Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Yên Bái hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đình Tường



Hà Nội - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

Chương 1: Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý
THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HIỆN NAY ...................................................................................................... 7

1.1. Ý thức pháp luật và thực chất của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh trung học phổ thông hiện nay ................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật ........................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm, kết cấu của ý thức pháp luật ........................................................ 9
1.1.3. Thực chất của việc giáo dục ý thức pháp luật ở trường Trung học phổ
thông ............................................................................................................. 24
1.2. Vai trò của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trung học phổ thông
và những tiêu chí cơ bản để đánh giá ý thức pháp luật cho học sinh
trung học phổ thông hiện nay ....................................................................... 29
1.2.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trung
học phổ thông ............................................................................................... 29
1.2.2. Những tiêu chí cơ bản để đánh giá ý thức pháp luật cho học sinh
THPT hiện nay.............................................................................................. 41
Chương 2: GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP ................................................................ 47

2.1. Thực trạng ý thức pháp luật của học sinh trung học phổ thông ở tỉnh Yên Bái
hiện nay và nguyên nhân của nó................................................................... 47

2.1.1. Khái lược điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và văn hóa tỉnh Yên Bái ....... 47
2.1.2. Thực trạng ý thức pháp luật của học sinh THPT ở tỉnh Yên Bái hiện nay ....... 49
2.2. Thực trạng của việc giáo dục ý thức pháp luật của học sinh trong nhà trường
trung học phổ thông ở Yên Bái hiện nay ...................................................... 63
2.2.1. Những thành tựu của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh
THPT ở Yên Bái hiện nay ...................................................................................63
2.2.2. Những hạn chế của việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT
ở Yên Bái hiện nay ....................................................................................... 70


2.3. Nguyên nhân của thực trạng trên ........................................................................... 75
2.3.1. Nguyên nhân của mặt tích cực .................................................................... 75
2.3.2. Nguyên nhân của mặt hạn chế .................................................................... 77
2.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục ý thức
pháp luật cho học sinh trung học phổ thông tỉnh Yên Bái hiện nay............. 83
2.4.1. Phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội ở địa phương tạo cơ sở vật chất
cho việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân nói chung và cho học
sinh THPT nói riêng ..................................................................................... 83
2.4.2. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của chính quyền các cấp
đối với công tác giáo dục ý thức pháp luật .................................................. 85
2.4.3. Đổi mới nội dung, chương trình giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh THPT ở Yên Bái hiện nay .................................................................... 88
2.4.4. Đổi mới hình thức, phương pháp giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh THPT ở Yên Bái hiện nay..................................................................... 91
2.4.5. Tăng cường giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT ở Yên Bái
thông qua gia đình, nhà trường và các tổ chức chính trị - xã hội ................. 95
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 101
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 103
PHỤ LỤC .................................................................................................................... 107



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH - HĐH :

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

GDCD

:

Giáo dục công dân

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

NXB

:

Nhà xuất bản


THPT

:

Trung học phổ thông

THCS

:

Trung học cơ sở

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

UB

:

Ủy ban

UBND

:

Ủy ban nhân dân


PBGDPL

:

Phổ biến giáo dục pháp luật

KHXH

:

Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề chính quyền và
việc xây dựng, hoàn thiện một nhà nước kiểu mới, nhà nước của dân, do dân và vì
dân luôn là mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước
ta. Đặc biệt là sự phát triển đất nước trong giai đoạn đổi mới và vận hành theo nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN đang đặt ra yêu cầu xây dựng một nền dân
chủ, đảm bảo quyền tự do, bình đẳng của công dân, cũng như yêu cầu cải cách bộ
máy nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Pháp luật đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một
số chuyển biến về mặt xã hội, góp phần không nhỏ vào việc củng cố tiềm lực quốc
phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo thế và lực đưa nước
ta hội nhập thế giới.Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng, sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện hệ thống pháp luật cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Nhiều
văn bản pháp luật đã và đang đi vào cuộc sống, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân.
Điều đó càng khẳng định thực tế là nếu như pháp luật ngày càng hoàn thiện hơn,

hoạt động tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn thì ý thức pháp luật sẽ
được nâng lên, sự định hướng hành vi cho mọi công dân cũng sẽ tốt hơn.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, tại Hội nghị Trung ương toàn
quốc giữa nhiệm kì khóa VII, Đảng ta đã xác định: Tăng cường giáo dục ý thức
pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức thực hiện pháp luật, sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm
minh, thống nhất và công bằng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán
bộ, công chức và mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”.
“Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế,
quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật”. [16, tr. 135].
Học sinh THPT là đối tượng tiếp cận và chịu ảnh hưởng nhiều đối với sự biến
động của cơ chế thị trường và xu thế hội nhập của đất nước. Các em là lứa tuổi đang

1


trưởng thành, chưa phải là các cá nhân hoàn thiện, chưa định hình về tính cách nên dễ
bị chi phối và tác động bởi yếu tố bên ngoài. Những thay đổi về sinh lý, xuất hiện nhu
cầu muốn thể hiện bản thân một cách độc lập. Các em muốn tự hoạt động, tự đưa ra
quyết định một cách phù hợp với nhận thức bản thân hơn là để thỏa mãn những đòi
hỏi của môi trường hay người khác. Nhưng chính những khó khăn trở ngại của sự
phát triển tâm sinh lý, thiếu kinh nghiệm sống và đặc biệt là sự thiếu hiểu biết về
pháp luật đã ảnh hưởng tới hành vi của các em. Các em chưa biết đánh giá, chưa biết
kìm hãm và hướng dẫn bản năng, ham muốn một cách đúng đắn. Vì vậy, nhiều em
hành động bột phát để thỏa mãn nhu cầu của mình mà không có sự nhìn nhận, suy xét
kỹ lưỡng, các em khó phân biệt được cái tốt, cái xấu. Trong khi gia đình, nhà trường
chưa kịp thời uấn nắn, giúp đỡ hoặc thiếu sự quan tâm nên các em dễ sa vào con
đường phạm pháp.

Yên Bái là một tỉnh miền núi với những đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế,
văn hóa, xã hội, truyền thống, phong tục, tập quán… nhiều khi đã trở thành những trở
ngại cho quá trình thực hiện pháp luật. Học sinh THPT ở Yên Bái cũng như nhiều địa
phương khác, tình trạng vi phạm pháp luật vẫn thường xuyên xảy ra với nhiều hình
thức. Đặc biệt trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm pháp luật ở học sinh phổ
thông không chỉ gia tăng về số lượng mà tính chất, mức độ tội phạm ngày càng
nghiêm trọng hơn. Hành vi vi phạm pháp luật hết sức đa dạng và phức tạp với hầu hết
các loại phạm tội do người lớn gây ra, đặc biệt có một bộ phận thanh thiếu niên học
sinh tham gia các băng, ổ nhóm tội phạm sử dụng bạo lực có tính chất côn đồ hung
hãn gây hậu quả hết sức nghiêm trọng.
Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân gây ra và cũng ảnh hưởng rất nhiều đến
nhân cách học sinh THPT và trật tự an toàn xã hội. Điều đó đặt ra cho nhà trường, xã
hội một trách nhiệm lớn là phải quan tâm đến việc giữ gìn kỷ cương trong nhà
trường, kịp thời uấn nắn những hành vi sai trái ở học sinh, hình thành ở học sinh thái
độ tôn trọng pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật trong nhà trường và ở
ngoài xã hội. Bởi vậy, việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT là điều rất
cần thiết, để từ đó làm tiền đề hình thành ý thức pháp luật trong cuộc sống sau này
của các em và điều này sẽ góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Chính vì vậy tôi chọn đề tài “ Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh trung học
phổ thông ở Tỉnh Yên Bái hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu
Việc giáo dục ý thức pháp luật cho người dân nói chung và học sinh THPT nói
riêng đã được nhiều công trình khoa học nghiên cứu. Trong những năm gần đây, dưới
các góc độ khác nhau, các tác giả đã cho ra mắt bạn đọc các công trình nghiên cứu
của mình, dưới các hình thức như đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ,
sách, các bài viết trên tạp chí... với một số công trình sau đây.

1. Đề tài cấp Bộ, cấp Nhà nước:
- Cơ sở khoa học cho việc xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, chương
trình khoa học công nghệ cấp nhà nước KX - 07, đề tài KX - 07 - 17 (1995), Viện
nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thuộc trung tâm KHXH và Nhân văn quốc gia.
- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc
đổi mới, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1995 của Bộ Tư pháp.
- Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật của Đào Trí Úc (Chương trình
khoa học công nghệ cấp nhà nước KX- 07). Trên đây là những đề tài khoa học có tính
thực tiễn cao. Vấn đề này là hoàn toàn cấp thiết đối với Đảng và nhà nước ta hiện nay.
2. Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
- Sự hình thành và phát triển ý thức pháp luật của nhân dân đồng bằng sông
Cửu Long trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học
của Hồ Đình Hiệp, năm 2000.
- Những đặc điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ Triết học của Đào Duy Tấn năm 2001.
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ Triết học của Đỗ Trung Hiếu, năm 2002.
- Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở
Thành phố Hải Phòng hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học của Hoàng Bích Thủy.
Trung tâm Đào tạo, Vồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2009.
- Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh phổ thông ở Thành phố Pleiku, tỉnh
Gia Lai hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học của Lê Thị Tuyết Thu, Trường Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2011.

3


Qua một số luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ, vấn đề về ý thức pháp luật ở
nước ta hiện nay được nhiều tác giả quan tâm. Ở mỗi một góc độ tiếp cận khác nhau

cho chúng ta nhìn nhận rõ hơn về thực trạng và nguyên nhân của vấn đề này.
3. Sách, báo, tạp chí
- Xã hội và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
- Một số vấn đề về giáo dục pháp luật ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số,
Nxb Chính trị quốc gia, 1996
- Giáo dục pháp luật trong nhà trường, Nxb Giáo dục, năm 2010.
- “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ”, của Trần Văn Miều, Tạp
chí Xây dựng Đảng, năm 2007.
- “Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay” Báo cáo khoa
học chuyên đề Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tháng 10 năm 2007.
Gần đây nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đưa ra Chỉ thị số 2516/CT - BGD
& ĐT ngày 18/05/2007 về thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong ngành giáo dục. Bên cạnh đó, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã đưa ra Chỉ thị số 7823/CT - BG&ĐT, ngày 27/10/2009, xác định thực
hiện cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức , tự học và sáng
tạo” đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, có tính pháp lý của ngành và trở
thành một trong những tiêu chí thi đua để nâng cao năng lực chuyên môn và phẩm
chất đạo đức của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, vì muốn giáo dục
đạo đức và pháp luật có hiệu quả thì mỗi thầy cô giáo phải là một tấm gương sáng.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên, đã chỉ ra vai
trò của pháp luật trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ
còn đang trong quá trình hình thành nhân cách. Mặc dù đã có nhiều công trình
nghiên cứu làm rõ tính cấp thiết của đề tài và đề ra các giải pháp cơ bản để nâng cao
ý thức pháp luật cho nhân dân. Tuy nhiên, các đề tài đều nghiên cứu ở tầm vĩ mô và
thời gian cũng đã lâu nên chưa đáp ứng với tình hình thực tiễn mới của đất nước khi
mà tình hình phạm tội không ngừng gia tăng, trong đó xuất hiện ngày càng nhiều
đối tượng phạm tội là học sinh THPT. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề vấn đề giáo
dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc với tỉnh Yên Bái hiện nay, góp phần nâng cao ý thức pháp luật của


4


người dân nói chung và học sinh nói riêng, hình thành thái độ, ý thức sống và làm
việc theo Hiến pháp và pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Phân tích và làm rõ thực trạng giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT
ở tỉnh Yên Bái hiện nay. Trên cơ sở đó nêu lên một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao hiệu quả của quá trình giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT ở Yên Bái
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, kết cấu của ý thức pháp luật và vai trò của
việc giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
- Phân tích và làm rõ thực trạng giáo dục ý thức pháp luật của học sinh
THPT ở tỉnh Yên Bái hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giáo
dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh
ở tỉnh Yên Bái.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh
THPT ở tỉnh Yên Bái hiện nay thông qua khảo sát các trường THPT trên địa bàn
tỉnh Yên Bái. Thời gian nghiên cứu từ năm 2011 đến 2013.
5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn vận dụng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, những quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
về các vấn đề liên quan đến đề tài

- Luận văn sử dụng những tài liệu,văn kiện, chỉ thị, nghị quyết, quyết định,
báo cáo tổng kết… của Trung ương, các cấp ủy Đảng và chính quyền, các báo cáo
tổng kết của các trường THPT, Sở Giáo dục Đào tạo tỉnh Yên Bái.

5


- Ngoài ra, luận văn vận dụng và kế thừa có chọn lọc những công trình khoa học
của các tác giả đi trước về vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho người dân nói chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với những phương pháp khoa học cụ thể như: phân
tích, tổng hợp, phương pháp khảo sát, thống kê, phương pháp điều tra xã hội học và
đối chiếu so sánh để rút ra những kết luận cần thiết.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ khái niệm, vai trò của ý thức
pháp luật và khẳng định sự cần thiết phải giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh
THPT ở Tỉnh Yên Bái nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN hiện nay.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các nhà
trường, các cơ quan pháp luật trong việc tuyên truyền và giáo dục ý thức pháp luật
cho học sinh, sinh viên.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Những giải pháp được tác giả đưa ra trong luận văn góp phần cung cấp cơ
sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng kế hoạch giáo dục ý thức pháp luật cho
học sinh THPT nói chung và ở tỉnh Yên Bái nói riêng.
- Là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy cho các giảng viên
môn luật, giáo viên môn GDCD trong các trường cao đẳng, các trường chuyên
nghiệp và trường THPT ở Yên Bái hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 6 tiết.
Chương 1: Ý thức pháp luật và vai trò của việc giáo dục ý thức pháp luật cho
học sinh trung học phổ thông hiện nay.
Chương 2: Giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh Trung học phổ thông ở
tỉnh Yên Bái hiện nay - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp.

6


Chương 1
Ý THỨC PHÁP LUẬT VÀ VAI TRÒ CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC
PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY
1.1. Ý thức pháp luật và thực chất của việc giáo dục ý thức pháp luật cho
học sinh trung học phổ thông hiện nay
1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin ý thức xã hội là toàn bộ đời sống
tinh thần của xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội, nhưng nó không phản ánh giản đơn,
máy móc thụ động mà có tính độc lập tương đối. Ý thức xã hội phản ánh nhiều mặt
khác nhau của đời sống xã hội do đó biểu hiện thành nhiều hình thái ý thức. Trong
đó ý thức pháp quyền là một trong những hình thái ý thức quan trọng và chi phối
mọi mặt của đời sống xã hội.
Tiếp cận dưới góc độ triết học về ý thức pháp luật cho thấy:
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, có nguồn gốc từ thực tiễn
đời sống xã hội và phản ánh tồn tại xã hội từ phương diện pháp luật. Do đó, mỗi một
chế độ xã hội khác nhau tương ứng với nó là một hình thức pháp luật khác nhau.
Chính vì thế ý thức pháp luật trong xã hội chiếm hữu nô lệ khác hẳn với xã hội phong
kiến và đặc biệt là ý thức pháp luật trong xã hội với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Điều này được thể hiện rất rõ về quyền con
người trong quan hệ xã hội. Với một nền pháp luật tiến bộ quyền con người ngày

càng được khẳng định không chỉ với thiểu số mà là đại đa số quần chúng nhân dân
trong xã hội. Sự tiến bộ của xã hội được thể hiện thông qua sự tiến bộ của pháp luật,
vì pháp luật điều chỉnh mọi quan hệ cơ bản nhất của đời sống xã hội. Đời sống ý thức
pháp luật là một hiện thực khách quan, một bộ phận của tồn tại xã hội, ý thức pháp
luậ là cái phản ánh đời sống đó, được thể hiện thông qua hành vi xử sự của con người
trong các quan hệ xã hội.
Con đường hình thành và phát triển của ý thức pháp luật tuân theo quy luật
chung của quá trình nhận thức đó là từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
Trong đó nhận thức lý tính là cơ sở quan trọng trong việc định hình ý thức pháp luật
và thực hiện pháp luật một cách tự giác dù muốn hay không muốn.

7


Ý thức pháp luật được thể hiện thông qua toàn bộ những học thuyết, tư
tưởng, quan điểm, quan niệm của một chế độ xã hội, một nhà nước, một giai cấp,
đảng phái về bản chất và vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Trong đó bản
chất giai cấp của pháp luật chính là bản chất cơ bản quy định nội dung của pháp
luật. Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước giữa
hai hình thái này có sự gần nhau cả về nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền
phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất
được thực hiện trong hệ thống pháp luật từ đó chi phối mọi mặt khác của đời sống
xã hội. Pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện thành luật lệ, do đó
mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm
chính quyền, trong xã hội có giai cấp đối kháng các giai cấp khác nhau lại có ý thức
khác nhau về pháp luật, phản ánh và bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Do đó hiệu
lực pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước mà
còn phụ thuộc vào trình độ hiểu biết tâm lý pháp luật của xã hội.
Trong các hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật luôn có sự tác động qua lại
với các hình thái ý thức xã hội khác, trong đó có mối liên hệ mật thiết với các hình

thái ý thức chính trị và ý thức đạo đức xã hội. Tuy nhiên, sự tác động này luôn có tính
độc lập tương đối, bởi mỗi hình thái ý thức xã hội phản ánh một mặt cơ bản khác
nhau của đời sống kinh tế xã hội. Trong mối liên hệ đó ý thức pháp luật chịu ảnh
hưởng trực tiếp của ý thức chính trị, bởi ý thức chính trị là ý thức của giai cấp cầm
quyền, đây là một quy luật tất yếu vì đường lối chính trị được cụ thể hóa thông qua
luật pháp. Trong mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và ý thức đạo đức, thì ý thức đạo
đức hình thành trước ý thức pháp luật, cả hai hình thái ý thức này đều nhằm điều
chỉnh hành vi của con người đối với xã hội. Ý thức đạo đức chi phối mọi hành vi của
đời sống xã hội với quy tắc điều chỉnh bằng lương tâm cá nhân và dư luận xã hội, tính
tự nguyện của hành vi được đặt lên hàng đầu. Với ý thức pháp luật dù muốn hay
không muốn mỗi cá nhân đều phải tuân thủ và thi hành theo quy định đã được ban
hành. Khi bàn về khái niệm ý thức pháp luật có nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm một: ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan
điểm và quan niệm thịnh hành trong xã hội, thể hiện mối quan hệ thông qua sự hiểu
biết của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và pháp luật cần phải
có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự

8


của con người cũng như trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội.
Quan điểm trên chỉ nhấn mạnh mặt tri thức pháp luật.
Quan điểm hai: ý thức pháp luật là trình độ hiểu biết của các tầng lớp nhân
dân về pháp luật... ý thức pháp luật còn là thái độ đối với pháp luật, ý thức tôn trọng
hay coi thường pháp luật, đó là thái độ đối với hành vi vi phạm pháp luật và phạm
tội. Quan điểm này chỉ tập trung nhấn mạnh ý thức của chủ thể pháp luật.
Từ những quan điểm trên, với nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, tác giả đưa
ra quan niệm về ý thức pháp luật như sau:
Khái niệm Ý thức pháp luật: Là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh
những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội thông qua những quan điểm, tư tưởng,

tình cảm, thái độ của con người đối với pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể pháp luật, tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người
trong xã hội nhằm bảo vệ trật tự xã hội hiện hành và các lợi ích kinh tế, chính trị, xã
hội theo ý chí của giai cấp cầm quyền.
Là một bộ phận của ý thức xã hội, nó ra đời thay đổi cùng với pháp luật, tức
là khi xã hội đã phân chia thành giai cấp và luôn mang tính giai cấp sâu sắc, là yếu
tố có tính chất quyết định đến hiệu quả của việc quản lý xã hội bằng pháp luật. Mỗi
một kiểu nhà nước trong lịch sử đều có một hệ thống pháp luật tương ứng với nó.
Khi hệ thống pháp luật nào đó đã bị thủ tiêu nhưng ý thức pháp luật tương ứng của
nó vẫn có thể tồn tại dai dẳng trong xã hội mới.
1.1.2. Đặc điểm, kết cấu của ý thức pháp luật
1.1.2.1. Đặc điểm của ý thức pháp luật
Thứ nhất, ý thức pháp luật luôn chịu sự quyết định của tồn tại xã hội. Ý thức
pháp luật do tồn tại xã hội quyết định, khi tồn tại xã hội thay đổi thì ý thức pháp luật
cũng thay đổi theo. Nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội theo quan
điểm của triết học Mác chứng minh rằng: Ý thức xã hội của một cộng đồng xã hội
không phải là cái cố hữu bất biến của con người, của xã hội mà nó chỉ là sự phản
ánh đối với tồn tại xã hội hiện thực. Do đó, một khi tồn tại xã hội thay đổi thì nhất
định sẽ dẫn đến sự thay đổi cuả ý thức xã hội. Sự thay đổi đó có thể diễn ra nhanh
hay chậm, nhưng nó cũng sẽ phải thay đổi. Đây là một nguyên lý khách quan của sự
vận động và phát triển của xã hội.

9


Từ nguyên lý trên chúng ta thấy hình thái ý thức pháp luật cũng chịu sự quy
định của nguyên lý này, sự lạc hậu của ý thức pháp luật so với đời sống thực tiễn
của pháp luật có các nguyên nhân cơ bản sau:
Sự vận động của xã hội được thông qua hoạt động thực tiễn của con người,
hoạt động đó hết sức phức tạp, phong phú và đa dạng, luôn có sự thay đổi hay phát

sinh một vấn đề, những điều này diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức pháp luật sẽ
không thể phản ánh kịp và trở lên lạc hậu. Song cũng giống như ý thức chính trị khi
có sự thay đổi của một chế độ xã hội thì ngay lập tức ý thức chính trị và ý thức pháp
luật cũng thay đổi theo. Khác với hình thái ý thức đạo đức, thẩm mỹ... sự thay đổi
của nó chậm chạp hơn rất nhiều. Những ý thức pháp luật lạc hậu, tiêu cực không
mất đi một cách dễ dàng. Đặc trưng này thể hiện rất rõ trong văn hóa làng xã Việt
Nam đó là “phép vua thua lệ làng”, “một bồ cái lý không bằng một tý cái tình”.
Thứ hai, Ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội. Tính
độc lập tương đối của ý thức pháp luật còn được thể hiện ở một số khía cạnh.
Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Nhiều khi tồn tại
xã hội cũ mất đi, nhưng ý thức pháp luật cũ vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời
gian dài, nhất là tâm lý pháp luật, ý thức pháp luật còn lạc hậu hơn so với tồn tại
pháp luật hệ thống pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng pháp luật. Thông
thường một văn bản pháp luật mới ra đời hoặc thực tiễn áp dụng pháp luật đã thay
đổi nhưng nhiều người vẫn chưa nắm bắt được với nhiều lý do khác nhau, nên ý
thức pháp luật của họ chậm đáp ứng nhu cầu thực tế cuộc sống.
Tuy nhiên, tư tưởng pháp luật đặc biệt là tư tưởng pháp luật khoa học có thể
vươn lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội, nghĩa là ý thức pháp luật cũng có tính tiên
phong. nếu là tư tưởng của lực lượng cầm quyền tiến bộ thì nó sẽ có cơ hội thuận lợi để
thể hiện thành pháp luật và tạo ra những biến đổi nhanh hơn trong đời sống.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó, song nó
cũng kế thừa những yếu tố nhất định của ý thức pháp luật thời đại trước đó. Những
yếu tố được kế thừa có thể tiến bộ hoặc không tiến bộ, sự kế thừa này còn phụ thuộc
vào trình độ nhận thức pháp luật nói chung, phụ thuộc vào truyền thống, phong tục
tập quán, tâm lý...

10


Ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội với ý thức chính trị,

đạo đức và các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc pháp lý như nhà nước và pháp
luật... Tùy thuộc vào ý thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó có
thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các hiện tượng trên.
Thứ ba: Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính chính trị - giai cấp.
Như chúng ta đã biết, pháp luật luôn luôn mang tính giai cấp và gắn liền với
thể chế chính trị của nhà nước. Hệ thống quy phạm pháp luật của chúng ta là hệ
thống quy tắc hành vi có tính bắt buộc mọi thành viên của xã hội tuân thủ trong quá
trình thạm gia vào hoạt động của đời sống cộng đồng. Pháp luật là công cụ phục vụ
trực tiếp cho cuộc đấu tranh chống lại mọi thế lực thù địch đang tìm cách phá hoại
công cuộc xây dựng đất nước của chúng ta hiện nay. Đồng thời đó cũng là công cụ
hữu hiệu để trừng trị những phần tử thoái hóa biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền
hạn để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, làm xói mòn đạo đức xã hội.
Thế giới quan pháp lý của một lực lượng xã hội nhất định được quy định bởi
vị trí của lực lượng đó trong xã hội. Trong tư tưởng, quan điểm pháp lý phải có sự ý
thức về lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia để bảo vệ và giữ gìn và bảo vệ chúng.
Trong mỗi quốc gia có thể tồn tại nhiều hệ ý thức pháp luật khác nhau, song chỉ có
ý thức pháp luật của lực lượng thống trị xã hội là có điều kiện được phổ biến rộng
rãi và thể hiện trong pháp luật. Do đó, tính chính trị - giai cấp của một nhà nước
cũng đồng thời quy định tính chính trị - giai cấp của pháp luật.
Cũng giống như nhà nước, bản chất của pháp luật trước hết được thể hiện ở
bản chất giai cấp của nó vì pháp luật tất yếu được ra đời từ xã hội có giai cấp, nhằm
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản C.Mác và
Ph.Ăngghen có viết “ Pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông
được đề lên thành luật pháp, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt
vật chất của giai cấp các ông quyết định” [24, tr. 54].
Như vậy sự ra đời của pháp luật vừa mang tính khách quan vừa mang tính
chủ quan. Tính khách quan được thể hiện: được sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã
hội, phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất phát từ thực tế cuộc sống,
phù hợp với thực tế cuộc sống. Tính chủ quan: phụ thuộc vào ý chí của nhà nước,
xuất phát từ lợi ích của nhà nước, giai cấp và dân tộc.


11


Quan điểm trên của chủ nghĩa Mác-Lênin đúng với mọi kiểu pháp luật vì
pháp luật nào cũng tồn tại trong một xã hội có giai cấp, tuy tính giai cấp thể hiện
trong mỗi pháp luật có mức độ khác nhau. Những ý chí của giai cấp thống trị được
thể chế hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành, đây là con đường để hợp thức hóa ý chí của giai cấp thống trị thành ý chí nhà
nước dưới dạng quy tắc xử sự chung bắt buộc toàn xã hội phải thực hiện. Đồng thời,
đây còn là vũ khí để giai cấp thống trị chống lại các giai cấp khác, duy trì sự thống
trị của giai cấp mình. Do đó, pháp luật không chỉ là công cụ thống trị của giai cấp
mà còn là công cụ thống trị về chính trị trong xã hội có giai cấp. Trên thực tế, pháp
luật của những Nhà nước gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp
với xu hướng phát triển tiến bộ, vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định
nhằm bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Ngược lại, nếu pháp luật
của nhà nước gắn với giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường
chứa đựng yếu tố trì trệ, bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính. Trong trường hợp
như vậy, pháp luật sẽ không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp
với xu hướng phát triển khách quan của thời đại.
Trong xã hội không còn đối kháng giai cấp, nhà nước là người đại điện cho
nhân dân lao động, cho nên hoạt động của nhà nước và hệ thống pháp luật tự thân
đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn,
pháp luật luôn có vai trò bảo vệ các giá trị chân chính, bảo vệ các quyền lợi chính
đáng của con người, đồng thời tạo điều kiện cho con người phát huy những năng
lực thực tiễn của mình. Việc thực thi pháp luật cũng đồng nghĩa với việc đảm bảo
trên thực tế các quyền thiêng liêng của con người, sự tôn trọng các giá trị xã hội.
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thể hiện đúng đắn ý chí và nguyện vọng của số
đông, phù hợp với xu thế vận động của lịch sử sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và
tiến bộ xã hội, pháp luật cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền

đạo đức của xã hội. Có thể nói, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho
sự tồn tái bình thường của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Bởi lẽ, pháp
luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo
đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai
trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp
luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội.

12


Trong xã hội XHCN pháp luật vẫn là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp và
các quan hệ xã hội. Pháp luật phản ánh nguyện vọng của con người và các quan
điểm về những hành vi xử sự trong cuộc sống xã hội. Vì vậy, pháp luật hoàn toàn
không phải là sản phẩm thuần túy của lý tính hay bản tính tự nhiên phi giai cấp như
những người theo trường phái pháp luật tự nhiên quan niệm. Nội dung ý chí giai
cấp được đề lên thành luật được quy định khách quan bởi những điều kiện kinh tế
xã hội hiện thực, những quan hệ sản xuất thống trị, là tương quan lực lượng giữa
các giai cấp và kết quả đấu tranh giai cấp.
Thứ tư: Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ tư tưởng quan điểm pháp
luật tiến bộ và nhân đạo nhất. Hình thành và phát triển trên cơ sở thế giới quan
khoa học ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa kế thừa những tư tưởng quan điểm pháp
luật tiến bộ của thời đại trước, cũng như thành tựu văn minh trong lĩnh vực điều
chỉnh pháp luật của các thời đại trước. Trong ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa chứa
đựng những tư tưởng nhân đạo của chủ nghĩa nhân đạo chân chính là giải phóng
con người khỏi áp bức, bóc lột, đưa con người tới cuộc sống văn minh, hạnh phúc.
Pháp luật XHCN thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, còn các pháp luật của các nhà nước khác đều thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị. Nhìn chung ý thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng cũng có
tính độc lập tương đối.
Bên cạnh bản chất giai cấp của pháp luật, ở những mức độ nhất định pháp

luật còn thể hiện ý chí và quan tâm đến lợi ích của các giai cấp và các tầng lớp khác
trong xã hội. Ngoài bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, pháp luật còn là phương
tiện để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, đấu tranh chống lại sự xâm hại từ bên ngoài
đối với lợi ích đất nước, đây chính là bản chất xã hội không thể thiếu của pháp luật,
là nhân tố cấu thành nên nội dung pháp luật. Tính nhân văn và tiến bộ của pháp luật
được thể hiện rất rõ thông qua bản chất xã hội này, đặc biệt là pháp luật XHCN.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa hiện nay,
yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến nền đạo đức của xã
hội. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong hoạt
động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả kinh
tế. Khi đời sống kinh tế - xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ

13


giữa con người với con người không thể chỉ là mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ
yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về
đạo đức, như trước đây, mà nó cần được bổ xung những chuẩn mực, những giá trị
mới, như tính kinh tế, tính hiệu quả. Những yêu cầu mới này phải được quy định và
phổ biến thông qua pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã
hội dân sự... đòi hỏi phải tích cực hơn nữa trong việc đưa pháp luật vào đời sống,
hình thành và phát triển ý thức pháp luật, đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng cao
trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học,
chuyển thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông sang điều
chỉnh xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội. Trong
quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học và duy
lý thay cho sự tuỳ tiện vấn dựa trên cơ sở kinh nghiệm, duy cảm, duy tình. Sự điều
chỉnh xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật) làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy khả năng sáng
tạo của mình trong môi trường lành mạnh - môi trường vận hành có trật tự, nền nếp,

kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó cũng chính là nhu
cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công dân trong giai
đoạn mới.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đang đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề
phải tăng cường hơn nữa vai trò của pháp luật. Việc nâng cao vai trò, hiệu quả của
pháp luật không chỉ nhằm lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, mà còn tạo môi trường
thuận lợi cho việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức mới. Để làm được điều đó,
đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng.
Như vậy từ đặc điểm của ý thức pháp luật, chúng ta thấy cần thiết phải xây
dựng đồng bộ và hoàn thiện một hệ thống pháp luật, tăng cường vai trò và hiệu quả
của pháp luật trong đời sống xã hội.
Pháp luật XHCN cũng mang đầy đủ những đặc điểm trên, bên cạnh đó nó
còn mang những đặc trưng riêng của CNXH. Nếu như pháp luật của xã hội có giai
cấp đối kháng là pháp luật của giai cấp bóc lột là số ít trong xã hội, thì pháp luật
XHCN thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngay
từ khi xuất hiên trong lịch sử, pháp luật XHCN đã thể hiện nguyện vọng và mang

14


lại lợi ích cho số đông trong xã hội, biểu hiện mối quan hệ, hợp tác giúp đỡ lẫn nhau
giữa những người lao động không bị áp bức bóc lột. Pháp luật XHCN mang lại và
bảo vệ lợi ích cho dân lao động , thực hiện mục đích mà nhà nước và nhân dân đặt
ra, trong đó mục đích cao cả nhất là xây dựng XHCN, đem lại tự do, dân chủ, công
bằng và tiến bộ xã hội. Pháp luật đã đưa người lao động từ địa vị bị thống trị lên địa
vị làm chủ xã hội. nhân dân lao động trực tiếp nắm quyền lực nhà nước, cùng nhau
sử dụng những tư liệu sản xuất đã được xã hội hóa để phục vụ lợi ích của cả xã hội
cũng như của mọi người. Bảo vệ lợi ích của người lao động, pháp luật XHCN đã
ghi nhận và đảm bảo các quyền tự do dân chủ thực sự cho nhân dân, như quyền tự
do khỏi sự bóc lột, quyền có việc làm, quyền được nghỉ ngơi, quyền được học tập,

quyền bí mật đời tư, quyền tự do ngôn luận... đáp ứng ngày càng nhiều hơn, tốt hơn
những nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần trong xã hội, mang lại tự do
thực sự cho con người và toàn thể cộng đồng, là cơ sở xây dựng nền dân chủ và
phát triển toàn diện mỗi cá nhân.
Ba là: Nội dung pháp luật XHCN của mỗi quốc gia là do điều kiện kinh tế xã hội của nhà nước đó quy định.
Nội dung và phương hướng phát triển của pháp luật XHCN còn chịu sự chỉ
đạo, định hướng của đường lối chính sách của Đảng cộng sản, lực lượng lãnh đạo
nhà nước và xã hội trong các nước XHCN.
Ở Việt Nam, trong những năm qua một bộ phận trong đội ngũ cán bộ trực
tiếp thực thi pháp luật không những còn thiếu và yếu về năng lực, thiếu ý thức trách
nhiệm, mà còn thiếu cả cái tâm của con người. Đã có không ít trường hợp cán bộ lợi
dụng chức vụ, quyền hạn làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xử lý
không nghiêm những trường hợp vi phạm, thậm chí chính bản thân họ cũng vi
phạm pháp luật. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, hiệu lực của
pháp luật chỉ có được khi mọi người nghiêm chỉnh chấp hành. Trong thực thi pháp
luật, về phía nhà nước, việc tổ chức thực hiện phải nghiêm minh, thưởng phạt phải
rõ ràng, về phía công dân, tất cả mọi người không loại trừ ai đều có nghĩa vụ, trách
nhiệm thực hiện đúng pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật.
Việc giáo dục pháp luật là một trong những công đoạn hết sức quan trọng.
Nó không chỉ giúp nâng cao ý thức pháp luật cho người dân, mà còn tạo ra khả năng

15


hình thành những nhu cầu, tình cảm, những chuẩn mực mới, đồng thời, góp phần
củng cố ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đạo đức, ngăn chặn các biểu hiện xâm
phạm lợi ích chính đáng của người khác, khuyến khích những hành vi hợp pháp và
hợp đạo lý.
1.1.2.2. Kết cấu của ý thức pháp luật
Có thể coi ý thức xã hội là cầu nối giữa pháp luật và các quy phạm xã hội

như đạo đức, tập quán, truyền thống... vì ý thức pháp luật là một loại hình ý thức xã
hội. Khi đã được thực hiện và xây dựng trên cơ sở ý thức pháp luật, pháp luật với tư
cách là phương tiện truyền tải những thông tin về các giá trị xã hội tiên tiến, lại tác
động ngược trở lại với ý thức pháp luật xã hội bằng cách nâng ý thức pháp luật cá
nhân lên ngang tầm ý thức pháp luật xã hội, và do đó nó tác động tích cực tới ý thức
xã hội nói chung. Ý thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, là tiền đề tư
tưởng trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật, là cơ
sở hình thành văn hóa pháp lý của các chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể có khả
năng và kỹ năng sử dụng có hiệu quả cơ chế điều chỉnh pháp luật để bảo vệ lợi ích
cho bản thân mình, cho nhà nước và xã hội, xử sự đúng đắn, phù hợp trong các mối
quan hệ xã hội.
Kết cấu của ý thức pháp luật là cách thức tổ chức bên trong của ý thức pháp
luật, trong đó, giữa các nhân tố cấu thành của ý thức pháp luật vừa thống nhất với nhau
vừa tác động ảnh hưởng lẫn nhau và với các hiện tượng khác trong đời sống xã hội.
Ý thức pháp luật là hiện tượng xã hội phức tạp, theo các lát cắt khác nhau, có
thể chia ý thức pháp luật thành những yếu tố cấu thành khác nhau. Mỗi cách phân chia
đều có ý nghĩa nhất định trong việc tìm hiểu bản chất, đặc điểm và vai trò của ý thức
pháp luật. Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ của luận văn chúng tôi theo cách tiếp cận
kết cấu ý thức pháp luật gồm hai bộ phận: Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật: Hệ tư tưởng pháp luật hình thành trong quá trình nhận
thức về mặt lý luận những lợi ích giai cấp, lợi ích xã hội, những nhiệm vụ, mục đích
của quá trình điều chỉnh pháp luật, tính giai cấp, tính xã hội của pháp luật... xu hướng
phát triển của hệ thống pháp luật... Hệ tư tưởng pháp luật là kết quả phản ánh những
điều kiện sinh hoạt vật chất, những quan hệ và cuộc đấu tranh giữa các lực lượng...
trong xã hội bằng sự khái quát thành lý luận, học thuyết về pháp luật tạo ra tri thức

16


pháp lý. Hệ tư tưởng pháp luật thường thể hiện tập trung trong cương lĩnh, nghị quyết

của đảng cầm quyền, trong các chính sách nhà nước, các bài nói, bài viết của các lãnh
tụ đảng và nhà nước, trong nội dung và các văn bản pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật là tổng hợp các tư tưởng, quan điểm, quan niệm có
tính chất lý luận và khoa học về pháp luật, phản ánh về pháp luật và các hiện tượng
pháp luật một cách sâu sắc, tự giác dưới dạng các khái niệm, các phạm trù khoa
học. Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các
vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật trên lập trường
của một giai cấp nhất định. Nó là cơ sở để sáng tạo các giá trị pháp luật, phổ biến
các tư tưởng, quan điểm pháp luật tiến bộ, nhân văn trong xã hội.
Hệ tư tưởng pháp luật phản ánh hiện thực một cách không trực tiếp, trực diện
mà phản ánh một cách gián tiếp dưới dạng các khái niệm, phạm trù, quan điểm, tư
tưởng… Hệ tư tưởng pháp luật là sự nhận thức ở trình độ lý luận, có tính hệ thống
về các vấn đề có tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật.
Nội dung của hệ tư tưởng pháp luật chủ yếu là những tri thức về vai trò, chức
năng, bản chất giai cấp của pháp luật, về mối quan hệ giữa pháp luật với dân chủ,
bình đẳng, công bằng tự do của con người, mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ
pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước về sáng tạo pháp luật và
thực hiện pháp luật.
Hệ tư tưởng pháp luật chính thống của một quốc gia bao giờ cũng là hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị (trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp thống trị là giai
cấp tư sản, trong xã hội XHCN giai cấp thống trị là giai cấp công nhân và nhân dân
lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Khi giai cấp thống trị là lực lượng
tiến bộ của xã hội, có lợi ích phù hợp với lợi ích căn bản của đông đảo các lực
lượng khác trong xã hội thì tính khoa học, tính dân chủ và tính xã hội của hệ tư
tưởng pháp luật sẽ thể hiện nổi bật, rõ nét. Ngược lại, nó sẽ trở thành hệ tư tưởng
pháp luật lạc hậu, thậm chí phản động. Song, dù có tiến bộ hay lạc hậu thì trong quá
trình tồn tại và phát triển, các hệ tư tưởng này luôn có ý thức chuyển hóa mạnh mẽ
thành ý thức pháp luật của toàn xã hội.
Hiện nay tư tưởng về pháp luật của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh được cụ thể hóa trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Một


17


trong những đặc điểm cơ bản nhất của sự hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam là
quá trình được hình thành tự giác dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, đây chính là
nhân tố quyết định của bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của ý thức
pháp luật. Muốn nâng cao được ý thức pháp luật chúng ta cần dựa trên quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về vai trò, bản chất của pháp luật làm cho các quan điểm đó trở thành hệ
tư tưởng pháp luật chi phối đời sống pháp luật toàn xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh đó Nhà nước phải kịp thời thể chế hóa đường lối chính trị của Đảng thành
pháp luật để đưa đường lối của Đảng đến toàn xã hội.
Để đảm bảo phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực, trước hết
pháp luật phải thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời là công cụ hữu
hiệu đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo cho nhân dân thực sự tham gia
vào quá trình xây dựng pháp luật, giám sát các cơ quan nhà nước trong việc thực thi
pháp luật. Thực tiễn cách mạng Việt Nam chỉ ra rằng những tư tưởng trên có vai trò
hết sức to lớn trong công tác xây dựng pháp luật, xây dựng nền pháp quyền XHCN
cũng như công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật XHCN.
Tâm lý pháp luật: Tâm lý pháp luật là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc,
thái độ, tình cảm đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lý cụ thể khác. Tâm lý
pháp luật được hình thành ở từng cá nhân, từng nhóm người, từng giai cấp hoặc cả xã
hội dưới ảnh hưởng của pháp luật và quá trình điều chỉnh pháp luật. Nó bao gồm tình
cảm, tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của các chủ thể pháp luật đối với pháp luật hiện
hành, quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, đối với pháp luật đã qua và pháp luật
hiện hành. Tâm lý pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện hành vi pháp luật
hợp pháp của chủ thể góp phần nâng cao phẩm giá, nhân cách con người, từ đó hình
thành trách nhiệm của mỗi người đối với bản thân, với gia đình, xã hội.

Tâm lý pháp luật là một hiện tượng tương đối bền vững, nó hình thành và biến
đổi chậm chạp cùng với truyền thống và thói quen của con người. Với tính chất của
nền kinh tế nước ta cho thấy, hiện nay ý thức pháp luật của nhiều dân cư còn thấp,
trong đó vẫn tồn tại một bộ phận dân cư chưa có thói quen sống và làm việc theo
pháp luật, thậm chí có bộ phận dân cư xem pháp luật như là sự trói buộc, thường tìm

18


cách trốn tránh, không tuân thủ pháp luật. Nhìn lại lịch sử Việt Nam cho thấy, thái độ
bất tuân pháp luật là hình thành và phát triển từ rất lâu, nó có những nguồn gốc căn
bản của nó, song đến thời điểm hiện tại đã không còn phù hợp. Cũng do việc định
hướng tình cảm chưa tốt, nên trong xã hội tâm lý ác cảm với người đại diện chính
quyền còn tồn tại, thậm chí còn sãn sàng tiếp tay cho kẻ xấu. Việc tác động để hình
thành những tình cảm, tâm lý đúng đắn đối với pháp luật, đối với hành vi của người
thừa hành pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc phòng ngừa những hành vi lệch
chuẩn đối với cả pháp luật và xã hội. Do người dân không hiểu biết đầy đủ về pháp
luật, dẫn tới tâm lý thiếu tự tin trong các công việc liên quan đến pháp luật, làm giảm
khả năng tự bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm hại, góp phần làm tăng khiếu kiện
bừa bãi, không đủ căn cứ, không đúng thủ tục... dẫn tới bất ổn xã hội.
Trình độ nhận thức cảm tính trong tâm lý pháp luật thể hiện ở thái độ của
nhân dân đối với pháp luật hiện hành và việc chấp hành các quy định của pháp luật.
Thái độ này có thể biểu hiện khi chưa có hiểu biết pháp luật và có thể khi đã có kiến
thức pháp luật thông thường nhưng về thái độ lại xem thường pháp luật. Chính vì thế,
quá trình hình thành ý thức pháp luật, trước tiên cần cho mọi người hiểu biết pháp
luật và xây dựng thái độ tôn trọng pháp luật. Trình độ hiểu biết pháp luật, văn hóa
pháp lý luôn là cơ sở cho sự nhận thức để hình thành ý thức pháp luật và củng cố
thái độ, niềm tin đối với pháp luật.
Trong những trạng thái của tâm lý pháp luật thì tình cảm pháp luật, pháp luật
là yếu tố năng động. Nếu chủ thể nhận thức được giá trị của pháp luật và cơ chế

điều chỉnh của pháp luật phù hợp với nguyện vọng, lợi ích nhu cầu của mình thì nảy
sinh tình cảm pháp luật tích cực. Ngược lại, sẽ xuất hiện tình cảm tiêu cực. Tình
cảm pháp luật này ảnh hưởng rất lớn tới thái độ tích cực hoặc tiêu cực của con
người đối với pháp luật.
Truyền thống, thói quen, niềm tin pháp luật là nhân tố tương đối ổn định
trong tâm lý pháp luật. Nó được hình thành trong một thời gian dài và trải qua thử
thách, giúp cho con người hoạt động một cách tự tin và kiên định, nó là yếu tố quan
trọng trong việc hình thành ý thức pháp luật.
Trong mọi lĩnh vực cũng phải cân nhắc cẩn thận việc tiếp thu, kế thừa truyền
thống thói quen, bởi vì truyền thống thói quen có cả mặt tích cực và mặt tiêu cực.

19


Chẳng hạn, do điều kiện lịch sử, đất nước ta nhìn chung chưa có thói quen sống và
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, do vậy trong quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền chúng ta phải khắc phục hạn chế này.
Là một bộ phận của ý thức xã hội, luôn gắn liền với truyền thống tập quán,
thói quen của con người, tâm lý pháp luật, ít biến đổi, biến đổi chậm chạp, do đó nó
bền vững, bảo thủ hơn so với tư tưởng pháp luật. Cho nên muốn xóa bỏ ý thức pháp
luật lạc hậu, xây dựng ý thức pháp luật XHCN thì cần phải có quá trình lâu dài,
phức tạp.
Hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật là hai trình độ, hai phương thức
khác nhau phản ánh tồn tại xã hội của ý thức pháp luật, nhưng chúng có mối quan
hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại với nhau. Trong mối quan hệ này thì hệ tư tưởng
pháp luật giữ vị trí trung tâm so với tâm lý pháp luật. Hệ tư tưởng pháp luật mang
tính tự giác, tính hệ thống, khoa học, còn tâm lý pháp luật hình thành một cách tự
phát, thiếu tính hệ thống và cơ sở khách quan khoa học. Hệ tư tưởng pháp luật tác
động mạnh mẽ tới tâm lý pháp luật đồng thời tâm lý pháp luật là tiền đề cho sự hình
thành và phát triển của tư tưởng, quan điểm pháp luật.

- Căn cứ vào trình độ nhận thức
Pháp luật của đảng và nhà nước có mối quan hệ mật thiết đối với ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân. Ý thức pháp luật là thước đo để đánh giá nhận
thức của con người đối với các vấn đề ý thức của con người đối với các vấn đề ý
thức lập pháp, là năng lực trong việc giải thích pháp luật, ý thức chấp hành pháp
luật. ý thức pháp luật có mối quan hệ mật thiết với chính sách pháp luật và giáo dục
pháp luật. Ý thức pháp luật là sản phẩm của quá trình phát triển xã hội chịu ảnh
hưởng sâu sắc của các hệ tư tưởng và quan niệm xã hội, cũng như chịu sự ảnh
hưởng trực tiếp của chính sách pháp luật.
Ý thức pháp luật thông thường: Ý thức pháp luật thông thường phản ánh
nhận thức đời sống pháp luật ở trình độ cảm tính, thông qua thực tiễn đời sống pháp
luật ở trình độ cảm tính, thông qua đời sống hàng ngày, chưa được khái quát hóa hệ
thống hóa.
Ý thức pháp luật thông thường là ý thức pháp luật ở mức độ phổ biến, nhận
thức còn hạn chế, thông qua sự phản ánh trực tiếp, giản đơn về các sự kiện, hiện

20


×