Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Phân tích hiệp định chống bán phá giá (ADP) với ý nghĩa là luật chơi của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.99 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng tất yếu trong sự
phát triển của thương mại quốc tế hiện nay. Mỗi quốc gia tham gia vào sân chơi
toàn cầu đều có được vô số cơ hội to lớn để phát triển, tuy nhiên cũng gặp
những thách thức không nhỏ bởi tính phức tạp và sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế diễn ra suôn sẻ, tự do,
công bằng và có thể dự đoán được, Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã ra
đời.
Sự ra đời của WTO cùng một loạt các hiệp định (GATT, GATS, TRIPS) và
các văn bản có liên quan là một nền tảng pháp lý quan trọng để các giao dịch
thương mại quốc tế được thực hiện dễ dàng. Trong số các văn bản pháp lý ấy
phải kể đến hiệp định chống bán phá giá (Agreement on Antidumping Practices
– ADP) – một văn bản có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết tranh chấp về việc
bán phá giá, một hành động phổ biến xảy ra trong thương mại quốc tế. Chính vì
tầm quan trọng của việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến bán phá giá và
chống bán phá giá, nhóm chúng tôi xin chọn đề tài: “Phân tích Hiệp định
chống bán phá giá (ADP) với ý nghĩa là LUẬT CHƠI của WTO”
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bài tiểu luận gồm có 3
phần chính sau:
I. Khái quát chung về bán phá giá và biện pháp chống bán phá giá trong
thương mại quốc tế
II. Hiệp định chống bán phá giá (ADP)
III. Tình hình bán phá giá trên thế giới từ khi ADP có hiệu lực đến nay

Page 1


Mặc dù đã cố gắng nhiều song bài tiểu luận của nhóm chúng tôi không
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của cô giáo cùng các bạn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
I. Khái quát chung về bán phá giá và các biện pháp bán phá giá trong
thương mại quốc tế
1.

Bán phá giá trong thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm
Theo định nghĩa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), một sản phẩm bị

coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một
nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản
phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương mại
thông thường. Như vậy về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành
vi phân biệt giá cả: đối với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng
giá xuất khẩu lại thấp hơn giá tiêu thụ nội địa.
Theo định nghĩa này, “sản phẩm tương tự” là “sản phẩm giống hệt, tức sản
phẩm có tất cả các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong
trường hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không
giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm đang
được xem xét”.
Khái niệm này khác với “bán phá giá” trong nội địa từng nước vốn thường
được hiểu là hành vi bán hàng hoá với giá thấp hơn giá thành sản xuất của từng
đơn vị sản phẩm.
1.2. Nguyên nhân
Page 2


Có nhiều nguyên nhân dẫn tới hiện tượng bán phá giá của nhà sản xuất,
xuất khẩu. Nhiều trường hợp việc bán phá giá có mục đích không lành mạnh
nhằm đạt được những lợi ích nhất định như:

- Bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh trên thị trường từ đó chiếm
thế độc quyền;
- Bán giá thấp tại thị trường nước nhập khẩu để chiếm lĩnh thị phần;
- Bán giá thấp để thu ngoại tệ mạnh trong các trường hợp mà nhu cầu ngoại
tệ của doanh nghiệp trở nên khẩn cấp hay khan hiếm ngoại tệ ...
Đôi khi việc bán phá giá là việc không mong muốn do nhà sản xuất, xuất
khẩu không thể bán được hàng, cung vượt cầu, sản xuất bị đình trệ, sản phẩm
lưu kho lâu ngày có thể bị hư hại ... nên đành bán phá giá hàng hoá để thu hồi
một phần vốn.
2.

Tác động của việc bán phá giá trong thương mại quốc tế
2.1. Đối với nước xuất khẩu
Lợi ích cho doanh nghiệp tiến hành bán phá giá:
- Bán phá giá giúp cho nhà sản xuất có điều kiện phát huy tối đa năng lực

sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và thâm nhập thị trường mới;
- Khi bán phá giá, các doanh nghiệp thực hiện bán phá giá có khả năng
đánh bại đối thủ, loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường
nước ngoài. Và tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh và mức độ phá giá, có thể trở
thành doanh nghiệp độc quyền, độc quyền nhóm, qua đó tận dụng lợi thế của
doanh nghiệp độc quyền để tăng lợi nhuận;

Page 3


Tuy nhiên, bán phá giá lại gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác tại
chính nước xuất khẩu: các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành có thể bị thiệt hại
về lợi ích kinh tế (thiệt hại thực tế hiện tại/ thiệt hại hay rủi ro tiềm ẩn) do bị các
doanh nghiệp bán phá giá chiếm lĩnh mất thị phần tại nước nhập khẩu…

Trong một số trường hợp, khi doanh nghiệp bán phá giá không kiểm soát
được thị trường nội địa tại nước mình, việc bán phá giá có thể sẽ có tác động
ngược trở lại nước xuất khẩu thể hiện qua việc nhập khẩu trở lại để bán tại chính
thị trường nước xuất khẩu.
2.2. Đối với nước nhập khẩu
Lợi ích cho người tiêu dùng tại nước nhập khẩu: người tiêu dùng có cơ hội
hưởng lợi về giá cả. Khi có hiện tượng bán phá giá, các sản phẩm bị bán phá giá
sẽ có giá rẻ hơn giá trị thực tế của nó hoặc thấp hơn giá bán tại thị trường nước
xuất khẩu. Đặc biệt khi doanh nghiệp tiến hành bán phá giá vì mục đích quảng
bá sản phẩm và chiếm lĩnh thị phần của đối thủ cạnh tranh sẽ khiến cho người
tiêu dùng tại nước xuất khẩu có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với hàng hóa nước
ngoài với giá rẻ mà chất lượng vẫn được đảm bảo. Tuy nhiên, trong dài hạn, khi
đã chiếm được thị phần đủ lớn, doanh nghiệp bán phá giá sẽ nhanh chóng nâng
giá cả lên và khi đó, người tiêu dùng tại nước nhập khẩu sẽ chịu tác động tiêu
cực của việc nâng giá đó hoặc là phải thay đổi hành vi tiêu dùng của mình sang
tiêu dùng mặt hàng khác.
Thiệt hại cho các nhà sản xuất nước nhập khẩu: một khi sản phẩm giống
hoặc tương tự nhập khẩu từ các nước khác vào thị trường nội địa nước nhập
khẩu, ngay lập tức hoặc chỉ trong một thời gian, các nhà sản xuất nội địa nước
nhập khẩu sẽ bị mất thị phần, bị ảnh hưởng tới doanh thu, thậm chí có thể bị
đánh bật ra khỏi thị trường vì không cạnh tranh nổi về giá cả…

Page 4


Ngoài ra, việc ảnh hưởng tới các nhà sản xuất ở nước nhập khẩu lại tác
động trực tiếp đến lao động, việc làm ở nước nhập khẩu… Vì vậy trong phần
lớn trường hợp, bán phá giá được hiểu với ý nghĩa tiêu cực và hầu hết các nước
đều có biện pháp đối phó với hành vi bán phá giá của các nước khác.
Biện pháp chống bán phá giá trong thương mại quốc tế


3.

Có 4 nhóm biện pháp chính được áp dụng nhằm chống lại hành vi bán phá
giá trước khi ADP ra đời là:
3.1.

Biện pháp sử dụng thuế chống bán phá giá

Để chống lại bán phá giá các quốc gia đã sử dụng các biện pháp thuế quan,
ngay từ năm 1904 thuế chống bán phá giá đã được áp dụng tại Canada.
Tại các nước phát triển khái niệm thuế chống bán phá giá không có gì xa lạ
trước thời điểm hiệp định chống bán phá giá ADP ra đời. Tuy nhiên trước khi có
ADP mức thuế được áp một cách tự do, tùy thuộc vào quan điểm chủ quan của
các quốc gia nên không tạo ra tính minh bạch và nghiêm minh, việc đánh thuế
mang nặng tính chất bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Điều này gây ra
những vấn đề nghiêm trọng hơn trong thương mại đó là trả đũa thương mại giữa
các quốc gia.
Các biện pháp chống bán phá giá trước khi có ADP thường áp dụng mức
thuế suất cao hơn nhiều lần so với mức thuế ràng buộc nên áp dụng đối với các
hàng hóa này, có thể lấy ví dụ như trường hợp của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã áp dụng
một mức thuế chống bán phá giá cao gấp 10 lần đối với Trung quốc – nước chịu
ảnh hưởng xấu nhất của các biện pháp chống bán phá giá, mức thuế chống bán
phá giá trung bình mà Trung Quốc phải chịu trong giai đoạn 1990-1995 tại EU là
38% còn tại Mỹ là 104%.
3.2.

Biện pháp tạm thời
Page 5



Là biện pháp do cơ quan có thẩm quyền áp dụng với các hàng hóa bị điều tra
nhập khẩu vào nước nhập khẩu trước khi có quyết định cuối cùng về biện pháp
chống bán phá giá nhằm hạn chế những thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra.
3.3.

Bảo đảm bằng tiền đăt cọc

Tức là bảo đảm bằng tiền đăt cọc hoặc nôp một khoản tiền tương đương với
mức thuế chống bán phá giá tạm thời được áp. Ví dụ như việc Mỹ yêu cầu các
nhà nhập khẩu tôm tại Mỹ phải nộp một khoản tiền đặt cọc khi xác đinh có hành
vi bán phá giá.
3.4.

Biện pháp cam kết về giá

Cam kết về giá là việc nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết sửa đổi mức giá bán
tăng giá lên, hoặc ngừng xuất khẩu phá giá hàng hóa; thỏa thuận này thường là tự
nguyện sau khi có kết luận sơ bộ có hành vi bán phá giá.
Việc sử dụng rộng rãi các biện pháp chống bán phá giá tăng lên từ năm 1980
và nhất là trong những năm 1990, số lượng các biện pháp chống bán phá giá được
áp dụng cũng như số lượng hàng hóa tăng lên nhanh chóng. Lý giải cho viêc tăng
lên nhanh chóng về số lượng các biện pháp chống bán phá giá phải kể đến sự thay
đổi trong cán cân thương mại giữa các quốc gia, giảm bảo hộ bằng thuế, tăng
hàng nhập khẩu, mở rộng ngành sản xuất trong nước…
II. Phân tích Hiệp định chống bán phá giá (ADP) để thấy rõ đây là luật chơi
của WTO
1.

Giới thiệu về WTO và “luật chơi” của WTO

WTO là thể chế thương mại toàn cầu lớn nhất thế giới hiện nay với 153

thành viên (năm 2010). Có thể nói WTO là một tập hợp tốt nhất và hoàn chỉnh
nhất hiện nay các quy định pháp luật trong thương mại làm nền tảng cho hoạt
động thương mại toàn cầu. WTO là hiện hữu của một nền thương mại tự do,
Page 6


minh bạch và công bằng. Nền thương mại tự do là điều kiện để tạo ra lợi ích lớn
nhất cho các quốc gia và nguyên tắc cơ bản chi phối nền thương mại tự do là
nguyên tắc lợi thế so sánh. Các loại rào cản thương mại bị loại bỏ để quá trình
cạnh tranh diễn ra tự do. Các quy luật của nền thương mại tự do được phát huy
tốt đa đặc biệt là quy luật cạnh tranh. Nguồn lực của thế giới được phân bổ và sử
dụng có hiệu quả cao nhất.
Để duy trì được nền thương mại tự do đó, cần phải có một hệ thống các
nguyên tắc làm nền tảng cho các hoạt động ổn định, lâu dài và tạo căn cứ để
buộc các quốc gia thành viên phải tuân theo. Các nguyên tắc kiến tạo thể chế
WTO gồm có nguyên tắc nước được ưu đãi nhất (MFN), đối xử quốc gia (NT),
có thể dự đoán, thương mại ngày càng tự do hơn thông qua đàm phán và dành
ưu đãi đối với các nước đang phát triển. Cùng với các nguyên tắc là một loạt
các hiệp định như Hiệp định chung về thương mại và thuế quan, Hiệp định trợ
cấp, Hiệp định chống bán phá giá, Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật và vệ
sinh, kiểm dịch động thực vật, Hiệp định về mua sắm của chính phủ... Tổng số
các Hiệp định này được lưu giữ trong 500 trang cùng với khoảng 23.000 trang
các cam kết của các nước thành viên. Đây là một khối lượng đồ sộ các quy định
pháp lý và cam kết để bảo vệ cho một nền thương mại tự do, minh bạch và công
bằng của toàn thế giới.
Quan niệm kinh doanh trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế đòi hỏi các quốc gia chú trọng đến việc tuân thủ các nguyên tắc của
WTO tức là những “người chơi” trên “sân chơi” WTO phải tuân thủ nghiêm túc

các “luật chơi” quốc tế của WTO để tránh làm tổn hại lợi ích của nhau cũng như
lợi ích của đối tác hoặc lợi ích chung của tất cả các nước thành viên trong WTO
đồng thời phải tối ưu hoá phúc lợi của cả cộng đồng.
2. Phân tích hiệp định chống bán phá giá (ADP)
2.1.
Sự ra đời của hiệp định chống bán phá giá

Page 7


Hiện tượng bán phá giá có nguồn gốc khá sớm trong thực tiễn thương
mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các
nước đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh. Một
số nước đã có những đạo luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế từ
rất sớm. Trên bình diện quan hệ thương mại đa biên, Hiệp định chung về thuế
quan và thương mại (GATT) năm 1947 là văn kiện pháp lý đầu tiên quy định về
vấn đề này (Điều VI). Năm 1967, các bên ký kết của GATT đã thỏa thuận “Hiệp
định về thực hiện điều VI của GATT”, thường được gọi là Bộ luật chống bán
phá giá. Trong vòng đàm phán Tokyo, Hiệp định này được sửa đổi, bổ sung vào
năm 1979. Cuối cùng, với kết quả của Vòng đàm phán Uruguay, vấn đề bán phá
giá và biện pháp chống bán phá giá được điều chỉnh bởi “Hiệp định về thực hiện
điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại năm 1994” (sau đây
gọi tắt là Hiệp định ADP). Là một trong những hiệp định thương mại đa biên
của WTO, Hiệp định này được xếp trong Phụ lục I A của Hiệp định Marrakesh
thành lập Tổ chức Thương mại thế giới, có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các
nước thành viên của WTO, là cơ sở pháp lý buộc các nước thành viên của WTO
phải tham gia.
2.2.

Phân tích nội dung hiệp định ADP để thấy rõ đây là luật chơi của

WTO

Trong WTO, các nguyên tắc về chống bán phá giá được quy định tại:
Điều VI Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại (GATT) (bao gồm
các nguyên tắc chung về vấn đề này);
Hiệp định về chống bán phá giá (Agreement on Antidumping Practices –
ADP) chi tiết hoá Điều VI GATT (các quy tắc, điều kiện, trình tự thủ tục kiện –
điều tra và áp dụng biện pháp chống bán phá giá cụ thể)

Page 8


Mỗi nước lại có quy định riêng về vấn đề chống bán phá giá (xây dựng trên
cơ sở các nguyên tắc chung liên quan của WTO). Các vụ kiện chống bán phá giá
và việc áp thuế chống bán phá giá thực tế ở các nước tuân thủ các quy định nội
địa này. Do đó, ADP cũng là một luật chơi mà các quốc gia khi gia nhập WTO
cần phải nắm rõ và tuân thủ để chơi cho đúng luật cũng như tận dụng được
những luật chơi đó sao cho có lợi cho mình nhất.
a) Các nhóm nội dung chính của Hiệp định chống bán phá giá
- Nhóm các quy định về điều kiện áp thuế (cách thức xác định biên phá
giá, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại, cách thức
xác định mức thuế và phương thức áp thuế…)
- Nhóm các quy định về thủ tục điều tra (điều kiện nộp đơn kiện, các
bước điều tra, thời hạn điều tra, quyền tố tụng của các bên tham gia vụ kiện,
biện pháp tạm thời…)
b) Một số quy định cụ thể
Cách tính biên độ phá giá
Biên độ phá giá được tính toán theo công thức:
Biên độ phá giá = (Giá Thông thường – Giá Xuất khẩu)/Giá Xuất khẩu
Trong đó:

- Giá Thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường nước
xuất khẩu (hoặc giá bán của sản phẩm tương tự

1 Sản phẩm tương tự
Sản phẩm tương tự với sản phẩm bị điều tra là:
Page 9

1

từ nước xuất khẩu sang một


nước thứ ba; hoặc giá xây dựng từ tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí
quản lý, bán hàng và khoản lợi nhuận hợp lý – WTO có quy định cụ thể các điều
kiện để áp dụng từng phương pháp này);
- Giá xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà xuất khẩu nước ngoài với
nhà nhập khẩu (hoặc giá bán cho người mua độc lập đầu tiên).
Cách xác định yếu tố “thiệt hại”
Việc xác định “thiệt hại” là một bước không thể thiếu trong một vụ điều tra
chống bán phá giá và chỉ khi kết luận điều tra khẳng định có thiệt hại đáng kể
cho ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu mới có thể xem
xét việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá.
Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới 02 dạng: thiệt hại thực tế,
hoặc nguy cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);
Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức đáng kể;
Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân tích tất
cả các yếu tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa (ví dụ tỷ lệ
và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu, thay đổi về
doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)
Điều kiện để tiến hành kiện bán phá giá

Theo quy định của WTO, nước nhập khẩu không được tiến hành điều tra
(và không được áp thuế đối kháng) nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển

Sản phẩm giống hệt (có tất cả các đặc tính giống sản phẩm đang bị điều tra);
Sản phẩm gần giống(có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm đang bị điều tra), trong
trường hợp không có sản phẩm giống hệt.
Page 10


và có lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan ít hơn 3% tổng nhập khẩu hàng hoá
tương tự vào nước nhập khẩu. Tuy nhiên, quy định này sẽ không được áp dụng
nếu tổng lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan từ tất cả các nước xuất khẩu có
hoàn cảnh tương tự (cũng là nước đang phát triển có lượng nhập khẩu thấp hơn
3%) chiếm trên 7% tổng lượng nhập khẩu hàng hoá tương tự vào nước nhập
khẩu.

Xác định lượng nhập khẩu “không đáng kể” (trong vụ kiện chống bán phá
giá) như thế nào?
Giả sử Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ và Campuchia (là các nước đang phát
triển) cùng với nhiều nước khác cùng nhập khẩu một mặt hàng X vào nước Y.
Trong đó:
Hàng Trung Quốc chiếm 10% tổng lượng nhập khẩu hàng X vào Y;
Các nước Việt Nam, Ấn Độ, Campuchia mỗi nước chiếm 2,5% tổng lượng nhập
khẩu hàng X vào Y;
82,5% tổng lượng nhập khẩu hàng X vào Y đến từ các nước khác.
Nếu ngành sản xuất mặt hàng X của nước Y định kiện chống bán phá giá mặt
hàng X chỉ của Việt Nam nhập khẩu vào Y thì đơn kiện sẽ bị bác hoặc nếu vụ kiện
đã khởi xướng thì cũng sẽ bị đình chỉ do Việt Nam là nước đang phát triển và có
lượng nhập khẩu ít hơn 3% tổng nhập khẩu hàng X vào Y.
Nếu vụ kiện chống lại Việt Nam và Trung Quốc thì cũng theo tiêu chí này, vụ

việc có thể sẽ tiếp tục với hàng Trung Quốc nhưng phải chấm dứt với hàng Việt
Nam.

Page 11


Tuy nhiên nếu vụ kiện tiến hành chống lại cả Việt Nam, Campuchia, Ấn Độ và
Trung Quốc thì vụ kiện sẽ được tiến hành bình thường với tất cả 4 nước này vì tổng
lượng nhập khẩu hàng X vào nước Y từ 3 nước Việt Nam, Ấn Độ, Campuchia (nước
đang phát triển có lượng nhập trong tổng nhập hàng X vào Y dưới 3%) là 7,5% (cao
hơn mức 7% theo quy định).
Quy định về chủ thể có quyền đi kiện khi có hiện tượng bán phá giá
Một vụ kiện chống bán phá giá chỉ có thể được tiến hành nếu nó được bắt
đầu bởi các chủ thể có quyền khởi kiệnlà:
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu (hoặc đại diện của
ngành); hoặc
Cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu ;
Hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá trên thực tế đều được khởi xướng từ
đơn kiện của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu.
Quy định về đơn kiện
Để được xem xét thì đơn kiện phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện có sản lượng sản phẩm tương tự chiếm ít
nhất 50% tổng sản lượng sản xuất ra bởi tất cả các nhà sản xuất đã bày tỏ ý kiến
ủng hộ hoặc phản đối đơn kiện; và
Các nhà sản xuất ủng hộ đơn kiện phải có sản lượng sản phẩm tương tự
chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng sản phẩm tương tự của toàn bộ ngành sản xuất
trong nước.

Page 12



Ví dụ về điều kiện khởi kiện của ngành sản xuất nội địa nước xuất khẩu
Giả sử ngành sản xuất mặt hàng A của nước B muốn kiện các nhà xuất khẩu
Việt Nam vì đã bán phá giá mặt hàng A vào nước B.
Nếu ngành sản xuất mặt hàng A của nước B có tổng cộng 5 nhà sản xuất
(NSX), trong đó:
NSX 1 sản xuất ra 9% tổng sản lượng nội địa A của nước B
NSX 2 sản xuất ra 5% tổng sản lượng nội địa A của nước B
NSX 3 và 4 sản xuất ra 15% tổng sản lượng nội địa A của nước B
NSX 5 sản xuất ra 56% tổng sản lượng nội địa A của nước B
Nếu NSX 4 (15%) khởi kiện, các NSX 1 (9%), 2 (5%), 3 (15%) đều bày tỏ ý kiến
về việc khởi kiện này và NSX 5 (56%) không có ý kiến gì thì:
Nếu NSX 2 (5%) ủng hộ, NSX 1 (9%) và 3 (15%) phản đối: tổng sản lượng của
các NSX ủng hộ (NSX 4 và 2) là 20% nhỏ hơn so với 24% tổng sản lượng của các
NSX phản đối (NSX 1 và 3) => Đơn kiện sẽ bị bác do không thoả mãn điều kiện i).
Nếu NSX 1 (9%) ủng hộ, NSX 2 (5%) và 3 (15%) phản đối: tổng sản lượng của
các NSX ủng hộ (NSX 4 và 1) là 24% lớn hơn so với 20% tổng sản lượng của các
NSX phản đối (NSX 2 và 3) nhưng lại nhỏ hơn 25% => Đơn kiện sẽ bị bác do thoả
mãn điều kiện i) nhưng không thỏa mãn điều kiện ii)
c) Hiệp định chống bán phá giá tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc của WTO
Nguyên tắc không phân biệt đối xử

Page 13


Trong thương mại quốc tế, khi hàng hóa bị xem là bán phá giá thì chúng có
thể bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá (anti-dumping) như thuế chống
phá giá, đặt cọc hoặc thế chấp, cam kết hạn chế định lượng hoặc điều chỉnh mức
giá của nhà xuất khẩu nhằm triệt tiêu nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất
trong nước nhập khẩu, trong đó thuế chống bán phá giá là biện pháp phổ biến

nhất hiện nay. Về thực chất, thuế chống bán phá giá là một loại thuế nhập khẩu
bổ sung đánh vào những hàng hóa bị bán phá giá ở nước nhập khẩu nhằm hạn
chế những thiệt hại do việc bán phá giá đưa đến cho ngành sản xuất của nước đó
nhằm bảo đảm sự công bằng trong thương mại (nói chính xác đó là một sự bảo
hộ hợp lý cho sản xuất trong nước).
Thuế chống bán phá giá đánh vào các nhà sản xuất riêng lẻ chứ không phải
là thuế áp đặt chung cho hàng hóa của một quốc gia. Nguyên tắc chung nêu ra
trong Hiệp định của WTO là không được phân biệt đối xử khi áp dụng thuế
chống phá giá, tức là nếu hàng hóa bị bán phá giá được xuất khẩu từ những quốc
gia khác nhau với cùng biên độ phá giá như nhau thì sẽ áp đặt mức thuế chống
phá giá ngang nhau. Mức thuế chống phá giá sẽ phụ thuộc vào biên độ phá giá
của từng nhà xuất khẩu chứ không phải áp dụng bình quân (ngay cả khi các nhà
xuất khẩu từ cùng một quốc gia) và không được phép vượt quá biên độ phá giá
đã được xác định.
Nguyên tắc minh bạch hoá
yêu cầu các nước phải công khai, minh bạch các loại thủ tục, chính sách và
quy định để các nước thành viên biết rõ ràng và cụ thể, loại bỏ tình trạng mập
mờ về quy định và thủ tục. Thông lệ quốc tế định nghĩa hành động bán phá giá
là bán sang nước khác với giá thấp hơn thị trường trong nước.'Than phiền' chỉ là
theo cảm tính, còn để khởi kiện thì phải tìm bằng chứng có tính thuyết phục, và
điều này thường không đơn giản. Các thủ tục rõ ràng về phương thức khởi
xướng các vụ kiện chống bán phá giá và tiến hành điều tra đã được xây dựng
Page 14


trong ADP. Cùng với đó là các điều kiện đảm bảo rằng các bên liên quan đều có
cơ hội đưa ra bằng chứng.
Nguyên tắc có thể dự đoán được
Những thay đổi và điều chỉnh về luật pháp, chính sách trong lĩnh vực
thương mại cần được thực hiện theo một chiều hướng nhất định mà các nước

thành viên đều có thể dự đoán được. Mỗi nước có quy định riêng về vấn đề
chống bán phá giá (xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc chung liên quan của
WTO). Các vụ kiện chống bán phá giá và việc áp thuế chống bán phá giá thực tế
ở các nước tuân thủ các quy định nội địa này.
2.3.
2.3.1.

Tác động của hiệp định chống bán phá giá
Tác động tới các nước đang phát triển

Các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng quá nhiều bởi các biện pháp
chống bán phá giá với hàng xuất khẩu của họ cả về số lượng các biện pháp cũng
như mức thuế chống bán phá giá mà họ phải chịu. Những nước đang phát triển
chịu nhiều ảnh hưởng nhất là Trung Quốc, Philippines, Mexico, Malaysia và
Thái Lan.
Các nước đang phát triển sử dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với
hàng nhập khẩu nhiều vào nước họ nhiều hơn so với mức độ sử dụng các biện
pháp này của các nước phát triển. Những nước đang phát triển thường hay sử
dụng biện pháp này là Ấn Độ, Argentina, Mexico, Brazil và Nam Phi.
Thông thường, các biện pháp chống bán phá giá thường được các nước
phát triển giàu có áp dụng. Những nước “sử dụng truyền thống” là Hoa Kỳ, EU,
Australia và Canada.Tuy nhiên, chính các nước đang phát triển là là các nước
làm tăng mức độ sử dụng các biện pháp chống bán phá giá kể từ 1995 đến nay.
Nghiên cứu của WTO cho thấy rằng, những nước là đối tượng của các biện pháp
chống bán phá giá cũng chính là những nước bắt đầu sử dụng biện pháp này mà
Page 15


nguyên nhân chính là do trả đũa thương mại. Tác động tiêu cực đối với nền
kinh tế trong nước sẽ nặng nề hơn một khi các biện pháp chống bán phá giá

được sử dụng rộng rãi đối với hàng nhập khẩu. Mặt khác, những biện pháp do
các nền kinh tế lớn đặt ra , chẳng hạn như Hoa Kỳ hoặc EU, sẽ gây ảnh hưởng
lớn cho thương mại quốc tế nói chung do các nhà xuất khẩu bị gạt ra khỏi thị
trường tiềm năng hơn.
Tổn thất do sử dụng các các biện pháp chống bán phá giá lại lớn hơn so với
nguồn lợi mà chính sách bảo hộ có thể đem lại.Các điều tra chống bán phá giá
được thực hiện trước khi áp dụng các biện pháp chống bán phá giá cũng tiêu tốn
những khoản chi lớn của chính phủ các nước. Đây cũng chính là lý do mà một
số ít các nước đang phát triển sử dụng công cụ này.
Trong số những biện pháp được Hoa Kỳ và EU thực hiện, 90% các biện
pháp của EU và 60% các biện pháp của Hoa Kỳ là nhằm vào các nước đang
phát triển.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của các cuộc điều tra theo yêu cầu của EU và
Hoa Kỳ cho thấy rằng, mặc dù cuối cùng không phải chịu biện pháp nào nhưng
một khi có điều tra thì hàng nhập khẩu từ nước đang bị xem xét cũng giảm từ 15
đến 20%.
Trong số các biện pháp chống bán phá giá đang có hiệu lực, 75% liên quan
đến các sản phẩm kim loại, hóa chất, máy móc, thiết bị điện tử, hàng dệt và
nhựa. Những mặt hàng này đều là mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của những nước
đang phát triển năng động trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển công
nghiệp.
Khi cuộc điều tra chống bán phá giá bắt đầu, các công ty bị cáo buộc phải
giải đáp những câu hỏi của cơ quan có thẩm quyền, mà những thủ tục hành
chính ở nước đang phát triển thường rất khó khăn và rắc rối. Nếu không giải đáp
Page 16


được những thắc mắc trên, cơ quan có thẩm quyền được phép tính thuế chống
bán phá giá dựa trên những thông tin có sẵn, thường từ những nước đang tìm
kiếm bảo hộ. Hậu quả là các nước đang phát triển phải chịu mức thuế chống bán

phá giá cao hơn nhiều so với các nước phát triển.
2.3.2.

Tác động tới các nước phát triển

Khác với mục đích ban đầu là để trả đũa thương mại, các nước phát triển
hiện nay sử dụng các biện pháp chống bán phá giá như một biện pháp để bảo hộ
ngành sản xuất trong nước và hạn chế nhập khẩu từ các nước đang phát triển.
Những quốc gia điển hình về việc sử dụng các biện pháp chống bán phá giá hiện
nay là Mỹ, EU, Australia, Canada… Các biện pháp chống bán phá giá một khi
được sử dụng có tác động nhất định đến các mặt hàng nhập khẩu vào các nước
phát triển.Việc tính thuế chống bán phá giá cao với các hàng hóa nhập khẩu từ
các nước đang phát triển đã tạo cho những hàng hóa sản xuất trong nước những
vị thế cạnh tranh nhất định, ổn định sản xuất của mình trước sự xâm lấn của
hàng hóa nước bị coi là bán phá giá. Ngoài ra thì với hệ thống pháp luật hoàn
thiện, các nước phát triển có thể giảm hoặc tránh được những biện pháp tính
thuế chống bán phá giá, từ đó có vẫn có thể duy trì thế mạnh hàng hóa nước
mình khi xuất khẩu.Tuy nhiên, dù phát triển hay đang phát triển thì các nước
đều chịu những thiệt thòi nhất định về nền kinh tế khi chịu thuế chống bán phá
giá hoặc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá với hàng hóa nhập khẩu.
3.

Vụ việc Việt Nam kiện Hoa Kì ra WTO về các biện pháp chống bán
phá giá mà nước này áp dụng lên mặt hàng tôm đông lạnh của Việt

Nam (DS404)
3.1.
Tóm tắt về vụ kiện
Tiêu đề: US – Tôm ( Việt Nam)
Nguyên đơn: Việt Nam

Page 17


Bị đơn: Hoa Kỳ
Các bên thứ ba: Trung Quốc; Liên minh Châu Âu; Ấn Độ; Nhật Bản; Hàn
Quốc, Mexico; Thái Lan
Yêu cầu tham vấn: 1/2/2010
Bối cảnh vụ việc
Bắt đầu từ tháng 1/2004, Bộ thương mại Hoa Kì ( DOC) khởi xướng vụ

3.2.

điều tra bán phá giá đối với mặt hàng tôm đông lạnh của Việt Nam với 3 doanh
nghiệp có lượng xuất khẩu lớn nhất ( gọi là bị đơn bắt buộc) gồm Minh Phú,
Minh Hải và Camimex. Đến tháng 2/2005, DOC bắt đầu áp thuế chống bán phá
giá với các thuế suất:
- Từ 4,3% đến 5,24% đối với từng bị đơn bắt buộc
- Mức 4,57% (là mức bình quân gia quyền của thuế suất áp dụng cho 3 bị
-

đơn bắt buộc) đối với các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra
Mức thuế suất toàn quốc 25,76% cho tất cả các doanh nghiệp còn lại
Theo pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ, sau một năm kể từ ngày

lệnh áp thuế chống bán phá giá được ban hành, DOC sẽ tiến hành rà soát hành
chỉnh để xét lại mức thuế chính thức mà DOC đã áp dụng. Tính đến thời điểm
Việt Nam đệ đơn yêu cầu tham vấn chính phủ Hoa Kỳ tức vào tháng 2/2011,
DOC đã tiến hành được 3 cuộc rà soát hành chính (POR) và mới chỉ có kết quả
cuối cùng của đợt rà soát hành chính thứ hai và thứ ba:
- Đợt rà soát thứ hai POR2 (4/2007): Trong 30 doanh nghiệp xuất khẩu tôm

của Việt Nam đăng kí tham gia rà soát, chỉ có 2 doanh nghiệp công ty Minh Phú
và Camimex được DOC lựa chọn là bị đơn bắt buộc vì có lượng xuất khẩu lớn.
Ngày 2/9/2008, DOC ban hành quyết định cuối cùng theo đó mức thuế suất cho
các đơn vị bắt buộc là không đáng kể chỉ trong khoảng 0- 0,01%. Còn các bị
đơn tự nguyện không được lựa chọn vẫn phải duy trì mức thuế suất 4,75%, mức
thuế suất toàn quốc 25,76%.
Page 18


- Đợt rà soát thứ ba POR3 (4/2008): trong số 28 doanh nghiệp đăng kí tham
gia rà soát, DOC chọn 3 doanh nghiệp: công ty Minh Phú, Camimex và Phương
Nam. Ngày 15/9/2008 DOC đưa ra kết quả trong đó 3 doanh nghiệp trên đều
nhận được mức thuế tối thiểu (Minh Phú: 0,43%; Camimex: 0,08%; Phương
Nam: 0,21%). Các doanh nghiệp bị đơn tự nguyện được hưởng mức thuế suất
4,75%, mức thuế suất áp dụng cho các doanh nghiệp khác là 25,76%.
Trước nguy cơ DOC tiếp tục dùng phương pháp tính toán như POR2,
POR3 dẫn đến bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong POR4, Hiệp hội
Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) và Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) đã chủ động đưa ra phân tích và kiến nghị đề xuất kiện
Hoa Kỳ ra WTO lên Chính phủ. Tháng 2/2010, Chính phủ đã chấp thuận đề xuất
này và bắt đầu vụ kiện bằng tham vấn gửi Chính phủ Hoa Kỳ.
3.3.
Giai đoạn tham vấn
Ngày 1/2/2010, Việt Nam gửi yêu cầu tham vấn tới Hoa Kỳ liên quan đến
một số biện pháp chống bán phá giá với sản phẩm tôm nước ấm đông lạnh của
Việt Nam. Việt Nam đã khiếu nại các biện pháp của DOC là vi phạm WTO gồm
có:
-

Sử dụng phương pháp “Quy về 0 – Zeroing” trong tính toán biên độ phá


-

giá;
Giới hạn số lượng bị đơn được lựa chọn điều tra trong điều tra ban đầu và

-

rà soát hành chính;
Phương thức xác định thuế suất áp dụng đối với các bị đơn tự nguyện

-

không được lựa chọn trong điều tra rà soát hành chính lần 2 và 3;
Phương pháp xác định mức thuế suất toàn quốc dựa trên thông tin sẵn có
bất lợi đối với những doanh nghiệp Việt Nam không chứng minh được sự
độc lập trong hoạt động sản xuất kinh doanh của họ với Nhà nước.
Việt Nam cho rằng các biện pháp này không phù hợp với nghĩa vụ của Hoa

Kỳ theo: Điều I, II, VI:1 và VI:2 Hiệp định GATT 1994; một số Điều của Hiệp

Page 19


định về Chống bán phá giá (CBPG); Điều XVI:4 Hiệp định Thành lập WTO và
Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam.
Ngày 12/02/2010, Liên minh Châu Âu và Nhật Bản đã yêu cầu được tham
gia tham vấn. Ngày 15/02/2010, Thái Lan cũng yêu cầu được tham gia tham
vấn.
Ngày 7/4/2010, Phía Việt Nam yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. Tại cuộc

họp ngày 20/4/2010, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp trong WTO (DSB) đã trì
hoãn việc thành lập Ban Hội thẩm.
3.4.

Quá trình Hội thẩm và Phúc thẩm

Tại cuộc họp ngày 18/05/2010, Cơ quan Giải quyết Tranh chấp trong WTO
(DSB) đã quyết định thành lập Ban Hội thẩm. Liên minh Châu Âu, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Mexico, Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ tham gia là các Bên thứ
ba. Ngày 14/7/2010, Việt Nam đề nghị xác định thành phần Ban Hội thẩm.
Ngày 26/7/2010, thành phần Ban Hội thẩm được xác định. Ngày 10/1/2011, Chủ
tịch Ban hội thẩm thông báo thời gian làm việc tới DSB sau khi tham vấn các
bên liên quan và thống nhất thời hạn ban hành báo cáo cuối cùng là ngày
22/04/2011. Do một số mâu thuẫn không lường trước, Ban Hội thẩm dự kiến sẽ
đưa ra báo cáo cuối cùng tới các bên vào ngày 06/5/2011. Ngày 19/6/2011, Chủ
tịch Ban Hội thẩm thông báo với DSB rằng báo cáo cuối cùng sẽ được ban hành
tới các bên vào tháng 7/2011.
3.5.

Kết quả của vụ kiện

Ngày 11/7/2010, Ban Hội thẩm ban hành báo cáo tới các bên có liên quan
trên cơ sở phân tích các vấn đề khiếu kiện, các lập luận và phản biện của các bên
liên quan. Trong bản báo cáo ghi rõ:

Page 20


- Về khiếu kiện liên quan đến phương pháp quy về 0: Phương pháp “Quy
về 0” trong điều tra rà soát thuế chống bán phá giá là một thông lệ được Hoa Kỳ

sử dụng trong hầu hết các vụ điều tra chống bán phá giá của nước này. Nội dung
của phương pháp này là khi tính toán biên độ phá giá chung, Bộ Thương mại
Hoa Kỳ (DOC) chỉ tính các biên độ phá giá có giá trị dương (lớn hơn 0), biên độ
phá giá có giá trị âm sẽ được tự động chuyển về thành 0. Với phương pháp này,
biên độ phá giá chung được tính toán sẽ cao hơn, từ đó mức thuế chống bán phá
giá cũng bị đội lên rất nhiều. Ban Hội thẩm ủng hộ quan điểm của Việt Nam,
cho rằng phương pháp này của DOC vi phạm Điều 9.3 của Hiệp định về Chống
bán phá giá và Điều VI:2 GATT 1994.
- Về khiếu kiện liên quan đến hạn chế số bị đơn bắt buộc: Liên quan đến
vấn đề điều tra riêng các bị đơn không được lựa chọn điều tra nhưng tự nguyên
cung cấp bản trả lời trong báo cáo của mình, Ban Hội thẩm đã bác bỏ khiếu nại
của Việt Nam với lý do trên thực tế không có doanh nghiệp nào của Việt Nam
không được lựa chọn điều tra nhưng cung cấp bản trả lời tự nguyện. Đây có thể
xem là nội dung duy nhất mà Việt Nam có thể xem là chưa thắng trong vụ kiện
này.
- Về khiếu kiện liên quan đến mức thuế suất cho các bị đơn tự nguyện
không được lựa chọn: theo điều 9.4 hiệp định chống bán phá giá, thuế suất áp
dụng cho các bị đơn tự nguyện không được lựa chọn điều tra sẽ bằng bình quân
gia quyền thuế suất xác định cho các bị đơn bắt buộc (trừ các trường hợp bị đơn
bắt buộc có mức thuế suất xác định dựa trên các thông tin sẵn có bất lợi hoặc có
thuế suất bằng 0% hoặc từ 0-2%). Tuy nhiên, trong hiệp định không hề có qui
định thuế suất cho các đơn vị tự nguyện khi bị đơn bắt buộc có mức thuế suất
bằng 0 hoặc không đáng kể như trong trường hợp của POR2 và POR3. Vì vậy
rất khó xác định là DOC có sai phạm hay không. Thực tế, Ban Hội thẩm đã
không trả lời Việt Nam về vấn đề này. Tuy nhiên, DOC sử dụng phương pháp
quy về 0 trong vụ điều tra gốc để tính toán thuế suất cho bị đơn tự nguyện nên
Page 21


việc DOC bê y nguyên mức thuế suất này các bị đơn tự nguyện trong POR2 và

POR3 được Ban Hội thẩm xác định là vi phạm WTO.
- Về khiếu nại liên quan đến việc xác định mức thuế suất toàn quốc: Theo
điểu 9.4 hiệp định bán phá giá của WTO, cơ quan điều tra phải tiến hành điều tra
xác định thuế suất riêng cho từng bị đơn trong vụ việc chống bán phá giá; trong
trường hợp không thể điều tra hết được (do số lượng bị đơn quá nhiều và nguồn
lực của cơ quan điều tra hạn chế), cơ quan này có thể chỉ điều tra một số lượng
bị đơn nhất định, số bị đơn còn lại (không được điều tra) sẽ được hưởng thuế
suất bằng bình quân gia quyền của các bị đơn được điều tra. Như vậy, qui định
này chỉ rõ sẽ chỉ có 2 loại thuế suất là “thuế suất riêng cho bị đơn bắt buộc”
(individual rates), “thuế suất cho các bị đơn còn lại” (“all other” rate) trong vụ
điều tra chống bán phá giá. Tuy vậy, trong vụ tôm đông lạnh này của Việt Nam,
ngoài 2 mức thuế suất cho bị đơn bắt buộc và bị đơn tự nguyện còn có mức thuế
suất cho toàn quốc giành cho các doanh nghiệp không được lựa chọn điều tra và
không thỏa mãn điều kiện “hoạt động độc lập, không chịu sự kiểm soát của Nhà
nước” để được hưởng mức “all others rate”. Ban Hội thẩm đồng tình với lập
luận này của Việt Nam. Theo đó, thuế suất loại “all others” được áp dụng không
kèm theo điều kiện gì nên DOC đặt thêm điều kiện “doanh nghiệp phải chứng
minh được mình độc lập khỏi sự kiểm soát của Nhà nước” là vi phạm hiệp định
chống bán phá giá của WTO.
Từ các phán quyết trên WTO kết luận Hoa Kỳ có các hành vi vi phạm các
quy định trong hiệp định chống bán phá giá của WTO gây tổn hại đến quyền lợi
Việt Nam theo quy định này. Dựa theo qui định của điều 19.1 DSU ( DSU là
bản ghi nhớ về các qui tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp
của WTO), Ban Hội thẩm khuyến nghị Hoa Kỳ nên có sự điều chỉnh sao cho phù
hợp với quy định của hiệp định.
3.6.

Ý nghĩa của vụ việc
Page 22



DS 404 là vụ kiện đầu tiên mà Việt Nam khởi xướng với tư cách là nguyên
đơn trong khuôn khổ WTO. Theo đánh giá, vụ kiện được xem là thành công lớn
không chỉ ở việc lựa chọn trúng và đúng những vấn đề có khả năng thắng cao,
đồng thời là những biện pháp, phương pháp, thông lệ mà Hoa Kỳ đã đang và sẽ
áp dụng cho tất cả các cuộc điều tra mà còn ở việc chuẩn bị các lập luận xác
đáng, thuyết phục để đạt được kết quả tốt nhất có thể. Thành công này có ý
nghĩa rất quan trọng:
- Đảm bảo việc Hoa Kỳ sẽ không áp dụng các biện pháp bất lợi liên quan
đối với hàng hóa Việt Nam. Vấn đề kiện chống bán phá giá ở Hoa Kỳ có thể sẽ
bớt khắc nghiệt hơn; mức độ thiệt hại từ các vụ kiện có thể sẽ giảm đáng kể. Vụ
việc này cũng chứng minh với thế giới rằng Việt Nam sẽ đấu tranh tích cực để
bảo vệ các quyền lợi của nhà xuất khẩu trong các vụ kiện chống bán phá giá tại
bất kỳ nước nào.
- Là một kinh nghiệm thực tế khích lệ Việt Nam tự tin, chủ động sử dụng
công cụ giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của Việt Nam trong thương mại quốc tế mà không làm ảnh hưởng
đến quan hệ ngoại giao giữa các bên tranh chấp.

Page 23


III. Tình hình bán phá giá trên thế giới từ khi ADP có hiệu lực đến nay và
một số kiến nghị cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đối phó với các
vụ kiện chống bán phá giá
Thực trạng bán phá giá và áp dụng thuế bán phá giá giữa các nước

1.

trên thế giới trong thương mại quốc tế

1.1.
Tình hình bán phá giá trên thế giới và các vụ việc liên quan đến Việt
Nam
Ngày nay, đứng trước thách thức về cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị
trường nội địa, các quốc gia đã tăng cường sử dụng các công cụ bảo hộ ngày
càng tinh vi thông qua các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng của WTO,
trong đó có thuế chống bán phá giá.Vì vậy, các vụ kiện bán giá xảy ra trên thế
giới ngày càng tăng về số lượng chủ thể tham gia và ngày càng mở rộng phạm vi
hàng hoá áp dụng.
Theo số liệu của Ban Thư ký WTO, từ năm 1995 đến hết năm 2004 trên thế
giới đã tiến hành 2647 cuộc điều tra về chống bán phá giá, đứng đầu danh sách
là Ấn độ (399 vụ), Hoa Kỳ (354 vụ), và EU (303 vụ). Trong số 97 nước bị kiện,
các nước đứng đầu là Trung Quốc (386 vụ), Hàn Quốc (94 vụ), Hoa Kỳ (146
vụ)...
Bảng 1: Những nước thành viên WTO tiến hành kiện chống bán phá giá
nhiều nhất (tính từ 1/1/1995 đến 31/12/2006)

Tên nước

Ấn Độ

Số vụ điều tra

Số vụ áp dụng biện

Số vụ bị kiện

pháp chống bán phá giá ra WTO

457


331
Page 24

3


Hoa Kỳ

373

239

24

EU

362

231

5

Achentina

219

152

3


Nam Phi

200

120

2

3044

1941

58

Tất cả thành
viên WTO

Bảng 2: Những nước thành viên WTO bị kiện chống phá giá nhiều nhất
(tính từ 1/1/1995 đến 31/12/2006)
Tên nước

STT

Số vụ bị kiện

Số vụ bị áp dụng biện pháp
chống bán phá giá

1


Trung Quốc

536

375

2

Hàn Quốc

229

136

3

Hoa Kỳ

175

104

4

Đài Loan

173

107


5

Nhật Bản

135

97

6

Indonesia

130

73

7

Ấn Độ

127

75

8

Thái Lan

120


76

Page 25


×