I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo các
nhà
nghiên cứu
tâm sinh lí
trẻ
em cho biết
nếu
trẻ
em không nhận
được
sự
trợ
giúp
đầy
đủ
để
phát
triển
các
kĩ
năng giao tiếp
bằng
lời
trong những
năm đầu
tiên của
cuộc
đời
thường
khó
khăn trong giao tiếp
xã
hội
và
phát
triển
cảm
xúc
khi các
em lớn
lên. Quá
trình
tư duy của
trẻ
thay đổi
kéo
theo việc
học
ngôn
ngữ
cũng
thay đổi.
Lúc
này
trường
tiểu
học
trở
thành
môi trường
giáo
dục
tốt
nhất
hướng
dẫn
trẻ
phát
triển
vốn
từ,
học
các
cấu
trúc
chính
xác
của
tiếng
mẹ
đẻ,
mở
mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách.
Những
điều
nêu trên cho thấy,
việc
học
tiếng
nói
chung và
việc
rèn
kĩ
năng nói
nói
riêng ở
tiểu
học
cần
dựa
trên nền
tảng
vốn
sống,
kinh nghiệm
sử
dụng
ngôn ngữ
của
trẻ
để
tiếp
tục
phát
huy năng lực
ngôn ngữ,
năng lực
tư duy bằng
ngôn ngữ
nói
của trẻ em.
Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ tiếng Việt,
nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri
thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện
cho các em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn
trọng người tham gia giao tiếp.
Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học sinh nói
không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gic. Nhiều học sinh nhút nhát
không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc
có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa. Thậm chí có một số em đã học
đến trung học cơ sở mà trước lớp học diễn đạt vẫn chưa trôi chảy. Đây là vấn đề
nhiều giáo viên gặp khó khăn khi giảng dạy và chưa hài lòng về học sinh củ
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Giúp các em giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ
nói. Thể hiện tình yêu đất nước, tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em trong lớp
học, trường học và trên lãnh thổ Việt Nam cũng như trên thế giới.
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh
3. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các em học sinh kh
ối 1 trong những năm học trước đây và học sinh
lớp 1A nói riêng của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ
năm học 2013 – 2014.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứ
u
Xuyên suốt trong quá trình dạy học học sinh khối 1 và học sinh lớp 1A của
trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014 và học kì 1 năm học
2014 2015.
1
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp trải nghiệm thực tế.
Phương pháp điều tra.
Phương pháp khảo nghiệm.
Phương pháp quan sát, thực hành theo mẫu.
Nghiên cứu tài liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Các
kĩ
năng sử
dụng
ngôn ngữ.
Ngôn ngữ
là
phương tiện
giao tiếp
quan
trọng
nhất
của
xã
hội
loài
người.
Ngôn ngữ
tồn
tại
dưới
hai dạng:
nói
và
viết.
Cũng
diễn
đạt
một
nội
dung nào
đó
bằng
phương tiện
ngôn ngữ,
có
thể
sử
dụng
dạng
nói
hoặc viết tùy theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn ca
Kĩ năng nói – một
điều
mà
bất
cứ
người
giáo
viên nào
khi đứng
trên bục
giảng
cũng
luôn mong muốn
ở
học
sinh mình
dạy
luôn thực
hiện
tốt.
Không chỉ
giáo viên mà ngay cả khi nghe người khác nói đúng, nói đủ, nói trọng tâm sẽ giúp
người nghe dễ hiểu nội dung câu chuyện. Có những người còn có giọng nói truyền
cảm sẽ dễ đi vào lòng người hơn. Và trong giao tiếp ngôn ngữ nói là phương tiện
giao tiếp thông dụng nhất, quan trọng nhất. Trong một tiết học, các hoạt động tác
động qua lại giữa giáo viên và học sinh đều thông qua ngôn ngữ nói sau đó mới
thực hành viết. Như vậy góp phần khẳng định nói là kĩ năng rất quan trọng trong
giao tiếp của con người.
2. Thực trạng
Do học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc
ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa bền vững.
Trường nằm ở vùng sâu, vùng xa, trong lớp còn có bốn loại học sinh dân
tộc và có ba loại học sinh dân tộc thiểu số trong đó có cả học sinh dân tộc thiểu số
tại chỗ và học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với báo chí, các phương
tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. ít
có điều kiện tiếp cận với môi trường mới lạ
nên ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế nhiều.
a. Thuận lợi – khó khăn
+ Thuận
lợi:
Sách
giáo
khoa môn Tiếng
Việt
hiện
nay tạo
ra nhiều
cơ hội
cho
học
sinh luyện
nói.
Ngay từ
những
bài
học
đầu
tiên của
lớp
1, học
sinh đã
được
luyện
nói
theo chủ
đề.
Những
chủ
đề
luyện
nói
cuối
mỗi
bài
học
vần
nếu
thực
hiện
tốt
sẽ
vừa
giúp
các
em ôn các
âm, vần
vừa
học,
vừa
tạo
không khí
học
tập
thoải
mái,
thân thiện,
vừa
góp
phần
rèn
kĩ
năng nói
theo chủ
đề
cho học
sinh. Sau phần
ôn tập
có
giành
thời
lượng
khoảng
10 > 12 phút
cho kể
chuyện.
Sang khoảng
giữa
kì
2 (hết
phần
học
vần
chuyển
sang phân môn tập
đọc
– lớp
1 có
tiết
kể
chuyện).
Nội
dung các
bài
của
phân môn kể
chuyện,
tập
làm
văn, tập
đọc,
luyện
từ
và
câu…
ở các lớp 2; 3; 4; 5
đã từng bước rèn luyện và phát triển kĩ năng nói c
2
+ Khó khăn: Trong quá trình dạy vì đa số các em là học sinh dân tộc thiểu
số tại chỗ. Khi ở nhà các em giao tiếp với gia đình hầu hết là tiếng mẹ đẻ nên vào
lớp 1 người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với học sinh nói chung
và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng.
b. Thành công – hạn chế
+ Thành
công: Hầu
hết
các
em được
học
qua do tôi chủ
nhiệm,
các
em đều
nói tốt, kĩ năng nói phát triển như nói đúng trọng tâm câu hỏi, nói đủ ý câu, biết
vươn lên trong học tập, có kĩ năng sống tốt hơn.
+ Hạn chế:
* Đối với giáo viên: Còn có giáo viên
Chưa kiểm
soát
kết
quả
học
sinh luyện
nói
theo nhóm
, khiến
việc
tổ
chức
cho học sinh hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả
Chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói có hiệu q
Chưa xá
c định
trọng
tâm của
giờ
học
cũng
như chưa linh hoạt
trong việc
tập trun
g vào những kĩ năng còn hạn chế
của học sinh.
* Đối
với
học
sinh: Các
em còn
lúng
túng
khi nói
chính
là
các
em còn
hạn
chế
vốn
sống,
vốn
hiểu
biết
và
kinh nghiệm
giao tiếp
dẫn
đến
việc
các
em không
biết
nói
gì
với
các
chủ
đề
luyện
nói
theo yêu cầu
bài
học
hoặc
trong quá
trình
học
tập.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
+ Mặt
mạnh:
Hầu
hết
các
em phát
huy được
những
ưu điểm
khi tôi hướng
dẫn
luyện nói qua các giờ học thông qua hoạt động giao tiếp “đàm thoại”
+ Mặt
yếu:
Những
em chưa thông thạo
Tiếng Việt việc hướng dẫn các em
luyện nói
có phần hạn chế.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian của lãnh đạo trường, sự phối hợp
đồng bộ của giáo viên trong toàn khối và giáo viên bộ môn, kết hợp với sự quan
tâm nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đối với từng học sinh kể cả vật chất lẫn tinh
thân nên việc đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh kết quả đạt được có khả thi.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Một tiết học tốt không có nghĩa là học sinh cứ khoanh tay, ngồi im lặng trong
khi giáo viên vẫn cứ giảng bài say sưa, để rồi khi cô hỏi, học sinh chẳng biết gì để
mà trả lời. Như vậy chúng ta lại quay lại phương pháp dạy học cũ: Là thầy nói – trò
nghe. Mà muốn để có tiết học tốt thì ta phải nghĩ tới hướng tích cực, giúp các em
tiếp thu bài một cách chủ động, độc lập trong suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo của
các em. Song khi các em đã suy nghĩ được điều mà mình biết, muốn nói nhưng lại
ngại không giám nói vì không biết bắt đầu từ đâu. Do vậy việc nắm bắt sự hiểu bài
của các em đối với giáo viên rất khó. Để có một tiết học sinh động, để giúp giáo
viên đánh giá được tất cả học sinh của mình dạy hiểu bài ở mức độ nào thì việc
đàm thoại trong mỗi tiết dạy đều rất quan trọng, thiết thực bắt đầu từ việc đàm thoại
mà giáo viên chỉ là người thiết kế (đưa ra các câu hỏi), động viên học sinh tham gia
trả lời, nhận xét lẫn nhau.
3
Có như thế đó mới là tiết học thực sự là lấy học sinh làm trung tâm. muốn
vậy thì việc
giúp
học
sinh nói
tốt
rất
cần
thiết
trong tất
cả
các
môn học
cũng
như
bất kì m
ột hoạt động giao tiếp nào.
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Đề tài đưa ra một số giải pháp, biện pháp nhằm giúp giáo viên hướng dẫn
các em có khả năng nói và kĩ năng nói tốt nâng cao chất lượng học tập cho các em.
Việc rèn nói cho các em nói tốt, nói thành thạo, nói đúng, nói đủ ý câu giúp
các em tự tin khi giao tiếp và lĩnh hội được kiến thức bài giảng của giáo viên đầy
đủ hơn, dễ hiểu hơn, hiểu sâu hơn. lôi kéo tất cả mọi đối tượng học sinh vào bài
học tốt hơn, hiệu quả cho tiết dạy của giáo viên vẹn toàn như mong muốn.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
+ Xây dựng kế hoạch bài dạy theo kì, theo bài.
+ Tìm hiểu đối tượng học sinh thông qua cha mẹ học sinh
+ Kết hợp các anh chị đội viên khi sinh hoạt sao.
+ Phối kết hợp với giáo viên dạy thay và dạy bộ môn.
+ Thông qua kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Rèn kĩ năng nói thông qua các môn học
Giáo viên cần xác định rõ nói là một trong bốn kĩ năng quan trọng ở tất cả
các môn học. Vì vậy kĩ năng nói cần được quan tâm đúng mức.
Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ
ràng cho mọi đối tượng học sinh đều hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu
câu hỏi thì phải chọn học sinh có trình độ phù hợp để trả lời ( dạy phân hóa theo
các đối tượng học sinh), không chỉ tập trung vào những học sinh có năng khiếu
nói
tốt
mà phải giành cho tất cả mọi đối tượng học sinh đều được tham gia nói. Cũng
không nhất thiết cứ phải tới mục luyện nói của môn Tiếng Việt thì các em mới
được tham gia nói mà ngay trong quá trình giảng dạy ở tất cả các môn, các em đều
được
tham gia nói.
+ Trong môn toán
:
(Ví dụ: Giáo viên hỏi: 2 + 3 = ? (hai cộng ba bằng mấy? ) – thường thì học
sinh chỉ trả lời luôn kết quả: 5 hoặc bằng 5. Lúc này giáo viên giúp đỡ học sinh
hiểu ngoài việc nói đúng ra cần phải nói đủ ý câu như: hai cộng ba bằng năm
(2 + 3 = 5) và cho học sinh nhận xét câu trả lời của bạn. Khi học sinh tham gia
nhận xét câu trả lời của bạn mình đó cũng là hình thức giúp các em luyện nói: Như
ví dụ trên khi bạn trả lời, học sinh khác sẽ tham gia nhận xét bạn: Thưa cô bạn nói
đúng nhưng chưa đủ ý câu: (5 hoặc bằng 5). Hoặc bạn nói đúng, đủ, nói to, rõ ràng
ạ như vậy đã thể hiện hình thức tăng cường Tiêng Việt cho học sinh và giúp người
nghe hiểu trọn vẹn nội dung đề yêu cầu. Ngoài
ra trong quá
trình
hình
thành
các
phép
tính,
giáo
viên hướng
dẫn
cho các
em nói
thông qua các
các
hình
vẽ
(trực
quan) hoặc
đồ
dùng
có
sẵn,
từ
các
bài
học
nhận
biết
số
cho đến
các
phép
tính
và
sau
là toán giải có lời văn.
Giúp các em tự lĩnh hội được kĩ năng nói Tiếng Việt tốt hơn.
Ví dụ: Cho tóm tắt bài toán:
4
Mai có: 10 kẹo
Mai cho: 4 kẹo
Mai còn:…kẹo?
Từ tóm tắt bài toán, các em sẽ phải hiểu được nội dung trọn vẹn của đề và
giáo viên thường yêu cầu nhìn tóm tắt, đọc đề toán, Ở đây đã triển khai từ thu hẹp
góc độ đề sẽ mở rộng đề qua ngôn ngữ nói: Mai có 10 kẹo, Mai cho bạn 4 kẹo. Hỏi
Mai còn lại mấy(bao nhiêu) kẹo? để từ đó giúp các em giải bài toán có lời giải
đúng, đủ, rõ nghĩa.
+ Trong môn âm nhạc:
Trong quá
trình
dạy
môn âm nhạc
(phần
dạy
lời
bài
hát),
bao giờ
giáo
viên
cũng
cho các
em được
đọc
lời
bài
hát.
Đó
cũng
là
một
phần
trong việc
rèn
nói
(nói
đúng
lời
bài
hát),
sau đó
hướng
dẫn
các
em hát
và
yêu cầu
hát
thuộc
lời
bài
hát.
Khi
các
em tập
hát
to, ngay cả
khi chúng
ở
nhà
một
mình,
trẻ
sẽ
vượt
qua nỗi
sợ
diễn
thuyết.
hát
thuộc
lời
bài
hát
đúng
giai điệu
bài
hát
đó
được
đánh
giá
là
có
năng
khiếu hát, góp phần tham gia vào kĩ năng nói.
+ Trong môn Tiếng Việt:
Cuối
mỗi
bài
(phân môn học
vần)
đều
có
mục
luyện
nói
song không phải
cứ
đến
mục
này
thì
các
em mới
được
tham gia nói,
mà
trong quá
trình
đàm
thoại
như
khi bắt
đầu
vào
học
vần
mới
là
nhận
diện
vần,
các
em đã
được
tham gia nóí,
giáo
viên định
hướng,
uốn
nắn
cho học
sinh nói
từ nói đúng
đến
nói
đủ,
không nên trả
lời trống không.
Ví dụ khi dạy vần ôt ơt (bài 70
)
Dạy vần ôt: Ghi và hướng dẫn học sinh nhận diện vần.
Vần
gồm
mấy
âm? (Học
sinh trả
lời:
Vần
gồm
hai âm: Âm ô đứng
trước,
âm t
đứng
sau). Đến
đây giáo
viên cũng
cần
uốn
nắn
ngay từ
đầu
để
các
em cần nói
đúng,
đủ
, kể
cả
học
sinh khác
tham gia nhận
xét
cũng
vậy.
(ví
dụ:
Em thưa cô bạn
trả lời đúng,
đủ
rồi
ạ;
hoặc
bạn
nói
(trả
lời)
đúng
(gần
đúng)
rồi
ạ)
. Không nên để
học sinh trả lời
cộc lốc như: đúng – sai qua ngôn ngữ nói
Đến
khi xây dựng
tiếng:
Đã
có
vần
ôt, muốn
có
tiếng
cột
ta phải
thêm âm gì
và
thanh gì
? (Thường
thì
học
sinh hay trả
lời:
âm c và
thanh nặng
), nhưng giáo
viên
cần
uốn
nắn
cho các
em nói
đúng,
đủ
ý
câu: (Đã
có
vần
ôt, muốn
có
tiếng
cột
ta
phải thêm âm c đứng trước vần ôt và thêm thanh nặng dưới âm ô)
.
Khi xây dựng
và
rút
ra từ
khóa:
cột
cờ.
Giáo
viên cần
giúp
đỡ
các
em nói
được:
Từ
cột cờ có hai tiếng, tiếng cột đứng trước, tiếng cờ sau.
Khi dạy
đến
vần
2 (ơt), yêu cầu
so sánh
hai vần,
giúp
các
em nói
được:
hai vần
giống
nhau đều
có
âm (t) đứng
cuối
vần;
hai vần
khác
nhau hai âm đầu
vần
(âm ô
khác âm ơ).
Như vậy
cứ
sau một
hoạt
động,
giáo
viên đều
cho các
em tự
nhận
xét
về
câu
trả
lời
của
bạn,
đó
cũng
chính là
hình
thức
tăng cường
Tiếng
Việt
(hay đó chính là
động viên các em phát triển lời nói tự nhiên). Giáo
viên cần
quan sát
và
nếu
còn
có
học
sinh luyện
nói
chưa tốt,
giáo
viên nên hướng
dẫn
cho các
em thực
hành
nói
theo mẫu.
5
Phần
luyện
nói
theo chủ
đề
là
một
nội
dung nhằm
phát
triển
ngôn ngữ
tự
nhiên của
trẻ,
do vậy
sau mỗi
bài
học
nào
cũng
có
mục
luyện
nói
theo chủ
đề,
tùy
thuộc
vào
tình
hình
thực
tế
nơi các
em sinh sống
và
chủ
đề
mà
giáo
viên điều
chỉnh
cho phù
hợp
nội
dung luyện
nói.
Để
đạt
được
kết
quả
trong mục
luyện
nói
này,
giáo
viên nên định
hướng
cho các
em về
chủ
đề
thành
những
nội
dung cụ
thể
và
nên tổ
chức
hoạt
động
theo nhóm
2, không nên tổ
chức
hoạt
động
theo nhóm
lớn
vì
như
thế
các
em sẽ
ít
được
tham gia nói
. Nếu
hoạt
động
theo nhóm
2 thì
sẽ giúp
học
sinh
hỏi
– trả
lời
theo chủ
đề,
có
đổi
qua lại
hỏi
– đáp
để
học
nào
cũng
được
tham gia
nói
. Khi học
sinh tham gia hoạt
động
nhóm
thì
giáo viên cần
theo dõi
và
không bỏ
sót
một
trẻ
nào
khi yêu cầu
trẻ
trả
lời
câu hỏi,
giáo
viên không nên chú
ý
đến
những
em hay giơ tay. Giáo
viên cần
đảm
bảo
tạo
cơ hội
cho tất
cả
các
học
sinh lần
lượt
được
nói
trước
lớp.
Chính
vì
thế
việc
phân nhóm
nhỏ
để
tập
trung nói
là
rất
cần
thiết.
Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo
viên cần hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và
nói lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra.
Trong quá trình đàm thoại, giáo viên phát hiện ra học sinh phát âm chưa
đúng, hay dùng từ chưa chính xác
trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa
chữa ngay và cho các em nói lại thành câu hoàn chỉnh để ghi nhớ.
Cuối
mỗi
bài
ôn tập
phần
học
vần
có
mục
kể
chuyện,
sang dạy
phân môn tập
đọc
ở cuối mỗi bài dạy( phần luyện đọc) đều có phần luyện nói câu có chứa vần…
cần ôn. Và cuối mỗi chủ điểm đều có
một
tiết
dạy kể
chuyện
cụ thể. Tập
đọc
và
kể
chuyện
cũng
là
một
cách rèn
nói
cho học
sinh có kĩ năng nói tốt. Đối
với
học
sinh
có kĩ năng nói tốt sẽ có giọng đọc tốt, kể chuyện truyền cảm.
* Kết hợp với giáo viên
bộ môn và giáo viên
dạy thay.
Đối với giáo viên dạy các môn chuyên biệt (thể dục, m
ĩ thuật…) và giáo viên
dạy thay, tôi thường xuyên gặp và trao đổi để cùng với giáo viên chủ nhiệm nhắc
nhở, uốn nắn cách trả lời của các em ngay trong từng tiết học, môn học để các em
thấy được thầy cô nào cũng quan tâm, cũng có trách nhiệm mong muốn các em tiến
bộ. Từ đó các em sẽ cố gắng thực hiện một cách tự giác để sớm hoàn thành nhiệm
vụ học tập và để tất cả các thầy cô được vui.
* Kết hợp với gia đình
học sinh.
Nhiều phụ huynh học sinh cho rằng con đọc tốt, viết tốt, (thực hành) làm bài
tập đúng là đủ. Lúc này giáo viên cần định hướng cho họ hiểu về các kĩ năng cần
và đủ của một học sinh. Vì vậy giáo viên cần tuyên truyền tới phụ huynh học sinh
vào các buổi họp cha mẹ học sinh giúp họ hiểu phát triển toàn diện về một học sinh
có năng khiếu một cách đúng đắn, về tầm quan trọng của việc học nói chung và về
kĩ năng nói nói riêng. Cần giúp họ hiểu việc giáo dục, động viên các em thì phụ
huynh phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng có chừng mực, lịch sự, nhã
nhặn với mọi người xung quanh để các em học tập, noi theo. Khuyến
khích
phụ
huynh có
con học
tập
tiến
bộ
bằng
phần thưởng
như: Cho đi tham quan, du lịch…
giúp các em phát triển tri giác nhiều sẽ tốt cho các em khi làm văn sau
6
Tuyên truyền tới cha mẹ
học
sinh giúp
con mình
phát
triển
kĩ
năng ngôn ngữ
nói
Tiếng Việt tại nhà như: Nói đúng theo nội dung, đủ ý câu, lưu loát.
Đối
với
phụ
huynh là
người
dân tộc
thiểu
số:
Giáo
viên cần
gặp
trực
tiếp
và
góp
ý
khi giao tiếp
ở
nhà
bằng
tiếng
Việt,
không nên nói
tiếng
mẹ
đẻ
nhiều
nhưng
vẫn cần giữ gìn bản sắc
văn hoá, phong tục tập quán riêng.
* Kết hợp với anh ( chị ) đội viên khi sinh hoạt sao.
Đối với học sinh lớp một việc ghi nhớ của các em chưa được vững chắc, dễ
nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt ra giáo
viên cần duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy ở
các hoạt
động
giao tiếp
khác
như: Khi các
em tham gia sinh hoạt
sao được
các
anh
chị
đội
viên lớp
trên xuống
sinh hoạt,
giáo
viên nên hướng
dẫn
và
kết
hợp
với
anh
chị
đội
viên này
để
hướng
dẫn
các
em hát,
múa,
thể
dục….
Giúp
các
em mạnh
dạn,
tự tin trước tập thể, góp phần mạnh dạn khi nói trước đám đông.
*Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời.
Mỗi
khi học
sinh học
tập
tốt
ở
tất
cả
mọi
lĩnh
vực
trong đó
có
phần
luyện
nói,
kĩ
năng nói
tốt
thì
giáo
viên cần
tuyên dương kịp
thờì,
đây là
động
lực
thúc
đẩy
có
hiệu
quả
cao nhất
giúp
các
em đã
làm
tốt
phát
huy, những
em chưa mạnh
dạn,
chưa tự
tin khi nói
cũng
tự
điều
chỉnh.
Không nên chê hoặc
phạt
khi các
em nói
chưa đúng
theo ý
mình
mà
cần
giúp
các
em hiểu
nội
dung cần
nói
để
các
em tham
gia nói
tích
cực.
Đối
với
học
sinh tiểu
học,
giáo
viên là
người
chuẩn
mực
nhất,
tuyệt
vời
nhất,
nói
gì
cũng
đúng.
Chính
vì
thế
nên giáo
viên phải
có
kĩ
năng nói
chuẩn, đúng, ngoài ra cần có kĩ năng
nói truyền cảm khi kể chuyện.
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.
Giáo viên cần nắm vững và hiểu rõ vai trò
của
việc
nói
và
kĩ
năng nói.
Cần
có
sự
hỗ trợ đồng bộ của giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay cũng như kinh
nghiệm của giáo viên trong toàn khối 1.
d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp như tôi vừa trình bày nó có quan hệ
lôgic xuyên suốt
trong quá
trình
dạy
học
kể
cả
giờ
học
chính
khoá
cũng
như ngoại
khoá cũng như tiết sinh hoạt lớp.
e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Qua khảo nghiệm thu được những kết quả khả thi. Đa số học sinh nói
tốt
và
có
kĩ
năng nói
tốt.
Nói
đúng,
nói
đủ
ý
câu, góp phần nâng cao chất lượng học tập
cho các em.
Kết quả khảo nghiệm năm học 2013 – 2014 của lớp 1A trường tiểu học
Hoàng Văn Thụ do tôi chủ nhiệm ( TSHS 17 em, trong đó
có
2 học
sinh khuyết
tật
nặng
; 10 em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ).
Mức độ
7
Nói trống không
Nói chưa đủ ý
Nói
đúng,
đủ
ý Tham gia nhận Phát
triển
lời
nói
câu (trả lời)
xét
đánh
giá
bạn tự nhiên
nói
10 > 15 %
Giai đoạn
Đầu
học
năm
Cuối năm
học
97 > 99%
90 >95%
8 > 10 %
15 > 17 %
1 > 0 %
2 > 1 %
98 > 100% 98 > 100% 94 > 96 %
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu.
Những giải pháp, biện pháp này vẫn được tôi tiếp tục vận dụng trong năm
học 2014 2015 và thu được kêt quả rất tốt trong học kì 1 này
.
Đề tài rèn
kĩ
năng nói
cho học
sinh lớp
1có tác động tới giáo viên trong toàn
khối 1 của trường. Đề tài có thể nghiên cứu và phát triển cao hơn.
Như vậy
để
có
tiết
học
tốt,
giờ
học
tốt,
trước
hết
người
giáo
viên phải
định
hướng
cho các
em chăm chú
nghe giảng,
tham gia nói,
có
kĩ
năng nói
tốt
. Thực
tế
cho thấy
giáo
viên chủ
nhiệm
càng
quan tâm tới
bốn
kĩ
năng: nghe, nói,
đọc,
viết
và
đặc
biệt
là
kĩ
năng nói
bao nhiêu thì
các
em học
tốt
bấy
nhiêu. Và
qua kinh nghiệm
này
của
tôi, tôi thiết
nghĩ
đã
góp
phần
thúc
đẩy
động
cơ học
tập
cho các
em, giúp
các
em tự
tin trong học tập, mạnh
dạn
trong giao tiếp
thông qua ngôn ngữ
nói,
giúp
các em lĩnh hội bài học một cách có chủ động và hiểu bài sâu hơn, tốt hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Muốn có chất lượng trong giờ dạy tốt thì việc đầu tiên người giáo viên phải
xây dựng được
kế
hoạch
bài
dạy
dài
hạn
và
theo từng
chủ
đề,
từng
bài
theo hướng
đổi
mới
. Vậy muốn cho học
sinh nói
tốt,
trước hết người giáo viên phải nắm được
vai trò của việc
luyện
nói
cũng
như kĩ
năng nói.
người giáo viên chủ nhiệm phải
biết xây dựng kế hoạch lâu dài và ngắn hạn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
học sinh địa phương.
Cần phối hợp đồng bộ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo
viên dạy thay; với cha mẹ học sinh; với giáo viên trong toàn khối 1 nói riêng và các
khối lớp khác trong trường được tốt.
2. Kiến nghị
Đối
với
lãnh
đạo
cần
mở
chuyên đề
(một
tiết
dạy
) cụ
thể
về
hình
thức
tăng
cường
Tiếng
Việt
“ cần
có
điểm
nhấn
” cho học
sinh như vùng
có
nhiều
học
sinh là
học sinh dân tộc thiểu số đang theo học đặc biệt là lớp một.
Người viết.
Phạm Thị Hòe
8
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
...................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
...................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
9
TT
Tên tài liệu
Tên tác giả
Nhà xuất
bản
1
Tâm lí lứa tuổi học
sinh
2
Một
số
biện
pháp
nâng CNĐT – TS: Trần
Thị
cao hiệu
quả
rèn
kĩ Hiền Lương
năng nói
cho học
sinh
tiểu học.
Tham khảo tài liệu
trên mạng internet
3
MỤC LỤC
10
Năm xuất
bản
Thời gian
thực hiện: 5/
2007 – 12/
2008
Mục
Trang
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
1
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
II. Phần nội dung
2
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng:
a/ Thuận lợi – khó khăn
b/ Thành công – hạn chế
c/ mặt mạnh – mặt yếu
d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 3
e/ Phân tích,
đánh
giá
các
vấn
đề
và
thực
trạng
mà
đề
tài
đã đặt ra
3. Giải pháp, biện pháp
4
a/ Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
5; 6
b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
7
e/ Kết
quả
khảo
nghiệm,
giá
trị
khoa học
của
vấn
đề
nghiên cứu.
4. Kết
quả
rhu được
qua khảo
nghiệm,
giá
trị
khoa học
của vấn đề nghiên cứu.
III. Phần kết luận, kiến nghị
8
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
10
11