá trị
bảo tồn".

Với những dẫn chứng khá sát thực của các nhà nghiên cứa như ở trên cũng
có thể cho ta nhận thấy được rằng ĐTM ở một số dự án vẫn mang nặng tính hình
thức chưa có những đánh giá sát thực.
2. Sự quan tâm và kinh phí thực hiện còn hạn chế.
Một thực tế hiện nay thì nguồn kinh phí cho việc thực hiện ĐTM theo quy
định chỉ chiếm một tỷ lệ phần trăm rất nhỏ. Bởi vậy để có một báo cáo ĐTM có giá
trị là một thách thức đối với việc thực hiện các công việc phục vụ cho báo cáo, bên
cạnh đó cũng thiếu sự quan tâm chỉ đạo và việc phân định vị trí vai trò chức năng
thẩm định của các dự án còn nhiều vấn đề chồng chéo. Mặc dù chúng ta đã có các
thông tư, nghị định hướng dẫn thực hiện nhưng thực tế các công việc được giao
một số cơ quan chưa thực sự quan tâm hoăc quan tâm nhưng chưa thực sự am hiểu
về vai trò ý nghĩa của việc đánh giá tác động môi trường.
Chính từ những vấn đề trên đã nảy sinh ra việc thực hiện các báo cáo đánh
giá tác động ĐTM chưa thực sự có chất lượng ở một số dự án.
6


3. Công tác giám sát sau đánh giá tác động môi trường và các văn bản luật liên
quan.
Một thực tế thì dù có các sản phẩm ĐTM có giá trị và ý nghĩa nhưng nếu
chúng ta thưc hiện công tác đánh giá không tốt thì cũng chỉ là “Công dã tràng” bởi
tâm lý của các chủ đầu tư vẫn còn coi nặng hiệu quả của kinh doanh theo hướng có
lợi nhất cho họ. Bỏ mặc quyền lợi chung của toàn xã hội.
Ví dụ điểm hình cho sự việc này là VEDAN trắng trợn vi phạm Luật bảo vệ
môi trường- xả trái phép nước thải chưa qua xử lý xuống sông Thị Vải kéo dài liên
tục trong 14 năm. Đây là vụ việc làm xôn xao dư luận cả nước, với thời gian 14
năm xả thải có thể nói đã đầu độc dòng sông Thị Vải gây hai cho bao nhiêu người
dân đang sinh sống ở hai bên sông, triệt hạ các hệ sinh thái, và nhiều loài sinh vật
sống trong khu vực này. Vụ VEDAN vi phạm này được kéo dài với thời gian 14
năm. Vậy các đơn vị chức năng giám sát ở đây làm gì trong thời gian nay ? Làm

ngơ hay không phát hiện ra?
Cũng có thể thấy một kẻ hở khác nữa là ở vụ này là sau khi vụ việc bị lực
lượng Cảnh sát Môi trường phát hiện và điều tra thì có một số tội danh không xử
phạt được do đã hết thời hạn xử phạt hành chính. Các tội danh này đều liên quan
đến báo cáo ĐTM bổ sung và cam kết bảo vệ môi trường. Các tội danh trong việc
vi phạm ĐTM cũng chưa có các khung hình phạt thỏa đáng để các doanh nghiệp,
các chủ đầu tư phải có các biệt phát thực hiện. Chủ yếu là xử phạt hành chính, hoặc
phạt tiền ở mức nhẹ. Nên điều này các chủ doanh nghiệp có thể phớt lờ đi, sẵn
sàng chịu phạt để đạt lợi nhuận cho họ một cách cao nhất.
Qua ví dụ điểm hình trên ta có thể thấy rằng công tác giám sát cũng như hệ
thống luật xử phạt tôi danh phá hủy môi trường ở nước ta chưa thực sự sát thực.

7


4. Hạn chế về vai trò của cộng đồng dân cư trong các đánh giá tác động môi
trường.
Vấn đề lấy ý kiến của quần chúng nhân dân khu vực dự án và các khu vực có liên
quan được nêu rõ trong chương 3 luật bảo vệ môi trường. Song vấn đề này thực tế
chưa làm được tốt. Minh chứng cho điều này là ngày càng nhiều dự án đã được
Đánh giá tác động phê duyệt, cho phép triển khai dự án nhưng khi triển khai các
dự án thì xuất hiện nhiều ý kiến của cộng đồng dân cư. Họ cho rằng chính họ chưa
được hỏi ý kiến hoặc đã hỏi ý kiến nhưng ý kiến của họ không được đưa vào trong
báo cáo đánh giá tác động môi trường. Chính vì vậy hiện nay vấn đề khiếu kiện về
ô nhiễm môi trường của các Cộng đồng dân cư về hoạt động sản xuất kinh doanh
của các nhà máy, khu công nghiệp ngày càng nhiều, đây là một thực tế đáng buồn
mà chúng ta có thể bắt gặp ở nhiều khu công nghiệp – nhà máy trong cả nước.
Có những dự án mặc dù đã được cộng đồng các nhà khoa học, cũng như
cộng đồng địa phương phản ánh là nguy hại đến môi trường. Song vẫn được triển
khai. Ví dụ như hiện nay vụ khai thác Boxit ở Tây Nguyên có thể nói là điểm hình.


III. Một số kiến nghị và đề xuất.
Với 19 năm đi qua công tác đánh giá tác động môi trường ở Việt Nam chúng
ta không thể phủ nhận công lao to lớn của các nhà khoa học, nhà quan lý về lĩnh
vực môi trường đã dày công và phải nói là đã thu được nhiều kết quả đáng ghi
nhận. Nếu như chúng ta chỉ nhìn vào nhược điểm tồn tại mà kết luận vấn đề là
không thực sự công bằng. Bởi nhìn ra lịch sử phát triển của thế giới về bảo vệ môi
trường và vấn đề đánh giá tác động môi trường, thì Việt Nam chúng ta cũng là một
quốc gia nhận được sự quan tâm lớn của đảng và nhà nước.

8


Với một đất nước có nền kinh tế đang ở giai đoạn đang phát triển, chịu ảnh
hưởng của nặng nề của các cuộc chiến tranh nhưng chúng ta đã có những định
hướng nhằm không phát triển kinh tế bằng mọi giá, đó chính là thành công lớn
nhất mà Việt Nam chúng ta đã đạt được. Tuy còn có một số dự án thực hiện còn
chưa được như chúng ta mong đợi, song chúng ta không thể phủ nhận những thành
quả này.
- Về nội dung đánh giá tác động môi trường
Cần tập trung hoàn thiện các quy trình áp dụng của phương pháp đánh giá tác
động ĐTM không chỉ tập trung cho các dự án phát triển, tăng cường hơn nữa việc
áp dụng các vào các kế hoạch phát triển quy mô quốc gia, vùng ngành. Các vấn đề
tồn tại trong các đánh giá tác động ĐTM và cam kết bảo vệ môi trường cần phải
khắc phục, hoàn thiện hơn nữa các công cụ xử phạt nhằm nâng cao hiệu lực của
pháp luật.
- Về công tác thực hiện triển khai thực hiện
Cần có chính sách phù hợp để đảm bảo sự tham gia một cách hữu ích và đầy đủ
của cộng đồng vào công tác đánh giá tác động môi trường.
Lồng ghép các kết quả của đánh giá tác động ĐTM vào nghiên cứu khả thi và ra

quyết định.
Xây dựng các chương trình tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ thực hiện,
đặc biệt là ở cấp cơ sở. Để đảm bảo việc thực hiện ĐTM có hiệu quả cả khi đánh
giá và khâu giám sát.
Có chế tài chính phù hợp nhằm đảm bảo việc thực hiện ĐTM có thể đảm bảo về
mặt khoa học mang đầy đủ ý nghĩa.

9


KẾT BÀI
Đánh giá tác động môi trường là công cụ pháp lý và kỹ thuật quan trọng để xem
xét, dự báo tác động môi trường của các dự án, hoạt động phát triển. Tuy nhiên,
việc đánh giá tác động môi trường ở nước ta chưa thực sự được chú trọng, vẫn còn
mang tính hình thức, làm lấy lệ… dẫn đến những hệ quả và hệ lụy vô cùng lớn...
Để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn, trong thời gian tới cần tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện và phát triển các hoạt động ĐMC, ĐTM ở Việt Nam. Bên
cạnh đó cũng cần sự vào cuộc tích cực hơn nữa của các bộ, ngành, chính quyền các
địa phương trong công tác thẩm định báo cáo, trong hoạt động hậu kiểm, nâng cao
vai trò quản lý trong công tác BVMT, để các dự án đầu tư được triển khai theo
đúng quy hoạch phát triển của từng ngành, từng địa phương, góp phần bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững...

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Văn Khoa, Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Tiến Dũng, 2006 - Chiến lược và
chính sách môi trường – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

2.Trần Văn Ý và Cộng sự, 2006. Đánh giá tác động môi trường các dự án phát
triển – NXB Thống Kê.
3.Lê Bá Huy (chủ biên), 2007 – Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - NXB
Giáo dục.
4.Luật bảo vệ môi trường 2005.

11


MỤC LỤC
A.Mở đầu
B.Nội dung
I.Các vấn đề lý luận về đánh giá tác động môi trường
1. Quá trình hình thành hệ thống phát luật liên quan đến đánh giá tác môi trường
của Việt Nam
2. Khái niệm đánh giá tác động môi trường
3. Vai trò của đánh giá tác động môi trường.
II.Thực trạng đánh giá tác động môi trường hiện nay ở nước ta.
1.Đánh giá tác động môi trường hiện nay còn mang tính hình thức
2. Sự quan tâm và kinh phí thực hiện còn hạn chế
3. Công tác giám sát sau đánh giá tác động môi trường và các văn bản luật liên
quan.
4. Hạn chế về vai trò của cộng đồng dân cư trong các đánh giá tác động môi
trường
III. Một số kiến nghị và đề xuất
C.Kết luận

12




×