Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

skkn rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.75 KB, 11 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Theo các 
nhà 
nghiên cứu 
tâm sinh lí 
trẻ 
em cho biết 
nếu 
trẻ 
em không nhận 
được 
sự 
trợ 
giúp 
đầy 
đủ 
để 
phát 
triển 
các 
kĩ 
năng giao tiếp 
bằng 
lời 
trong những 
năm đầu 
tiên của 
cuộc 
đời 


thường 
khó 
khăn trong giao tiếp 
xã 
hội 
và 
phát 
triển 
cảm 
xúc 
khi các 
em lớn 
lên. Quá 
trình 
tư duy của 
trẻ 
thay đổi 
kéo 
theo việc 
học 
ngôn 
ngữ 
cũng 
thay đổi. 
Lúc 
này 
trường 
tiểu 
học 
trở 

thành 
môi trường 
giáo 
dục 
tốt 
nhất 
hướng 
dẫn 
trẻ 
phát 
triển 
vốn 
từ, 
học 
các 
cấu 
trúc 
chính 
xác 
của 
tiếng 
mẹ 
đẻ, 
mở 
mang hiểu biết, hoàn thiện nhân cách.
Những 
điều 
nêu trên cho thấy, 
việc 
học 

tiếng 
nói 
chung và 
việc 
rèn 
kĩ 
năng nói 
nói 
riêng ở 
tiểu 
học 
cần 
dựa 
trên nền 
tảng 
vốn 
sống, 
kinh nghiệm 
sử 
dụng 
ngôn ngữ 
của 
trẻ 
để 
tiếp 
tục 
phát 
huy năng lực 
ngôn ngữ, 
năng lực 

tư duy bằng 
ngôn ngữ 
nói 
của trẻ em. 
Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ tiếng Việt, 
nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri 
thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu 
đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn rèn luyện 
cho các em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với bản thân và tôn 
trọng người tham gia giao tiếp.
Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học sinh nói 
không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gic. Nhiều học sinh nhút nhát 
không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ, mình biết hoặc 
có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa. Thậm chí có một số em đã học 
đến trung học cơ sở mà trước lớp học diễn đạt vẫn chưa trôi chảy. Đây là vấn đề 
nhiều giáo viên gặp khó khăn khi giảng dạy và chưa hài lòng về học sinh củ
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Giúp các em giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt qua ngôn ngữ 
nói. Thể hiện tình yêu đất nước, tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em trong lớp 
học, trường học và trên lãnh thổ Việt Nam cũng như trên thế giới. 
Góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh
3. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các em học sinh kh
ối 1 trong những năm học trước đây và học sinh 
lớp 1A nói riêng của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ 
năm học 2013 – 2014.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứ
u
Xuyên suốt trong quá trình dạy học học sinh khối 1 và học sinh lớp 1A của 

trường tiểu học Hoàng Văn Thụ năm học 2013 – 2014 và học kì 1 năm học 
2014 ­ 2015.  
1


5. Phương pháp nghiên cứu
­ Phương pháp trải nghiệm thực tế.
­ Phương pháp điều tra.
­ Phương pháp khảo nghiệm.
­ Phương pháp quan sát, thực hành theo mẫu.
 
­ Nghiên cứu tài liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận
Các 
kĩ 
năng  sử 
dụng 
ngôn  ngữ. 
Ngôn  ngữ 
là 
phương  tiện 
giao  tiếp 
quan 
trọng 
nhất 
của 
xã 
hội 

loài 
người. 
Ngôn ngữ 
tồn 
tại 
dưới 
hai dạng: 
nói 
và 
viết. 
Cũng 
diễn 
đạt 
một 
nội 
dung nào 
đó 
bằng 
phương tiện 
ngôn ngữ, 
có 
thể 
sử 
dụng 
dạng 
nói 
hoặc viết tùy theo yêu cầu, mục đích, đối tượng, điều kiện, hoàn ca
Kĩ  năng  nói  –  một 
điều 
mà 

bất 
cứ 
người 
giáo 
viên  nào 
khi  đứng 
trên  bục 
giảng 
cũng 
luôn  mong  muốn 
ở 
học 
sinh  mình 
dạy 
luôn  thực 
hiện 
tốt. 
Không  chỉ 
giáo viên mà ngay cả khi nghe người khác nói đúng, nói đủ, nói trọng tâm sẽ giúp 
người nghe dễ hiểu nội dung câu chuyện. Có những người còn có giọng nói truyền 
cảm sẽ dễ đi vào lòng người hơn. Và trong giao tiếp ngôn ngữ nói là phương tiện 
giao tiếp thông dụng nhất, quan trọng nhất. Trong một tiết học, các hoạt động tác 
động  qua  lại  giữa  giáo  viên  và  học  sinh  đều  thông  qua  ngôn  ngữ  nói  sau  đó  mới 
thực hành viết. Như vậy góp phần khẳng định nói là kĩ năng rất quan trọng trong 
giao tiếp của con người.  
2. Thực trạng
­ Do học sinh lớp 1 đa số rất hiếu động, dễ nhớ nhưng lại mau quên nên việc 
ghi nhớ lời thầy cô dạy là chưa bền vững.
 ­ Trường nằm ở vùng sâu, vùng xa, trong lớp còn có bốn loại học sinh dân 
tộc và có ba loại học sinh dân tộc thiểu số trong đó có cả học sinh dân tộc thiểu số 

tại chỗ và học sinh còn nhiều thiếu thốn, điều kiện tiếp cận với báo chí, các phương 
tiện thông tin đại chúng chưa nhiều. ít
 có điều kiện tiếp cận với môi trường mới lạ 
nên ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế nhiều.
a. Thuận lợi – khó khăn
+ Thuận 
lợi:
 Sách 
giáo 
khoa môn Tiếng 
Việt 
hiện 
nay tạo 
ra nhiều 
cơ hội 
cho 
học 
sinh  luyện 
nói. 
Ngay  từ 
những 
bài 
học 
đầu 
tiên  của 
lớp 
1,  học 
sinh  đã 
được 
luyện 

nói 
theo chủ 
đề. 
Những 
chủ 
đề 
luyện 
nói 
cuối 
mỗi 
bài 
học 
vần 
nếu 
thực 
hiện 
tốt 
sẽ 
vừa 
giúp 
các 
em  ôn  các 
âm,  vần 
vừa 
học, 
vừa 
tạo 
không  khí 
học 
tập 

thoải 
mái, 
thân thiện, 
vừa 
góp 
phần 
rèn 
kĩ 
năng nói 
theo chủ 
đề 
cho học 
sinh. Sau phần 
ôn tập 
có 
giành 
thời 
lượng 
khoảng 
10 ­> 12 phút 
cho kể 
chuyện. 
Sang khoảng 
giữa 
kì 
2 (hết 
phần 
học 
vần 
chuyển 

sang phân môn tập 
đọc 
– lớp 
1 có 
tiết 
kể 
chuyện). 
Nội 
dung các 
bài 
của 
phân môn kể 
chuyện, 
tập 
làm 
văn, tập 
đọc, 
luyện 
từ 
và 
câu… 
ở các lớp 2; 3; 4; 5
 đã từng bước rèn luyện và phát triển kĩ năng nói c
2


+ Khó khăn: ­ Trong quá trình dạy vì đa số các em là học sinh dân tộc thiểu 
số tại chỗ. Khi ở nhà các em giao tiếp với gia đình hầu hết là tiếng mẹ đẻ nên vào 
lớp 1 người giáo viên gặp rất nhiều khó khăn khi giao tiếp với học sinh nói chung 
và học sinh dân tộc thiểu số nói riêng. 

b. Thành công – hạn chế
+ Thành 
công: Hầu 
hết 
các 
em được 
học 
qua do tôi chủ 
nhiệm, 
các 
em đều 
nói tốt, kĩ năng nói phát triển như nói đúng trọng tâm câu hỏi, nói đủ ý câu, biết 
vươn lên trong học tập, có kĩ năng sống tốt hơn.
+ Hạn chế: 
* Đối với giáo viên: Còn có giáo viên
­ Chưa kiểm 
soát 
kết 
quả 
học 
sinh luyện 
nói 
theo nhóm
, khiến 
việc 
tổ 
chức 
cho học sinh hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức, chưa hiệu quả
­ Chưa có biện pháp khuyến khích học sinh luyện nói có hiệu q
­ Chưa xá

c định 
trọng 
tâm của 
giờ
  học 
cũng 
như chưa linh hoạt 
trong việc 
tập trun
g vào những kĩ năng còn hạn chế
 của học sinh.
* Đối 
với 
học 
sinh: ­ Các 
em còn 
lúng 
túng 
khi nói 
chính 
là 
các 
em còn 
hạn 
chế 
vốn 
sống, 
vốn 
hiểu 
biết

 và 
kinh nghiệm 
giao tiếp 
dẫn 
đến 
việc 
các 
em không 
biết 
nói 
gì 
với 
các 
chủ 
đề 
luyện 
nói 
theo yêu cầu 
bài 
học 
hoặc 
trong quá 
trình 
học 
tập.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
+ Mặt 
mạnh: 
­ Hầu 
hết 

các 
em phát 
huy được 
những 
ưu điểm 
khi tôi hướng 
dẫn 
luyện nói qua các giờ học thông qua hoạt động giao tiếp “đàm thoại”
+ Mặt 
yếu: 
­ Những 
em chưa thông thạo 
Tiếng Việt việc hướng dẫn các em 
luyện nói
 có phần hạn chế.
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: 
­ Nhờ sự tạo điều kiện giúp đỡ về thời gian của lãnh đạo trường, sự phối hợp 
đồng bộ của giáo viên trong toàn khối và giáo viên bộ môn, kết hợp với sự quan 
tâm nhiệt tình của giáo viên chủ nhiệm đối với từng học sinh kể cả vật chất lẫn tinh 
thân nên việc đồng tình ủng hộ của cha mẹ học sinh kết quả đạt được có khả thi.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề và thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Một tiết học tốt không có nghĩa là học sinh cứ khoanh tay, ngồi im lặng trong 
khi giáo viên vẫn cứ giảng bài say sưa, để rồi khi cô hỏi, học sinh chẳng biết gì để 
mà trả lời. Như vậy chúng ta lại quay lại phương pháp dạy học cũ: Là thầy nói – trò 
nghe. Mà muốn để có tiết học tốt thì ta phải nghĩ tới hướng tích cực, giúp các em 
tiếp thu bài một cách chủ động, độc lập trong suy nghĩ, phát huy tính sáng tạo của 
các em. Song khi các em đã suy nghĩ được điều mà mình biết, muốn nói nhưng lại 
ngại không giám nói vì không biết bắt đầu từ đâu. Do vậy việc nắm bắt sự hiểu bài 
của các em đối với giáo viên rất khó. Để có một tiết học sinh động, để giúp giáo 
viên  đánh  giá  được  tất  cả  học  sinh  của  mình  dạy  hiểu  bài  ở  mức  độ  nào  thì  việc 

đàm thoại trong mỗi tiết dạy đều rất quan trọng, thiết thực bắt đầu từ việc đàm thoại 
mà giáo viên chỉ là người thiết kế (đưa ra các câu hỏi), động viên học sinh tham gia 
trả lời, nhận xét lẫn nhau.
3


Có như thế đó mới là tiết học thực sự là lấy học sinh làm trung tâm. muốn 
vậy thì việc 
giúp 
học 
sinh nói 
tốt 
rất 
cần 
thiết 
trong tất 
cả 
các 
môn học 
cũng 
như 
bất kì m
ột hoạt động giao tiếp nào.
3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Đề  tài  đưa  ra  một  số  giải  pháp,  biện  pháp  nhằm  giúp  giáo  viên  hướng  dẫn 
các em có khả năng nói và kĩ năng nói tốt nâng cao chất lượng học tập cho các em.
Việc rèn nói cho các em nói tốt, nói thành thạo, nói đúng, nói đủ ý câu giúp 
các em tự tin khi giao tiếp và lĩnh hội được kiến thức bài giảng của giáo viên đầy 
đủ hơn, dễ hiểu hơn, hiểu sâu hơn. lôi kéo tất cả mọi đối tượng học sinh vào bài 

học tốt hơn, hiệu quả cho tiết dạy của giáo viên vẹn toàn như mong muốn.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
+ Xây dựng kế hoạch bài dạy theo kì, theo bài.
+ Tìm hiểu đối tượng học sinh thông qua cha mẹ học sinh
+ Kết hợp các anh chị đội viên khi sinh hoạt sao.
+ Phối kết hợp với giáo viên dạy thay và dạy bộ môn.
+ Thông qua kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Rèn kĩ năng nói thông qua các môn học
­ Giáo viên cần xác định rõ nói là một trong bốn kĩ năng quan trọng ở tất cả 
các môn học. Vì vậy kĩ năng nói cần được quan tâm đúng mức.
­ Khi tổ chức đàm thoại ở lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ 
ràng cho mọi đối tượng học sinh đều hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu 
câu hỏi thì phải chọn học sinh có trình độ phù hợp để trả lời ( dạy phân hóa theo 
các đối tượng học sinh), không chỉ tập trung vào những học sinh có năng khiếu 
nói 
tốt 
mà phải giành cho tất cả mọi đối tượng học sinh đều được tham gia nói. Cũng 
không  nhất  thiết  cứ  phải  tới  mục  luyện  nói  của  môn  Tiếng  Việt  thì  các  em  mới 
được tham gia nói mà ngay trong quá trình giảng dạy ở tất cả các môn, các em đều 
được 
tham gia nói.
+ Trong môn toán
:
 (Ví dụ:  Giáo viên hỏi: 2 + 3 = ? (hai cộng ba bằng mấy? ) – thường thì học 
sinh  chỉ  trả  lời  luôn  kết  quả:  5  hoặc  bằng  5.  Lúc  này  giáo  viên  giúp  đỡ  học  sinh 
hiểu ngoài việc nói đúng ra cần phải nói đủ ý câu như: hai cộng ba bằng năm 
(2  +  3  =  5)  và  cho  học  sinh  nhận  xét  câu  trả  lời  của  bạn.  Khi  học  sinh  tham  gia 
nhận xét câu trả lời của bạn mình đó cũng là hình thức giúp các em luyện nói: Như 
ví dụ trên khi bạn trả lời, học sinh khác sẽ tham gia nhận xét bạn: Thưa cô bạn nói 
đúng nhưng chưa đủ ý câu: (5 hoặc bằng 5). Hoặc bạn nói đúng, đủ, nói to, rõ ràng 

ạ như vậy đã thể hiện hình thức tăng cường Tiêng Việt cho học sinh và giúp người 
nghe hiểu trọn vẹn nội dung đề yêu cầu. Ngoài 
ra trong quá 
trình 
hình 
thành 
các 
phép 
tính, 
giáo 
viên  hướng 
dẫn 
cho  các 
em  nói 
thông  qua  các 
các 
hình 
vẽ 
(trực 
quan) hoặc 
đồ 
dùng 
có 
sẵn, 
từ 
các 
bài 
học 
nhận 
biết 

số 
cho đến 
các 
phép 
tính 
và 
sau 
là toán giải có lời văn. 
Giúp các em tự lĩnh hội được kĩ năng nói Tiếng Việt tốt hơn.
Ví dụ: Cho tóm tắt bài toán:
4


Mai có: 10 kẹo
Mai cho: 4 kẹo
Mai còn:…kẹo?
Từ tóm tắt bài toán, các em sẽ phải hiểu được nội dung trọn vẹn của đề và 
giáo viên thường yêu cầu nhìn tóm tắt, đọc đề toán, Ở đây đã triển khai từ thu hẹp 
góc độ đề sẽ mở rộng đề qua ngôn ngữ nói: Mai có 10 kẹo, Mai cho bạn 4 kẹo. Hỏi 
Mai  còn  lại  mấy(bao  nhiêu)  kẹo?  để  từ  đó  giúp  các  em  giải  bài  toán  có  lời  giải 
đúng, đủ, rõ nghĩa.
+ Trong môn âm nhạc: 
Trong quá 
trình 
dạy 
môn âm nhạc 
(phần 
dạy 
lời 
bài 

hát), 
bao giờ 
giáo 
viên 
cũng 
cho các 
em được 
đọc 
lời 
bài 
hát. 
Đó 
cũng 
là 
một 
phần 
trong việc 
rèn 
nói 
(nói 
đúng 
lời 
bài 
hát), 
sau đó 
hướng 
dẫn 
các 
em hát 
và 

yêu cầu 
hát 
thuộc 
lời 
bài 
hát. 
Khi 
các 
em tập 
hát 
to, ngay cả 
khi chúng 
ở 
nhà 
một 
mình, 
trẻ 
sẽ 
vượt 
qua nỗi 
sợ 
diễn 
thuyết. 
hát 
thuộc 
lời 
bài 
hát 
đúng 
giai  điệu 

bài 
hát 
đó 
được 
đánh 
giá 
là 
có 
năng 
khiếu hát, góp phần tham gia vào kĩ năng nói.
+ Trong môn Tiếng Việt:
Cuối 
mỗi 
bài
 (phân môn học 
vần) 
đều 
có 
mục 
luyện 
nói 
song không phải 
cứ 
đến 
mục 
này 
thì 
các 
em mới 
được 

tham gia nói, 
mà 
trong quá 
trình 
đàm 
thoại 
như 
khi bắt 
đầu 
vào 
học 
vần 
mới 
là 
nhận 
diện 
vần, 
các 
em đã 
được 
tham gia nóí, 
giáo 
viên định 
hướng, 
uốn 
nắn 
cho học 
sinh nói 
từ nói đúng 
đến 

nói 
đủ, 
không nên trả 
lời trống không.
Ví dụ khi dạy vần ôt ­ ơt (bài 70
 )
Dạy vần ôt: Ghi và hướng dẫn học sinh nhận diện vần.
­ Vần 
gồm 
mấy 
âm? (Học 
sinh trả 
lời: 
Vần 
gồm 
hai âm: Âm ô đứng 
trước, 
âm t 
đứng 
sau).  Đến 
đây  giáo 
viên  cũng 
cần 
uốn 
nắn 
ngay  từ 
đầu 
để 
các 
em  cần  nói 

đúng, 
đủ
, kể 
cả 
học 
sinh khác 
tham gia nhận 
xét 
cũng 
vậy. 
(ví 
dụ: 
Em thưa cô bạn 
trả lời đúng, 
đủ 
rồi 
ạ; 
hoặc 
bạn 
nói 
(trả 
lời) 
đúng 
(gần 
đúng) 
rồi 
ạ) 
. Không nên để 
học sinh trả lời 
cộc lốc như: đúng – sai qua ngôn ngữ nói

 
Đến 
khi  xây  dựng 
tiếng: 
Đã 
có 
vần 
ôt,  muốn 
có 
tiếng 
cột 
ta  phải 
thêm  âm  gì 
và 
thanh gì
? (Thường 
thì 
học 
sinh hay trả 
lời: 
âm c và 
thanh nặng
), nhưng giáo 
viên 
cần 
uốn 
nắn 
cho các 
em nói 
đúng, 

đủ 
ý 
câu: (Đã 
có 
vần 
ôt, muốn 
có 
tiếng 
cột 
ta 
phải thêm âm c đứng trước vần ôt và thêm thanh nặng dưới âm ô)
.
Khi xây dựng 
và 
rút 
ra từ 
khóa: 
cột 
cờ. 
Giáo 
viên cần 
giúp 
đỡ 
các 
em nói 
được: 
Từ 
cột cờ có hai tiếng, tiếng cột đứng trước, tiếng cờ sau.
Khi  dạy 
đến 

vần 
2  (ơt),  yêu  cầu 
so  sánh 
hai  vần, 
giúp 
các 
em  nói 
được: 
hai  vần 
giống 
nhau đều 
có 
âm (t) đứng 
cuối 
vần; 
hai vần 
khác 
nhau hai âm đầu 
vần 
(âm ô 
khác âm ơ).
Như vậy 
cứ 
sau một 
hoạt 
động, 
giáo 
viên đều 
cho các 
em tự 

nhận 
xét 
về 
câu 
trả 
lời 
của 
bạn, 
đó 
cũng 
chính là 
hình 
thức 
tăng cường 
Tiếng 
Việt 
(hay đó chính là 
động viên các em phát triển lời nói tự nhiên). Giáo 
viên cần 
quan sát 
và 
nếu 
còn 
có 
học 
sinh  luyện 
nói 
chưa  tốt, 
giáo 
viên  nên  hướng 

dẫn 
cho  các 
em  thực 
hành 
nói 
theo mẫu. 
5


Phần 
luyện 
nói 
theo  chủ 
đề
  là 
một 
nội 
dung  nhằm 
phát 
triển 
ngôn  ngữ 
tự 
nhiên của 
trẻ, 
do vậy 
sau mỗi 
bài 
học 
nào 
cũng 

có 
mục 
luyện 
nói 
theo chủ 
đề, 
tùy 
thuộc 
vào 
tình 
hình 
thực 
tế 
nơi các 
em sinh sống 
và 
chủ 
đề 
mà 
giáo 
viên điều 
chỉnh 
cho phù 
hợp 
nội 
dung luyện 
nói. 
Để 
đạt 
được 

kết 
quả 
trong mục 
luyện 
nói 
này, 
giáo 
viên nên định 
hướng 
cho các 
em về 
chủ 
đề 
thành 
những 
nội 
dung cụ 
thể 
và
  nên tổ 
chức
 hoạt 
động 
theo nhóm 
2, không nên tổ 
chức 
hoạt 
động 
theo nhóm 
lớn 

vì 
như 
thế 
các 
em sẽ 
ít 
được 
tham gia nói
. Nếu 
hoạt 
động 
theo nhóm 
2 thì 
sẽ giúp 
học 
sinh 
hỏi 
– trả 
lời 
theo chủ 
đề, 
có 
đổi 
qua lại 
hỏi 
– đáp 
để 
học 
nào 
cũng 

được 
tham gia 
nói
. Khi học 
sinh tham gia hoạt 
động 
nhóm 
thì 
giáo viên cần 
theo dõi 
và 
không bỏ 
sót 
một 
trẻ 
nào 
khi yêu cầu 
trẻ 
trả 
lời 
câu hỏi, 
giáo 
viên không nên chú 
ý 
đến 
những 
em hay giơ tay. Giáo 
viên cần 
đảm 
bảo 

tạo 
cơ hội 
cho tất 
cả 
các 
học 
sinh lần 
lượt 
được 
nói 
trước 
lớp. 
Chính 
vì 
thế 
việc 
phân  nhóm 
nhỏ 
để 
tập 
trung  nói 
là 
rất 
cần 
thiết.
 Với những học sinh diễn đạt ngôn ngữ còn lộn xộn thì sau mỗi lần nói, giáo 
viên cần hướng dẫn các em sắp xếp thứ tự những điều cần nói có trước có sau và 
nói lại thật phù hợp với yêu cầu đặt ra.
Trong quá trình đàm thoại, giáo viên phát hiện ra học sinh phát âm chưa 
đúng, hay dùng từ chưa chính xác 

trong một số trường hợp thì giáo viên cần sửa 
chữa ngay và cho các em nói lại thành câu hoàn chỉnh để ghi nhớ.
Cuối 
mỗi 
bài 
ôn tập 
phần 
học 
vần 
có 
mục 
kể 
chuyện, 
sang dạy 
phân môn tập 
đọc 
ở cuối mỗi bài dạy( phần luyện đọc) đều có phần luyện nói câu có chứa vần… 
cần ôn. Và cuối mỗi chủ điểm đều có 
một 
tiết 
dạy kể 
chuyện
 cụ thể. Tập 
đọc 
và 
kể
 
chuyện 
cũng 
là 

một 
cách rèn 
nói 
cho học 
sinh có kĩ năng nói tốt. Đối 
với 
học 
sinh 
có kĩ năng nói tốt sẽ có giọng đọc tốt, kể chuyện truyền cảm.
 
* Kết hợp với giáo viên 
bộ môn và giáo viên 
dạy thay.
Đối với giáo viên dạy các môn chuyên biệt (thể dục, m
ĩ thuật…) và giáo viên 
dạy thay, tôi thường xuyên gặp và trao đổi để cùng với giáo viên chủ nhiệm nhắc 
nhở, uốn nắn cách trả lời của các em ngay trong từng tiết học, môn học để các em 
thấy được thầy cô nào cũng quan tâm, cũng có trách nhiệm mong muốn các em tiến 
bộ. Từ đó các em sẽ cố gắng thực hiện một cách tự giác để sớm hoàn thành nhiệm 
vụ học tập và để tất cả các thầy cô được vui.
* Kết hợp với gia đình
 học sinh.
Nhiều phụ huynh học sinh cho rằng con đọc tốt, viết tốt, (thực hành) làm bài 
tập đúng là đủ. Lúc này giáo viên cần định hướng cho họ hiểu về các kĩ năng cần 
và đủ của một học sinh. Vì vậy giáo viên cần tuyên truyền tới phụ huynh học sinh 
vào các buổi họp cha mẹ học sinh giúp họ hiểu phát triển toàn diện về một học sinh 
có năng khiếu một cách đúng đắn, về tầm quan trọng của việc học nói chung và về 
kĩ  năng  nói  nói  riêng.  Cần  giúp  họ  hiểu  việc  giáo  dục,  động  viên  các  em  thì  phụ 
huynh  phải  thực  sự  gương  mẫu  trong  việc  nói  năng  có  chừng  mực,  lịch  sự,  nhã 
nhặn  với  mọi  người  xung  quanh  để  các  em  học  tập,  noi  theo.  Khuyến 

khích 
phụ 
huynh có 
con học 
tập 
tiến 
bộ 
bằng 
phần thưởng 
như: Cho đi tham quan, du lịch… 
giúp các em phát triển tri giác nhiều sẽ tốt cho các em khi làm văn sau
6


Tuyên truyền tới cha mẹ 
học 
sinh giúp 
con mình 
phát 
triển 
kĩ 
năng ngôn ngữ 
nói 
Tiếng Việt tại nhà như: Nói đúng theo nội dung, đủ ý câu, lưu loát. 
 
Đối 
với 
phụ 
huynh là 
người 

dân tộc 
thiểu 
số: 
Giáo 
viên cần 
gặp 
trực 
tiếp 
và 
góp 
ý 
khi giao tiếp 
ở 
nhà 
bằng 
tiếng 
Việt, 
không nên nói 
tiếng 
mẹ 
đẻ 
nhiều 
nhưng 
vẫn cần giữ gìn bản sắc 
văn hoá, phong tục tập quán riêng. 
* Kết hợp với anh ( chị ) đội viên khi sinh hoạt sao.
 Đối với học sinh lớp một việc ghi nhớ của các em chưa được vững chắc, dễ 
nhớ nhưng cũng rất mau quên nên ngoài việc luyện nói trong giờ tiếng Việt ra giáo 
viên cần duy trì việc uốn nắn cho các em có được kĩ năng nói thành câu, trôi chảy ở 
các hoạt 

động 
giao tiếp 
khác 
như: Khi các 
em tham gia sinh hoạt 
sao được 
các 
anh 
chị 
đội 
viên lớp 
trên xuống 
sinh hoạt, 
giáo 
viên nên hướng 
dẫn 
và 
kết 
hợp 
với 
anh 
chị 
đội 
viên này 
để 
hướng 
dẫn 
các 
em hát, 
múa, 

thể 
dục…. 
Giúp 
các 
em mạnh 
dạn, 
tự tin trước tập thể, góp phần mạnh dạn khi nói trước đám đông.
*Tuyên dương, động viên, nhắc nhở kịp thời.
Mỗi 
khi  học 
sinh  học 
tập 
tốt 
ở 
tất 
cả 
mọi 
lĩnh 
vực 
trong  đó 
có 
phần 
luyện 
nói, 
kĩ 
năng nói 
tốt 
thì 
giáo 
viên cần 

tuyên dương kịp 
thờì, 
đây là 
động 
lực 
thúc 
đẩy 
có 
hiệu 
quả 
cao nhất 
giúp 
 các 
em đã 
làm 
tốt 
phát 
huy, những 
em chưa mạnh 
dạn, 
chưa  tự 
tin  khi  nói 
cũng 
tự 
điều 
chỉnh. 
Không  nên  chê  hoặc 
phạt 
khi  các 
em  nói 

chưa đúng 
theo ý 
mình 
mà 
cần 
giúp 
các 
em hiểu 
nội 
dung cần 
nói 
để 
các 
em tham 
gia  nói 
tích 
cực. 
Đối 
với 
học 
sinh  tiểu 
học, 
giáo 
viên  là 
người 
chuẩn 
mực 
nhất, 
tuyệt 
vời 

nhất, 
nói 
gì 
cũng 
đúng. 
Chính 
vì 
thế 
nên  giáo 
viên  phải 
có 
kĩ 
năng  nói 
chuẩn, đúng, ngoài ra cần có kĩ năng
 nói truyền cảm khi kể chuyện.
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp.
Giáo viên cần nắm vững và hiểu rõ vai trò 
của 
việc 
nói 
và 
kĩ 
năng nói.
Cần 
có 
sự 
hỗ trợ đồng bộ của giáo viên bộ môn và giáo viên dạy thay cũng như kinh 
nghiệm của giáo viên trong toàn khối 1.
d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp, biện pháp như tôi vừa trình bày nó có quan hệ

lôgic xuyên suốt 
trong quá 
trình 
dạy 
học 
kể 
cả 
giờ 
học 
chính 
khoá 
cũng 
như ngoại 
khoá cũng như tiết sinh hoạt lớp.
e/ Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
­ Qua khảo nghiệm thu được những kết quả khả thi. Đa số học sinh nói 
tốt 
và 
có 
kĩ 
năng nói 
tốt. 
Nói 
đúng, 
nói 
đủ 
ý 
câu, góp phần nâng cao chất lượng học tập 
cho các em.
Kết  quả  khảo  nghiệm  năm  học  2013  –  2014  của  lớp  1A  trường  tiểu  học 

Hoàng Văn Thụ do tôi chủ nhiệm ( TSHS 17 em, trong đó 
có 
2 học 
sinh khuyết 
tật 
nặng
; 10 em là học sinh dân tộc thiểu số tại chỗ).

       Mức độ

7

Nói trống không
Nói chưa đủ ý
Nói 
đúng, 
đủ 
ý Tham  gia  nhận Phát 
triển 
lời 
nói 


câu (trả lời)

xét 
đánh 
giá 
bạn tự nhiên
nói


10 ­> 15 %

Giai đoạn

Đầu 
học

năm 

Cuối  năm 
học

97 ­> 99%

90­ >95%

8 ­> 10 %

15 ­> 17 %

1 ­> 0 %

2 ­> 1 %

98 ­> 100% 98 ­> 100% 94 ­> 96 %

4.  Kết  quả  thu  được  qua  khảo  nghiệm,  giá  trị  khoa  học  của  vấn  đề 
nghiên cứu.
Những  giải  pháp,  biện  pháp  này  vẫn  được  tôi  tiếp  tục  vận  dụng  trong  năm 

học 2014 ­ 2015 và thu được kêt quả rất tốt trong học kì 1 này
.
Đề tài rèn 
kĩ 
năng nói 
cho học 
sinh lớp 
1có tác động tới giáo viên trong toàn 
khối 1 của trường. Đề tài có thể nghiên cứu và phát triển cao hơn.            
Như vậy 
để 
có 
tiết 
học 
tốt, 
giờ 
học 
tốt, 
trước 
hết 
người 
giáo 
viên phải 
định 
hướng 
cho các 
em chăm chú 
nghe giảng, 
tham gia nói, 
có 

kĩ 
năng nói 
tốt
. Thực 
tế 
cho thấy 
giáo 
viên chủ 
nhiệm 
càng 
quan tâm tới 
bốn 
kĩ 
năng: nghe, nói, 
đọc, 
viết 
và 
đặc 
biệt 
là 
kĩ 
năng nói 
bao nhiêu thì 
các 
em học 
tốt 
bấy 
nhiêu. Và 
qua kinh nghiệm 
này 

của 
tôi, tôi thiết 
nghĩ 
đã 
góp 
phần 
thúc 
đẩy 
động 
cơ học 
tập 
cho các 
em, giúp 
các 
em tự 
tin trong học tập, mạnh 
dạn 
trong giao tiếp 
thông qua ngôn ngữ 
nói, 
giúp 
các em lĩnh hội bài học một cách có chủ động và hiểu bài sâu hơn, tốt hơn.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Muốn có chất lượng trong giờ dạy tốt thì việc đầu tiên người giáo viên phải 
xây dựng được 
kế 
hoạch 
bài 
dạy 

dài 
hạn 
và 
theo từng 
chủ 
đề, 
từng 
bài 
theo hướng 
đổi 
mới
. Vậy muốn cho học 
sinh nói 
tốt, 
trước hết người giáo viên phải nắm được 
vai trò của việc 
luyện 
nói 
cũng 
như kĩ 
năng nói. 
người giáo viên chủ nhiệm phải
 
biết xây dựng kế hoạch lâu dài và ngắn hạn phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của 
học sinh địa phương.
Cần phối hợp đồng bộ giữa giáo viên chủ nhiệm với giáo viên bộ môn, giáo 
viên dạy thay; với cha mẹ học sinh; với giáo viên trong toàn khối 1 nói riêng và các 
khối lớp khác trong trường được tốt.
2. Kiến nghị
Đối 

với 
lãnh 
đạo 
cần 
mở 
chuyên đề 
(một 
tiết 
dạy 
) cụ 
thể 
về 
hình 
thức 
tăng 
cường 
Tiếng 
Việt 
“ cần 
có 
điểm 
nhấn
” cho học 
sinh như vùng 
có 
nhiều 
học 
sinh là 
học sinh dân tộc thiểu số đang theo học đặc biệt là lớp một.
                                                                  Người viết. 

                     
                                 Phạm Thị Hòe
8


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
...................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
                                                  

(Ký tên, đóng dấu)

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................
...................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
                                                  

(Ký tên, đóng dấu)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
9



TT

Tên tài liệu

Tên tác giả

Nhà xuất 
bản

1

­  Tâm  lí  lứa  tuổi  học 
sinh

2

Một 
số 
biện 
pháp 
nâng  CNĐT – TS: Trần 
Thị 
cao  hiệu 
quả 
rèn 
kĩ Hiền Lương
năng  nói 
cho  học 
sinh 

tiểu học.
Tham  khảo tài liệu 
trên mạng internet

3

                                  

MỤC LỤC

10

Năm xuất 
bản

Thời gian 
thực hiện: 5/ 
2007 – 12/ 
2008


Mục

Trang

I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
           1
3. Đối tượng nghiên cứu

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
             
5. Phương pháp nghiên cứu
          
II. Phần nội dung
            2
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng:
 a/ Thuận lợi – khó khăn
b/ Thành công – hạn chế
c/ mặt mạnh – mặt yếu
d/ Các nguyên nhân, các yếu tố tác động              3
e/ Phân tích, 
đánh 
giá 
các 
vấn 
đề 
và 
thực 
trạng 
mà 
đề 
tài 
đã đặt ra
3. Giải pháp, biện pháp
              4
a/ Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
            5; 6
b/ Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

       
c/ Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
           
d/ Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
               7
e/  Kết 
quả 
khảo 
nghiệm, 
giá 
trị 
khoa  học 
của 
vấn 
đề 
nghiên cứu.
4. Kết 
quả 
rhu được 
qua khảo 
nghiệm, 
giá 
trị 
khoa học       
của vấn đề nghiên cứu.
III. Phần kết luận, kiến nghị
               8
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

               
               10

11



×