Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN- Rèn kỷ năng nói cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.49 KB, 15 trang )

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay đất nước ta đang trên con đường hội nhập kinh tế toàn
cầu. Ngày 7/11/2006 vừa qua tổ chức Thương mại Thế giới WTO đã
chính thức kết nạp Việt Nam vào tổ chức này, mở đầu cho hàng loạt
những thách thức và những thời cơ mới cho Việt Nam. Điều này không
chỉ ảnh hưởng đến nền kinh tế, thương mại của nước nhà mà còn tác
động nhiều đến thế hệ trẻ – những chủ nhân tương lai của đất nước.
Trong bối cảnh mới có nhiều hoạt động giao lưu trên nhiều lónh vực như
hiện nay và trong thời gian sắp tới, thế hệ ấy cần phải trang bò cho mình
một phong cách năng động, sáng tạo và có kỹ năng giao tiếp tốt với
nhiều người trong nhiều môi trường khác nhau. Chính vì vậy, hơn ai hết,
khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường, người thầy giáo phải là người
hướng dẫn, giúp đỡ các em rèn luyện để có được những kỹ năng cần
thiết đó trong cụôc sống xã hội hiện nay.
II. NỘI DUNG CHÍNH
Thực trạng của việc luyện nói cho học sinh trong nhà trường
hiện nay:
Dạy học theo quan điểm giao tiếp mà trọng tâm là rèn luyện kỹ
năng nói chính là một trong những tư tưởng quan trọng trong nhà trường
phổ thông và nhất là các trường THCS hiện nay. Việc luyện nói trong
nhà trường nhằm giúp các em sau này có thể giao tiếp tốt trong các môi
trường khác như môi trường xã hội, môi trường tập thể, công chúng.
Chúng ta biết rằng ngôn ngữ nói khác ngôn ngữ viết ở chỗ nó là phương
tiện giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu, có sự phối hợp biểu đạt của tư
thế, nét mặt, âm lượng, có sự giao cảm trực tiếp của người nói và người
nghe. Thực tế trong nhà trường hiện nay vấn đề rèn luyện kỹ năng nói
chưa được đặt thành vấn đề quan trọng như việc rèn luyện kỹ năng viết.
Hơn nữa, trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói, chúng ta mới chỉ dừng
lại ở những tiết luyện nói về tập làm văn mà số giờ luyện nói quá ít. Ở
lớp 6: 4 tiết / năm, tới lớp 8, 9 giảm dần xuống chỉ còn 2 tiết / năm.


Thực tế cho thấy thời gian trong các giờ luyện nói quá ít: 45 phút
mà số lượng học sinh trong một lớp quá đông nên giáo viên phần lớn chỉ
gọi những em khá, giỏi lên nói để tránh mất nhiều thời gian, có em lên
nói đã học thuộc lòng bài chuẩn bò đã viết thành văn nếu như được báo
trước; bên cạnh đó, có em nói theo dàn bài nhưng lại chỉ cúi xuống đất,
chưa chủ động và tự tin khi nói. Những giờ luyện nói như thế này chưa
tạo được cơ hội luyện nói cho đại đa số các em. Do vậy, tôi thiết nghó
ngoài giờ luyện nói trong giờ tập làm văn như quy đònh của chương
trình, chúng ta cần rèn luyện kỹ năng nói cả trong giảng dạy văn bản và
tiếng Việt. Đó cũng là nội dung chính mà tôi muốn đề cập.
1. Biện pháp xử lý:
Trrước thực trạng của việc luyện nói trong nhà trường hiện nay,
để rèn luyện được kỹ năng nói cho học sinh, bản thân tôi đã chú ý uốn
nắn cho các em ở nhiều khâu.
Trước hết, tôi chú ý đến tư thế đứng nói của học sinh, kể cả khi
các em lên bảng kiểm tra miệng trước lớp cũng như khi các em đứng
trước lớp phát biểu. Khi các em lên bảng kiểm tra bài cũ, tôi đã hướng
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
2
dẫn các em khi trả lời vừa đứng hướng vào cô giáo vừa hướng xuống
lớp. Tôi nghó việc uốn nắn tư thế cho các em đối với các thầy cô dạy lớp
6 vất vả hơn vì thực tế các em lên bảng chỉ nhìn thẳng vào thầy cô mà
không chú ý đến các bạn dưới lớp. Có em chỉ học thuộc lòng, khi lên
bảng thì run, mất tự tin và có em còn nói: “Thưa cô, cô nhắc em chữ
đầu”. Gặp trường hợp như vậy, giáo viên không nên có giọng nói quá
gay gắt làm các em sợ, làm mất đi sự tự tin khi các em nói, quên đi câu
trả lời của mình. Sau khi học sinh trả lời xong, nhắc các em học phải
hiểu bài, có thể thay từ đồng nghóa, gần nghóa ở một số câu để trả lời;
khi nói các em nhìn thẳng vào đối tượng, tôi nhắc các em chú ý lặp lại
một phần câu hỏi trước khi trả lời. Vì các em còn nhỏ, tôi tập cho các

em nói câu có đủ chủ ngữ, vò ngữ.
Bên cạnh đó, khi giảng dạy bài mới, tôi nghó câu hỏi của giáo
viên phải khuyến khích được tất cả học sinh trong lớp suy nghó. Câu hỏi
phải ngắn gọn, rõ ràng ở nhiều cấp độ khác nhau, tạo điều kiện cho mọi
đối tượng học sinh có thể trả lời (khuyến khích học sinh yếu, nâng cao
năng lực của học sinh khá giỏi).
Thực tế trong khi tìm hiểu văn bản, khi giáo viên đặt câu hỏi để
phát hiện các chi tiết có giá trò nghệ thuật thì học sinh lớp 6, 7 (thậm chí
cả học sinh lớp 8, 9) lại đọc cả đoạn văn có chứa các từ ngữ ấy. Như
vậy, vừa mất thời gian, vừa không tập trung trả lời đúng câu hỏi. Tôi
nghó đối với học sinh lớp 6, vì các em chưa quen, cứ trả lời như hồi các
em học tiểu học nên giáo viên cần gọi các em đọc trước những đoạn văn
ngắn, sau đó cho học sinh phát hiện chi tiết, hình ảnh thì các em sẽ dễ
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
3
trả lời hơn. Đối với giờ dạy – học văn bản, những câu hỏi bình, nâng
cao, mở rộng nên đặêt ra nhiều hơn đối với học sinh lớp 8, 9 sẽ kích thích
được nhiều em phát biểu, khám phá cái mới, đi sâu vào nội dung, nghệ
thuật của văn bản.
Đối với những bài văn cổ, phần tìm hiểu, chú thích tôi đã lồng vào
khâu tìm hiểu văn bản, kết hợp với liên hệ thực tế để học sinh dễ dàng
trả lời các câu hỏi của giáo viên.
Ví dụ: Khi dạy văn bản “Bàn luận về phép học” của tác giả
Nguyễn Thiếp ở lớp 8, tôi đã xây dựng hệ thống câu hỏi như sau:
-Em hãy trình bày thật ngắn gọn những hiểu biết của em về tác
giả Nguyễn Thiếp?
-Hãy cho biết bài “Bàn luận về phép học” được viết vào thời
gian nào?
-Thể loại của văn bản này?
-Ở nhà đã đọc bài và đọc phần chú thích, em hãy cho biết thế

nào là tấu? Tấu được viết bằng loại văn gì?
-Về các thể loại văn cổ, các em đã học những bài nào?
-Những thể loại văn ấy là của ai gửi cho ai?
-Về người gửi, đối tượng gửi của bài này có gì khác so với các
thể loại trước?
-Tuy là chỉ học đoạn trích, nhưng căn cứ vào nội dung văn bản,
em có thể chia văn bản thành mấy phần?
-Em hãy cho biết đoạn đầu nói về vấn đề gì?
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
4
-Ở phần đầu, tác giả nêu mục đích chân chính của việc học bằng
câu văn nào?
-Hãy nhận xét về câu văn ấy?
-Em hiểu gì về câu văn này? Hãy thử diễn đạt câu ấy theo ý em
hiểu.
-Câu văn có mấy vế? Trong câu văn ấy tác giả sử dụng nghệ
thuật gì?
-Tác dụng của biện pháp này?
-Như vậy tác giả nêu cái đích của việc học là để làm gì?
-Sau đó, tác giả giải thích khái niệm “đạo” như thế nào?
-Nhận xét về cách giải thích của tác giả?
-Như vậy, mục đích của việc học mà tác giả nêu ra ở đây là gì?
-Sau khi xác đònh mục đích của việc học, Nguyễn Thiếp nhìn
nhận vào thực tế việc học tập nước nhà, và tác giả tỏ thái độ như thế
nào?
-Em hiểu thế nào là “nền chính học”?
-Trong phần trên, tác giả chỉ ra lối học đương thời là lối học gì?
- Câu hỏi thảo luận: Em hiểu thế nào là “lối học hình thức
hòng cầu danh lợi” mà Nguyễn Thiếp nêu ra trong bài?
-Trong SGK đã giải thích, em hãy nói rõ hơn về “Tam cương” và

“Ngũ thường”?
-Và với lối học như vậy sẽ dẫn đến hậu quả tai hại như thế nào?
Hiện nay có còn tồn tại lối học như vậy không? (câu hỏi liên hệ thực
tế)
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
5
-Để khuyến khích việc học chân chính, Nguyễn Thiếp đã
khuyên vua Quang Trung thực hiện những chính sách gì?
-“Tóm lược cho gọn” ở đây có nghóa như thế nào?
-Em hiểu thế nào về quan điểm “học mà làm” của Nguyễn
Thiếp?
-Mặc dù còn băn khoăn, nhưng La Sơn Phu Tử vẫn rất tỏ ra rất
tin tưởng ở cách học chân chính. Niềm tin ấy thể hiện ở câu văn nào?
-Em hiểu suy nghó trên của Nguyễn Thiếp như thế nào?
-Như vậy, từ việc nêu ra mục đích chân chính của việc học, tác
giả đi đến phê phán “lối học hình thức hòng cầu danh lợi”, sau đó khẳng
đònh phương pháp học tập đúng đắn và tác dụng của việc học chân
chính. Các em hãy cho biết đây có phải là bài văn nghò luận không?
- Câu hỏi thảo luận: Hãy xác đònh trình tự lập luận của văn bản
“Bàn luận về phép học” bằng một sơ đồ.
-Với cách lập luận chặt chẽ như vậy, bài “Bàn luận về phép
học” giúp ta hiểu thêm về điều gì?
-Được học bài này, em có thể rút ra bài học gì cho bản thân về
mục đích và phương pháp học? (câu hỏi liên hệ thực tế)
Với hệ thống câu hỏi như vậy, học sinh sẽ dễ dàng trả lời được
các câu hỏi mà giáo viên đưa ra (kể cả học sinh yếu, trung bình). Vì đây
là thể loại tấu, lần đầu tiên học sinh THCS được tiếp xúc nên giáo viên
vừa cho các em giải thích từ khó vừa lồng vào bước tìm hiểu văn bản để
giúp các em nắm bắt tác phẩm nhanh hơn.
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám

6
Để có nhiều ý kiến trong một tiết học, những em ít phát biểu, học
yếu hơn, nếu các em giơ tay, bản thân tôi sẽ gọi các em phát biểu ngay
để giúp các em tự tin hơn khi nói. Nếu các em nói sai, tôi nghó rằng
người giáo viên nên khéo léo xử trí, có thể đặt thêm câu hỏi phụ để dẫn
dắt học sinh, hoặc không phủ nhận hoàn toàn câu trả lời của các em mà
tìm ra những ý đúng (mặc dù rất ít) để động viên các em. Nhưng những
câu hỏi phụ giáo viên đưa ra cũng nên cho ít, nếu quá nhiều sẽ làm
loãng câu hỏi chính, các em trả lời không tập trung. Ví dụ: khi yêu cầu
các em tìm bố cục một văn bản, nếu các em trả lời không theo bố cục
của giáo viên đã chuẩn bò, hoặc có em bổ sung rồi nhưng chưa trúng,
giáo viên có thể sửa lại với cách nói: “Em chia như vậy cũng được,
nhưng theo thầy (cô), để đoạn nhỏ này vào đoạn trên (đoạn 1 hoặc đoạn
2 …) sẽ hợp lý hơn.”
Câu hỏi thảo luận cũng cần lựa chọn, nó thường là vấn đề phức
tạp hơn cần phải đàm thoại, nhưng cũng không nên quá khó, quá dài
làm cho câu trả lời của học sinh không tập trung. Trong khi thảo luận,
tôi đã hướng dẫn học sinh chuẩn bò cả về ngôn ngữ để khi diễn đạt sẽ
lưu loát hơn. Khi cho đại diện nhóm lên trả lời, tôi cũng chú ý đến
những em ít nói, ít bộc lộ suy nghó lên phát biểu, nếu không các em sẽ
chỉ chọn những em khá giỏi, nói lưu loát đứng lên trình bày; và các em ít
phát biểu kia sẽ mất cơ hội đứng lên trả lời. Thông thường, giáo viên
chúng ta thường cho điểm cộng đối với những câu trả lời xuất sắc, như
vậy trong nhóm sẽ xảy ra tình trạng “ăn theo” mà không rèn luyện kỹ
năng nói cho đa số các em tuy rằng, nếu chúng ta quan sát các em trong
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
7
giờ ra chơi, các em ít phát biểu trong giờ học cũng nói rất lưu loát và
linh hoạt. Nói tóm lại, hệ thống câu hỏi phải phù hợp với nhiều đối
tượng học sinh trong khi khai thác vấn đề. Các câu hỏi suy luận cũng

nên tăng dần ở lớp 8 và 9.
Một điều cần chú ý nữa là tôi đã hướng dẫn cho học sinh trả lời
trúng câu hỏi. Như ở phần trên tôi đã nói, có em khi giáo viên hỏi phát
hiện từ ngữ, chi tiết thì đọc hết cả đoạn văn, hoặc trong một giờ tiếng
Việt sau khi phân tích các ví dụ, giáo viên đặt câu hỏi để hình thành
khái niệm thì các em lại đọc luôn cả phần ghi nhớ mà phần ghi nhớ lại
bao gồm nhiều ý chứ không chỉ có phần khái niệm. Ví dụ: ghi nhớ của
phần thán từ trong sách giáo khoa ngữ văn 8 bao gồm cả phần khái niệm
thán từ, vò trí của thán từ và các loại thán từ. Ở trường hợp này, giáo
viên cần uốn nắn cho học sinh trả lời đúng câu hỏi mà thầy cô ra. Tôi
cho rằng giáo viên có thể vận dụng kiến thức trong các giờ tiếng Việt :
lớp 6 tiết “Giao tiếp văn bản và phương thức biểu đạt”, lớp 8 tiết “Hành
động nói”, “Hội thoại”, lớp 9 vận dụng bài “Các phương châm hội
thoại” và “Xưng hô trong hội thoại” để giúp các em rèn luyện kỹ năng
nói một cách có hiệu quả.
VD: Ở lớp 8 khi dạy bài “Hội thoại”, tôi không những truyền thụ
cho các em kiến thức trên lớp mà còn hướng dẫn các em vận dụng vào
cuộc sống thực tế như: trong hội thoại, nên tôn trọng lượt lời của người
khác, tránh nói tranh lượt lời, cắt lời hoặc chêm vào lời của người khác
khi họ đang tham gia hội thoại trừ trường hợp quá đặc biệt và khẩn cấp.
Cụ thể, khi bạn đang phát biểu, các em không nên cắt ngang lời bạn.
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
8
Muốn bổ sung ý kiến, hãy chờ bạn nói xong mới xin phép nói hoặc
không nên chen ngang lời của người lớn (như ông bà, bố mẹ …) khi họ
đang nói chuyện.
Trong bài này, tôi đã sử dụng kiến thức vai xã hội trong khi tham
gia hội thoại, hướng các em xác đònh đúng vai trên – vai dưới để chọn
cách nói cho phù hợp. Tôi cũng cho học sinh biết thêm, trong cuộc sống
hàng ngày, người nào cũng có mối quan hệ xã hội : rộng – hẹp, thân –

sơ … khác nhau; những mối quan hệ ấy thường là vô cùng phức tạp và
tinh tế. Một người có thể có đòa vò cao trong xã hội nhưng khi về nhà lại
chỉ là một đứa con trong gia đình. Một người là cha, là mẹ trong gia đình
nhưng khi đến cơ quan lại chỉ là bạn bè, đồng nghiệp. Nói chung, vai xã
hội đa dạng, nhiều chiều đòi hỏi người tham gia hội thoại phải xác đònh
đúng vai của mình để tránh những hiểu lầm, xung đột không đáng có.
Tôi cũng liên hệ thêm: các em là học sinh, còn nhỏ tuổi, đa phần
có vai dưới nên khi tham gia hội thoại với người lớn tuổi ngoài xã hội,
với ông ba,ø cha mẹ …, các em cần nói câu có đủ chủ ngữ, vò ngữ, thể
hiện sự lễ phép, tránh kiểu nói trống không, cộc lốc hoặc xen ngang vào
câu chuyện của người lớn. Khi các em là vai trên (như anh/ chò/ cô dì …),
hãy thể hiện sự gương mẫu, đúng mực với vai dưới.
Hơn thế nữa, cần chú ý đến âm lượng trong lời nói của các em.
Học sinh lớp 6, 7 nói còn lớn vì các em hồn nhiên hơn, nhưng đến lớp 8,
lớp 9, do lứa tuổi các em lớn hơn, có những biến đổi về thể chất, các em
đang tập làm người lớn nên một số em (nhất là các em nữ) còn e lệ. Tôi
đã động viên các em nói to hơn nhưng ở mức vừa phải, nếu nói lớn quá
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
9
sẽ mất đi mức độ diễn cảm của lời nói, nhất là lại nói trong giờ giảng
dạy ngữ văn. Nếu các em học sinh nói nhỏ quá, tôi sẽ nhắc các em: “Em
nói lớn hơn một chút để các bạn phía trên (hoặc dưới) cùng nghe thấy”.
Để có được nhiều em phát biểu, tôi đã gọi các em nhận xét bạn
trả lời, bổ sung ngay để hoàn thiện bài học. Nhưng tôi cũng nhắc các em
cần nhận xét cả về ưu điểm và khuyết điểm của bạn. Nên tránh trường
hợp các em chỉ lo tìm những điểm sai, những lỗi của bạn mà quên rằng
bạn vẫn có điểm đúng.
Một yếu tố khác không kém phần quan trọng là tôi cũng hướng
dẫn học sinh nói đúng chính âm, sử dụng từ ngữ toàn dân để diễn đạt.
Phần này có thể vận dụng bài “Từ ngữ đòa phương và biệt ngữ xã hội”

của lớp 8 để rèn luyện các em.
Sẽ rất thiếu sót nếu không có sự khích lệ đúng mức của giáo viên.
Đối với những câu trả lời đúng, tôi cho điểm cộng hoặc khen ngợi các
em để động viên các em kòp thời.
Tóm lại, trong quá trình dạy học môn ngữ văn, ngoài những câu
hỏi, những bài tập chỉ đòi hỏi những câu trả lời ngắn, còn có những câu
hỏi, những bài tập yêu cầu học sinh trình bày cảm nhận chủ quan của
mình trên lónh vực văn học, nghệ thuật. Nếu không có năng lực hay
ngôn ngữ văn chương và không mạnh dạn, học sinh rất dễ có tâm lý
ngại nói trước tập thể, bạn bè. Vì vậy, giáo viên cần giúp đỡ các em ở
nhiều khía cạnh để các em không sợ sai sót, hòa nhập với bạn bè, bộc lộ
ý kiến một cách mạnh dạn.
2. Hiệu quả ban đầu
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
10
Cũng cùng tiết học “Bàn luận về phép học” nhưng ở năm 2005-
2006 chưa áp dụng phương pháp này và năm 2006-2007 đã áp dụng
phương pháp này. So sánh hiệu quả thấy như sau:
-Năm 2005-2006: chỉ có 45% các em giơ tay phát biểu trong đó
15% học sinh nói đạt yêu cầu về tư thế, tác phong và âm lượng, cách
thức diễn đạt phù hợp.
-Năm 2006-2007: có 75-80% các em giơ tay phát biểu trong đó
50% học sinh nói đạt yêu cầu về tư thế, tác phong và âm lượng, cách
thức diễn đạt phù hợp.
3. Kiểm nghiệm
-Sau thời gian áp dụng cho học sinh các khối trong trường, tỷ lệ
học sinh phát biểu trong lớp tăng lên đáng kể. Có lớp từ chỗ chỉ có một
số học sinh khá giỏi phát biểu đã xuất hiện thêm nhiều em trước đây
chưa bao giờ nói mạnh dạn đứng lên nói lên suy nghó của mình.
-Những em phát biểu ý kiến đã nói có chủ ngữ, vò ngữ, nói to, rõ

hơn (trước đây các em thường không nhắc lại một phần câu hỏi, chỉ trả
lời gọn lỏn, có khi thiếu chủ ngữ làm người nghe không hiểu chính xác
câu trả lời).
-Trong giờ văn học các em đã biết sử dụng ngôn ngữ văn chương,
câu cú rõ ràng, mạch lạc để trình bày trước lớp.
4. Tự nhận xét kết quả
Qua việc áp dụng sáng kiến trên, tôi tự nhận xét thấy kết quá khá
khả quan và học sinh tỏ ra ngày càng mạnh dạn, chủ động trong việc
xây dựng bài. Đồng thời tôi cũng tự nhận thấy tư thế, tác phong của các
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
11
em khi đứng lên trình bày một vấn đề chững chạc, tự tin hơn (nhất là
trong giờ luyện nói).
III. Mặt tích cực và hạn chế của SKKN
1. Tích cực:
-Động viên học sinh, kể cả các em yếu kém và trung bình mạnh
dạn tham gia phát biểu ý kiến, đóng góp xây dựng bài.
-Giúp các em biết cách xử sự và ăn nói đúng mực trong cuộc sống
hàng ngày.
-Tạo tiền đề cho các em sau này có thể giao tiếp tốt trong các môi
trường khác nhau.
-Tập cho các em tính chủ động và tự tin.
-Không chỉ giúp các em có tiến bộ rõ rệt trong môn Văn mà còn
là cơ sở tốt để các em diễn đạt chính xác các môn học khác.
2. Hạn chế:
-Thời lượng dành cho các tiết luyện nói quá ít nên giáo viên phải
uốn nắn học sinh trong suốt quá trình giảng dạy.
IV. Những bài học khi thực hiện sáng kiến, vận dụng kinh
nghiệm
-Cần áp dụng, uốn nắn học sinh thường xuyên.

-Động viên các em phát biểu ý kiến đối với các câu trả lời xuất
sắc bằng cách cho điểm cộng hoặc khen ngợi kòp thời.
-Cố gắng tạo cơ hội cho những em ít phát biểu và nhút nhát được
nêu ra ý kiến, suy nghó của mình.
V. KẾT LUẬN
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
12
Kính thưa các thầy cô giáo!
Giữa những bộn bề của nền giáo dục nước nhà hôm nay, chưa bao
giờ xã hội quan tâm đến các nhà giáo chúng ta với nhiều góc cạnh đến
như vậy. Dù suy nghó ở góc độ nào đi nữa, tôi nghó mỗi thầy cô giáo
chúng ta đã chọn cho mình một cái nghề vì lương tâm chứ không hẳn vì
mục đích kinh tế. Hơn lúc nào hết, mỗi thầy cô giáo chúng ta hãy vì
trách nhiệm của mình rèn luyện cho các em kỹ năng nói khi các em còn
ngồi trên ghế nhà trường, đó cũng chính là giúp các em phát triển kỹ
năng giao tiếp để sau này khi các em vào đời, các em có thể tự tin trong
bất kỳ một môi trường, một hoàn cảnh giao tiếp nào trong xã hội.
Những suy nghó của cá nhân tôi có thể còn nhiều khiếm khuyết.
Rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ quý thầy cô.
Xin chân thành cảm ơn.
Ngày 1/4/2007
Người viết
Triệu Thò Hòa



Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
13
Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
14

Triệu Thò Hòa – Giáo viên Trường THCS Hoàng Hoa Thám
15

×