Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Đánh giá kết quả thực hiện của chương trình 106 về xóa đói giảm nghèo tại xã thạch bằng – huyện lộc hà – tỉnh hà tĩnh giai đoạn 2011 – 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.51 KB, 120 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
------   ------

NGUYỄN CÔNG NƯƠNG

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH 106
VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI XÃ THẠCH BẰNG
HUYỆN LỘC HÀ – TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 – 2014

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP


HÀ NỘI - 2015

2

2


HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
------   ------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH 106
VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TẠI XÃ THẠCH BẰNG
HUYỆN LỘC HÀ – TỈNH HÀ TĨNH GIAI ĐOẠN 2011 – 2014

Tên sinh viên



: Nguyễn Công Nương

Chuyên ngành đào tạo : Quản lý kinh tế
Lớp

: QLKT – K56

Niên khoá

: 2011 - 2015

Giảng viên hướng dẫn : TS. Mai Lan Phương


HÀ NỘI - 2015


5

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong bài khoá
luận là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học viên nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong bài khoá luận đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2015

Tác giả khoá luận


Nguyễn Công Nương

5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5


6

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khoá luận tôi đã
được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá nhân. Nhân đây tôi
xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến:
UBND xã Thạch Bằng, các thôn cùng tập thể phòng Chính sách xã Thạch
Bằng đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu tại xã.
Bà con trong xã Thạch Bằng huyện Lộc Hà đã giúp đỡ tôi trong quá
trình nghiên cứu để hoàn thành khoá luận.
Tập thể các thầy, cô giáo trong Khoa Kinh tế và phát triển nông thôn
cũng như các thầy cô trong bộ môn Phát triển nông thôn đã tận tình giúp đỡ
tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn tới cô giáo TS.Mai Lan Phương - người đã
tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới gia đình và bạn bè đã chia sẻ,
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành khoá luận
tốt nghiệp của mình.
Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn tất cả sự giúp đỡ quý báu của
các tập thể và cá nhân đã dành cho tôi.

Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2015

Tác giả khoá luận

Nguyễn Công Nương

6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6


7

TÓM TẮT KHOÁ LUẬN
Xoá đói giảm nghèo hiện đang là vân đề cấp thiết không chỉ riêng các tỉnh
mà còn cả dân tộc. Những chương trình xoá đói giảm nghèo của Đảng và Nhà
nước ban hành cũng góp phần lớn trong công cuộc xoá đối giảm nghèo cũng như
nâng cao đời sống cho người dân, phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, không
phải chương trình nào cũng đạt kết quả tốt, còn nhiều chương trình không đạt được
hiệu quả cao. Xuất phát từ thực tiễn trên tôi tìm hiểu về “Đánh giá kết quả thực
hiện của chương trình 106 về xóa đói giảm nghèo tại xã Thạch Bằng – huyện
Lộc Hà – tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2011 – 2014.”
Trong bài khóa luận gồm có 5 phần:
Phần 1: Đặt vấn đề.
Trong phần này, tôi đã đưa ra lý do chọn đề tài xóa đói giảm nghèo làm đề tài
cho bài khóa luận của mình.
- Thực trạng nghèo đói Việt Nam cũng như Thạch Bằng
- Lý do tôi chọn xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà, tỉnh Hã Tĩnh làm địa bàn
nghiên cứu:

+ Đây là địa bàn sinh sống của người dân miền ven biển nên có trình độ
dân trí của người dân thấp, phong tục tập quán lạc hậu, đời sống nhân dân còn
nghèo nàn.
+ Xã nằm gần biển, địa bàn khó khăn phức tạp, nhiều thiên tai xảy ra đã
ảnh hưởng gì tới cuộc sống của nhân dân nơi đây? Được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước tại sao người dân vẫn nghèo, năm trong tốp 2 xã có tỷ lệ
nghèo nhất huyện Lộc Hà?
Phần 2: Tổng quan về tài liệu nghiên cứu. Trong phần này tôi đã đưa ra:
- Những cơ sở lý luận và thực tiễn, quan điểm đói nghèo ở Việt Nam và
trên thế giới.
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo, thực trạng
đói nghèo ở các khu vực trên thế giới và của Việt Nam. Những nguyên nhân
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7


8

dẫn tới đói nghèo và sự cần thiết phải xóa đói giảm nghèo cũng như thách
thức với Việt Nam.
- Những kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo ở các nước trên thế giới như
Trung Quốc, Singapore, Campuchia…. là những nước hiện nay nên kinh tế rất
phát triển.
- Khái quát chung về chương trình 106
Phần 3: Địa bàn và phương pháp nghiên cứu.
- Những đặc điểm tự nhiên của địa bàn nghiên cứu: vị trí địa lý, địa hình,
khí hậu, thời tiết của địa bàn. Từ đó đưa ra những đánh giá chung về địa bàn
- Những đặc điểm kinh tế xã hội: Kinh tế, văn hóa - xã hội, đặc điểm về

sử dụng đất đai.
- Từ những đặc điểm về kinh tế, văn hóa, xã hội của địa bàn địa bàn. Tôi
chọn những phương pháp phù hợp để tiến hành thu thập số liệu và các
phương pháp phân tích thích hợp.
Phần 4: Kết quả nghiên cứu. Là những số liệu, tài liệu từ điều tra thực tiễn.
- Những kết quả của chương trình 106 về các hoạt động xây dựng phát
triển xã
- Những nguyên nhân còn tồn tại trong quá trình thực hiện chương trình
- Tôi tiến hành phỏng vấn, điều tra bằng phiếu với các hộ trong thôn, xóm.
Như: Tình hình nhân khẩu, sử dụng đất đai, nhà ở, phương tiện sinh hoạt,
phương tiện sản xuất, thu nhập - chi tiêu, vốn, học vấn của các hộ điều tra. Từ
đó tôi có cái nhìn tổng quát về cuộc sống của các hộ.
- Từ đó đưa những giải pháp nhằm giúp cho công tác thực hiện chương
trình xoá đói giảm nghèo tại địa bàn thực hiện có hiệu quả hơn.
Phần 5: Kết luận và kiến nghị.
- Kết luận: đưa ra một cái nhìn tổng quát về đói nghèo tại địa bàn xã, thực
trạng khi tiến hành các chính sách xóa đói giảm nghèo tại địa phương. Thực
trạng chung trên cả nước.
- Kiến nghị đối với Trung ương và với UBND cấp tỉnh và xã
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8


9

MỤC LỤC

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9


1
0

DANH MỤC BẢNG

10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10


1
1

DANH MỤC HÌNH

11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11


1
2


DANH MỤC VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

NGHĨA ĐẦY ĐỦ

XĐGN
CNH - HĐH
WB
ILO
ESCAP

Xoá đói giảm nghèo
Công nghiệp hoá – hiện đại hoá
Ngân hàng thế giới
Tổ chức Lao động quốc tế
Hội nghị về chống nghèo đói do Uỷ ban kinh tế xã hội

UBDT
LĐ,TB & XH
CSHT
CT
PRA
WTO
GDP
UBND
HĐND
KHKT
HTX
TM – DV
NTM

GTNT
QPAN
UBMTTQ
KT-XH
UNDP

khu vực Châu Á – Thái Bình Dương
Uỷ ban dân tộc
Lao động, Thương binh và xã hội
Cơ sở hạ tầng
Chương trình
Đánh giá có sự tham gia của người dân
Tổ chức Thương mại Thế giới
Tổng sản phẩm nội địa
Uỷ ban Nhân dân
Hội đồng Nhân dân
Khoa học kỹ thuật
Hợp tác xã
Thương mại - Dịch vụ
Nông thôn mới
Giao thông nông thôn
Quốc phòng an ninh
Uỷ ban mặt trận Tổ quốc
Kinh tế – xã hội
Chương trình phát triển Liên hợp quốc

12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12



1
3

PHẦN I
MỞ ĐẦU
1.1.

Đặt vấn đề
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở

mọi quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có trên 1 tỷ người đang sống trong cảnh
đói nghèo, kể cả nước có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân số
sống trong tình trạng nghèo nàn cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người nghèo
ở mỗi nước cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ đói nghèo nhỏ hơn các
nước kém phát triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn rất nhiều. Đói
nghèo là lực cản trên con đường tăng trưởng và phát triển của Quốc gia,
nghèo khổ luôn đi liền với trình độ dân trí thấp, tệ nạn xã hội, bệnh tật, trật tự
an ninh chính trị không ổn định… Trong xu thế hợp tác và toàn cầu hoá hiện
nay thì vấn đề xoá đói giảm nghèo (XĐGN) không còn là trách nhiệm của
một quốc gia mà đã trở thành mối quan tâm của cả động đồng Quốc tế. Việt
Nam là một trong những nước có thu nhập thấp so với Thế giới, do đó chương
trình mục tiêu quốc gia XĐGN là một chiến lược lâu dài cần được sự quan
tâm giúp đỡ của cộng đồng quốc tế kết hợp chặt chẽ với tinh thần tự lực, tự
cường, đoàn kết của cả dân tộc để đẩy lùi đói nghèo tiến kịp trình độ phát
triển kinh tế của các nước tiên tiến. Trong thời kỳ nước ta đang thực hiện công
cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay, vấn đề XĐGN càng khó
khăn và phức tạp hơn so với thời kỳ trước. Muốn đạt được hiệu quả thiết thực

nhằm giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống cho người dân thì mỗi
địa phương, mỗi vùng phải tập trung các nguồn lực trong đó nguồn lực tài
chính đóng vai trò rất quan trọng và có chương trình XĐGN riêng phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của mình nhằm, tăng thêm thu nhập nâng cao
đời sống của nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh.
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13


1
4

Thạch Bằng là một xã thuộc vùng biển ngang của tỉnh Hà Tĩnh., trong
những năm vừa qua dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Đảng bộ huyện, xã
và sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, của tỉnh được đầu tư từ chương trình
XĐGN và sự nỗ lực cố gắng của nhân dân toàn xã, tình hình kinh tế - xã hội
của xã đã có những bước chuyển biến tích cực, cở sở hạ tầng được đầu tư
tương đối đồng bộ, sản xuất có bước phát triển, đời sống nhân dân ngày càng
được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm từ 2-3%. Tuy nhiên, Thạch
Bằng vẫn là xã nghèo vì tỷ lệ hộ nghèo còn cao trên 46% và thu nhập trung
bình thấp so với mặt bằng chung của toàn quốc. Vấn đề đặt ra ở đây là: với
tình hình, thực trạng nghèo của Thạch Bằng như vậy, bằng cách nào và thực
hiện các giải pháp nào để tổ chức thực hiện có hiệu quả, các chương trình dự
án xoá đói giảm nghèo được đầu tư trên địa bàn nhằm giảm nghèo nhanh và
bền vững, từng bước ổn định đời sống của các hộ nghèo, từ đó tạo những điều
kiện, tiền đề thuận lợi để các hộ vươn lên thoát nghèo bền vững và không bị
tái nghèo. Đây là vấn đề rất bức thiết đối với Thạch Bằng cần sớm được giải

quyết. Chương trình 106 là một chương trình nhằm cải thiện và hỗ trợ giảm
nghèo với một số huyện xã ngang biển của tỉnh Hà Tĩnh. Thông qua những
kết quả đạt được của chương trình 106, có thể nói chương trình 106 đã góp
phần nào đưa các xã thuộc chương trình nói riêng và toàn tỉnh nói chung dần
dần thoát khỏi nghèo đói. Xuất phát từ thực tiễn đó tôi nghiên cứu đề tài:
"Đánh giá kết quả thực hiện chương trình 106 về xoá đói giảm nghèo tại
xã Thạch Bằng – huyện Lộc Hà – tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2011 – 2014"
nhằm góp phần giải quyết các vấn đề đã nêu trên.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá những kết quả đạt được của chương trình XĐGN, xác định
những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong tổ chức triển khai thực hiện chương
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14


1
5

trình XĐGN trên địa bàn xã, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình XĐGN đang và sẽ thực hiện trong
giai đoạn tới , giúp cho hộ nghèo thoát nghèo nhanh và không tái nghèo.
1.2.2

Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hoá các vấn đề có tính lý luận và thực tiễn cơ
bản về xoá đói giảm nghèo và chương trình XĐGN của chính phủ.
Đánh giá kết quả thực hiện chương trình 106 đã được

triển khai trên địa bàn xã Thạch Bằng
Đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằ m tổ chức thực hiện
có hiệu quả chương trình XĐGN tiếp theo trên địa bàn xã Thạch Bằng.

1.3 . Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Là những nội dung chủ yếu xóa đói giảm nghèo của xã (Chương trình
106 giai đoạn 2012- 2014).
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Đánh giá những kết quả tổ chức thực hiện chương trình xóa đói giảm
nghèo trên địa bàn xã Thạch Bằng – huyện Lộc Hà – tỉnh Hà Tĩnh. Xác định
những nguyên nhân tồn tại, hạn chế trong tổ chức triển khai thực hiện chương
trình XĐGN trên địa bàn xã, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp phù hợp
nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình 106 XĐGN đang và sẽ thực hiên trong
giai đoạn tới, giúp cho hộ nghèo thoát khỏi nghèo nhanh và không tái nghèo.
1.3.2.2. Phạm vi về không gian
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn xã Thạch Bằng – huyện Lộc Hà –
tỉnh Hà Tĩnh.

15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15


1
6

1.3.2.3. Phạm vi về thời gian

Đánh giá kết quả thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo của xã
giai đoạn 2011 - 2014.
Thời gian nghiên cứu đề tài : từ 2/2015 đến 6/2015
1.4.

-

Ý nghĩa khoa học của đề tài luận văn

Phân tích các nhân tố tác động đến quá trình tổ chức thực hiện chương trình
XĐGN trên địa bàn xã Thạch Bằng – huyện Lộc Hà – tỉnh Hà Tĩnh.

-

Đưa ra các giải pháp có tính khoa học, thực tiễn phát huy hiệu quả về cách
thức tổ chức thực hiện chương trình XĐGN, nhằm khắc phục những khó
khăn, yếu kém trong tổ chức thực hiện chương trình XĐGN của xã Thạch
Bằng trong thời gian tới.

-

Đưa ra những nhận định chủ quan và những đề xuất về cơ chế, chính sách nhằm
góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định kinh tế xã hội của địa phương.
1.5.

Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài khoá luận gồm 4 phần tiếp :
Phần II – Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Phần III – Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Phần IV – Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Phần V – Kết luận và kiến nghị

16
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16


1
7

PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Các khái niệm liên quan
Thuật ngữ đánh giá ( Evaluation) là đưa ra nhận định tổng hợp về các dữ
kiện đo lường được qua các kỳ kiểm tra/ lượng giá (assesement) trong quá
trình và kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh với những tiêu chuẩn đã được
xác định rõ ràng trước đó trong các mục tiêu.
Đánh giá là một hoạt động định kỳ của chu trình quản lý nhằm thu thập và
phân tích các thông tin, tính toán các chỉ số để đối chiếu xem các chương
trình/hoạt động có đạt được mục tiêu, kết quả có tương xứng với với nguồn
lực bỏ ra hay không, đồng thời phân tích quá trình thực hiện kế hoạch để tìm
ra những nguyên nhân của thành công hoặc thất bại, rút ra những bài học kinh
nghiệm cho công tác lập kế hoạch tiếp theo, tăng cường các hoạt động quản lý
sau này góp phần nâng cao hiệu quả của các chương trình/hoạt động.
Đánh giá kết quả thực hiện dự án là việc sử dụng các chỉ số đánh giá.
Chỉ số là đại lượng dùng để đo lường và mô tả một sự vật hay một hiện
tượng. Chỉ số cũng dùng để so sánh kết quả mong đợi với kết quả thực tế

trong từng giai đoạn. Chỉ số tốt là chỉ số dễ tính toán, cho phép so sánh một
sự vật hay hiện tượng giữa các đơn vị với nhau. Có hai loại chỉ số: chỉ số thực
hiện và chỉ số triển khai. Các chỉ số cần phải phù hợp và cung cấp đầy đủ
thông tin về hoạt động/chương trình để ra quyết định đúng và thực hiện những
hoạt động thích hợp.
17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17


1
8

Thông thường người ta thường dùng các chỉ số triển khai (chỉ số đầu
vào, quá trình và đầu ra) để theo dõi xem các hoạt động của chương trình
được thực hiện thế nào và dùng chỉ số thực hiện (kết quả và tác động) để đánh
giá hoạt động của các chương trình.
Bước 1: Dựa trên mục tiêu của chương trình, xác định câu hỏi cho
việc đánh giá
Bước 2: Lựa chọn cho các chỉ số để đánh giá
Bước 3: Chọn thông tin/dữ liệu cho các chỉ số và các phương pháp
và nguồn thu thập thông tin
Khi đã chọn được chỉ số, hãy xác định biện pháp thu thập được những
thông tin cho từng chỉ số đã lựa chọn. Để có được các chỉ số hữu ích, ta cần
có những số liệu cần thiết, tin cậy và chính xác.
2.1.2. Các quan niệm về đói nghèo
Đói nghèo là một vấn đề được quan tâm cả trong thực tiễn và lý luận.
Có rất nhiều nghiên cứu về vấn đề này, dĩ nhiên cũng có nhiều quan điểm bất
đồng và gây tranh cãi lớn nhưng nhìn chung đều coi đói nghèo là tình trạng

một nhóm người trong xã hội không có khả năng được hưởng điều kiện sống
ở mức tối thiểu cần thiết. Sự khác nhau điều kiện sống đã được đề cập ở ba lý
thuyết chủ yếu đó là lý thuyết của trưởng phái Phúc Lợi (Benefit School),
trường phái Nhu cầu cơ bản ( Deman for basic School) và trường phái Khả
năng ( Capacity School).
Trường phái Phúc lợi, coi một xã hội có hiện tượng nghèo đói khi một
hay nhiều cá nhân trong xã hội không có được mức phúc lợi kinh tế được coi
là cần thiết để đảm bảo một cuộc sống tối thiểu hợp lý theo tiêu chuẩn của xã
hội đó. Cách hiểu này coi điều kiện sống là phúc lợi kinh tế của cá nhân, hay
độ thỏa dụng cá nhân. Tuy nhiên, vì độ thỏa dụng vốn là khái niệm mang tính
ước lệ, không thể do lường hay lượng hóa được, nên người ta thường đồng
18
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18


1
9

nhất nó với một khái niệm khác cụ thể hơn, đó là mức sống. Khi đó, tăng thu
nhập được xem là điều quan trọng nhất để nâng cao mức sống hay độ thỏa
dụng cá nhân. Theo cách hiểu này, các chính sách xóa đói giảm nghèo sẽ phải
tập trung vào việc tăng năng suất, tạo việc làm... qua đó nâng cao thu nhập
cho người dân để học có thể có được mức phúc lợi kinh tế cần thiết như xã
hội mong muốn. ( Trích : Cơ sở hoàn thiện chính sách XĐGN ở Việt Nam)
Quan niệm về đói nghèo như vậy tuy được coi là cần nhưng chưa đủ vì đói
nghèo còn bao hàm nhiều khía cạnh khác chứ không chỉ riêng thu nhập. Vì
thế, trường phái thứ hai, trường phái dựa vào nhu cầu cơ bản, coi điều kiện
sống mà người nghèo thiếu là tập hợp những hàng hóa và dịch vụ được xác

định cụ thể mà việc thỏa mãn chúng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo chất
lượng cuộc sống.
Những nhu cầu cơ bản đó bao gồm lương thực thực phẩm, nước, điều
kiện vệ sinh, nhà ở, quần áo, giáo dục và y tế cơ sở và giao thông công cộng.
Trong những nhu cầu cơ bản đó, nhu cầu về dinh dưỡng là quan trọng nhất.
Điểm khác biệt chính của trường phái này so với trường phái phúc lợi là nó
không đi vào xác định mức độ sống hay độ thỏa dụng cá nhân, mà là một hệ
thống các hàng hóa cơ bản được coi là mọi cá nhân có quyền được hưởng.
Trường phái này bắt nguồn từ những nghiên cứu đầu tiên của nhà kinh tế học
người Anh Seebohm Rowntree trong những năm 1900 và trở nên phổ biến từ
thập niên 70. Theo trường phái này, để xóa đói giảm nghèo cần có chính sách
cụ thể đối với từng loại nhu cầu cơ bản, chứ không chỉ tập trung vào mối việc
tăng thu nhập cho cá nhân. Quan điểm này về đói người được phản ánh rất rõ
qua định nghĩa về đói nghèo mà Hội nghị Quốc tế tổ chức tại Thái Lan năm
1993 đã đưa ra: “nghèo đói là tính trạng một bộ phận dân cư không có khả
năng thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy phục
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng
vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận”. [17].
19
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19


2
0

Một khó khăn lớn nhất đối với quan niệm đói nghèo theo trường phái
nhu cầu cơ bản là nhu cầu cũng thay đổi theo tuổi tác, giới tính... và các đặc
điểm nhân khẩu khác, cũng như mức độ tham gia các hoạt động của từng cá

nhân. Vì thế, trường phái thứ ba không quan tâm đến những gì thiếu để thỏa
mãn độ thỏa dụng cá nhân hay nhu cầu cơ bản của con người mà chú trọng
đến khả năng hay năng lực của con người. Do vậy, trường phái này còn được
gọi là trường phái dựa vào năng lực, mới nổi lên từ những năm 80 với người
đi tiên phong là nhà kinh tế học người Mỹ gốc Ấn Độ Amartya Sen. Theo
ông, giá trị cuộc sống của con người không chỉ phụ thuộc vào độ thỏa dụng
hay thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, mà đó là khả năng mà một con người có
được, là quyền tự do đáng kể mà họ được hưởng, để vươn tới một cuộc sống
mà họ mong muốn. Theo cách hiểu này, điều mà các chính sách xóa đói giảm
nghèo cần làm là phải tạo điều kiện để người nghèo có được năng lực thực
hiện các chức năng cần thiết, đi từ những thứ rất cơ bản như đủ dinh dưỡng,
có sức khỏe tốt, tránh được nguy cơ tử vong sớm... đến nhu cầu cao hơn như
được tôn trọng, được tham gia vào đời sống xã hội, có tiếng nói và quyền lực.
Như vậy, trường phái này khác cơ bản so với các trường phái trên ở chỗ nó
chú trọng đến việc tạo cơ hội cho người nghèo để có thể phát huy năng lực
theo cách mà họ tự chọn.
Nếu như còn có sự tranh cãi lớn giữa các trường phải khác nhau về
quan niệm nghèo đói thì trên thực tế khi được hỏi về đói nghèo là gì, câu trả
lời dường như đơn giản. Tuy nhiên, câu trả lời cũng không giống nhau giữa
các đối tượng được hỏi. Có một thực tế khi được hỏi nghèo là gì, các cá nhân
có câu trả lời khác nhau và đa dạng. Có người cho nghèo đơn giản chỉ là
không có ăn hay không có quần áo để mặc. Có người lại cho rằng nghèo là
không có nhà ở, không có tiền để cho con đi học hoặc nghèo là không dám
bộc lộ mong muốn hay ý kiến trong cộng đồng dân cư...
20
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20



2
1

Ngày nay, hầu hết các tổ chức quốc tế như World Bank, Liên hiệp quốc
đều đã mở rộng khái niệm nghèo đói để bao hàm cả những khía cạnh về năng
lực như Amartya Sen đã đề xuất. Theo đó, đói nghèo gồm những khía cạnh
sau: Thứ nhất, là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo một tiêu chí
thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng hay nói cách khác khía cạnh đầu tiên
của nghèo đói là nghèo đói theo thu nhập; Thứ hai, đi kèm theo sự khốn cùng
về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế; Thứ ba, nguy cơ bị
tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia đình hay cá nhân bị
rơi vào hoàn cảnh nghèo đói về thu nhập hoặc về sức khỏe; Thứ tư, tình trạng
không có tiếng nói và quyền lực của người nghèo.
Bên cạnh những quan niệm về đói nghèo theo ba cách tiếp cận ở trên,
các tổ chức trên thế giới cũng có những quan niệm về nghèo đói, các quan
điểm này phản ánh mục tiêu nghiên cứu, cũng như phản ánh tình trạng nghèo
của các nước trên thế giới.
Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen - Đan Mạch (1995) đã đưa ra một định nghĩa vụ thể hơn về
nghèo đói:
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “Nghèo đói là sự thiếu hụt cơ
hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng”.
Với những phát hiện đói nghèo là đa chiều, các khía cạnh đó có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau cho thấy để giải quyết đói nghèo cần có hệ thống
các chính sách hoàn chỉnh và đồng bộ. Việc chỉ ra bản chất đói nghèo sẽ là cơ
sở cho các quốc gia xây dựng một chiến lược hành động phù hợp cho mình.
Đặc biệt hệ thống giải pháp được xây dựng trên cơ sở phân tích bản chất đói
nghèo sẽ tác động một cách có hiệu quả đa chiều vấn đề này.

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21


2
2

2.1.3. Quan niệm đói nghèo của Việt Nam
Đối với quan điểm nghèo đói của Việt Nam: “Nghèo là tình trạng một
bộ phận dân cư chỉ có khả năng thỏa mãn một phần các nhu cầu cơ bản của
con người và có mức sống ngang bằng mức sống tối thiểu của cộng đồng xét
trên mọi phương diện”; “Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo, có mức
sống dưới mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc
sống”. (Hội nghị về chống nghèo đói do Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Thái Lan năm 1993).
Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác xóa đói giảm
nghèo. Chính vì vậy, trong thời gian qua nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong
hoạt động này cả về lý luận và thực tiễn. Trong đó, việc thống nhất quan niệm
đói nghèo ở Việt Nam khá phong phú. Nó được thay đổi và ngày một gần với
quan niệm đói nghèo của thế giới. Ban đầu với cách chia đói nghèo thành đói
và nghèo. Trên cơ sở đó, có người đói và người nghèo, hộ đói và nghèo, xã
nghèo, tỉnh nghèo và vùng nghèo. [16]
a. Đói và nghèo
Căn cứ xác định đói hay nghèo là những nhu cầu cơ bản con người
được hưởng và thỏa mãn. Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, tối
thiểu để duy trì sự tồn tại cảu con người như ăn, mặc, ở. Theo đó, sự đói
nghèo tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là tình trạng con người không có
ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiếu, sự đứt đoạn trong nhu cầu ăn.
Nói cách khác, đói là một khái niệm biểu đạt tình trạng con người ăn không

đủ no, không đủ năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày
và không đủ sức để lao động, để tái sản xuất sức lao động. Đói lại được chi ra
làm đói gay gắt kinh niên và đói gay gắt cấp tính. Trong đó, đói gay gắt kinh
niên là tình trạng thiếu ăn thường xuyên. Nếu con người trong những hoàn
cảnh đột xuất, bất ngờ do thiên tai bão lụt, mất mùa, bệnh tật, rơi vào cùng
22
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22


2
3

cực, không có gì để sống, không có đủ lương thực, thực phẩm để ăn, có thể
dẫn đến cái chết thì đó là trường hợp đói gay gắt cấp tính.
Dù ở dạng nào thì đói đều đi liền với thiếu chất dinh dưỡng, suy dinh
dưỡng, dễ thấy nhất là ở trẻ em và phụ nữ. Có thể hình dung tình trạng đói,
thiếu đói ở các hộ gia đình nông dân hoặc một bộ phận dân cư phải sống dưới
mức tối thiểu như đã nói trên qua động thái các bữa ăn trong ngày của họ. Có
mấy biểu hiện: Thất thường về lượng: bữa no, bữa đói; Đứt bữa: Ngày chỉ ăn
một bữa hoặc bữa cơm, bữa cháo hoặc cả hai bữa đều không đủ năng lượng
tối thiểu chứ chưa nói tới chất dinh dưỡng cần thiết. Đứt bữa kéo dài từ 1 đến
3 tháng trong năm, nhất là thời kỳ giáp hạt. Hoặc nếu đo lượng calo thì thiếu
đói (thiếu ăn) là tình trạng con người ăn chỉ ở mức 1500 calo/ngày, dưới mức
đó là đói gay gắt.
Khái niệm nghèo. Về mặt kinh tế, nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ,
nghèo túng, túng thiếu. Trong hoàn cảnh nghèo, người nghèo và hộ nghèo
phải vật lộn với những mưu sinh hàng ngày về kinh tế - vật chất, biểu hiện
trực tiếp nhất ở bữa ăn. Họ khó có thể vươn tới các nhu cầu về văn hóa - tinh

thần hoặc những nhu cầu này phải cắt giảm tới mức tối thiểu nhất, gồn như
không có. Điều này đặc biệt rõ ở nông thôn với biểu hiện hiện tượng trẻ em
thất học, bỏ học, các hộ nông dân nghèo không có khả năng để hưởng thụ văn
hóa, chữa bệnh khi ốm đau, không đủ hoặc không thể mua sắm thêm quần áo
cho nhu cầu mặc, sửa chữa nhà cửa cho nhu cầu ở... Nghèo là khái niệm chỉ
tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân chỉ dành hầu như toàn bộ cho
ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần tích lũy hầu như không có. Các nhu
cầu tối thiểu ngoài ăn ra thì các mặt khác như ở, mặc, ý tế, giáo dục, đi lại,
giao tiếp chỉ đáp ứng một phần rất ít ỏi không đáng kể.
Trên cơ sở quan nhiệm về đói và nghèo, Việt Nam đưa ra các khái niệm
tương ứng đó là hộ đói và hộ nghèo. Ngoài ra, trong điều kiện nguồn lực hạn
chế nên đòi hỏi phải tập trung ưu tiên giải quyết đói nghèo cho một số địa
23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23


2
4

phương có điều kiện khó khăn nhất nên bên cạnh đó còn xác định xã nghèo,
huyện nghèo, tỉnh nghèo và vùng nghèo.
b. Xã nghèo, huyện nghèo, tỉnh nghèo và vùng nghèo
Trong những năm qua, Việt Nam đã có cách phân loại nhằm lọc ra một số
xã khó khăn nhất (tạm thời gọi là xã nghèo) để tập trung xóa đói giảm nghèo.
Xã nghèo được xác định trong khuân khổ hỗ trợ của chương trình 135.
Ủy ban Dân dộc (UBDT) sử dụng ngưỡng nghèo của Bộ LĐ,TB & XH như
một trong 5 tiêu chí dùng để xếp loại các xã đặc biệt khó khăn thuộc diện hỗ
trợ của chương trình 135. Ngoài các xã được chọn theo tiêu chí về đói nghèo,

UBDT tiến hành chọn lựa thêm một vòng nữa dựa trên tiêu chí là địa bàn
vùng biên giới. Ở vùng miền núi phía Bắc, các xã được chọn thêm không ảnh
hưởng nhiều đến tổng số xã vì trên thực tế ở các tỉnh đó phần lớn xác xã này
bao gồm cả xã ở biên giới với Trung Quốc đã được lựa chọn theo tiêu chí xã
nghèo. Có môt điểm cần lưu ý đó là, việc xác định chính xác các xã ở các
huyện không giống nhau. Một số huyện tính các xã này trong danh sách khu
vực III (được chọn trên cơ sở đói nghèo/ thiếu cơ sở vật chất) và các xã do
UBDT chọn.
Xã nghèo trong chương trình xóa đói giảm nghèo. Ngoài các xã thuộc
chương trình 135, chương trình xóa đói giảm nghèo cũng xác định các xã
nghèo để trực tiếp hộ trợ, cụ thể là đầu tư cơ sở hạ tầng.
Căn cứ vào xã nghèo tiếp tục xác định huyện nghèo, tỉnh nghèo và
vùng nghèo. Trong đó, huyện nghèo và tỉnh nghèo được coi là huyện, tỉnh có
nhiều xã nghèo, tỉ lệ đói nghèo cao, điều kiện phát triển kinh tế xã hội khó
khăn. Vùng nghèo là những vùng có nhiều tỉnh nghèo. Tuy nhiên, khái niệm
huyện, tỉnh nghèo và vùng nghèo chưa sử dụng phổ biến. Các khái niệm như
người nghèo, hộ nghèo và xã nghèo được sử dụng rộng rãi hơn đặc biệt là
trong chương trình xóa đói giảm nghèo.
24
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24


2
5

Tóm lại, quan niệm về nghèo đói ở Việt Nam ngày càng phản ánh đúng
bản chất của nó. Nếu như nhu cầu hỗ trợ của người nghèo những năm 90 của
thế kỷ XX chỉ giới hạn đến nhu cầu “ăn no, mặc ấm” thì ngày nay, người

nghèo còn có nhu cầu được hỗ trợ về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hóa... Tiếp đến
là nhu cầu được trợ giúp để hạn chế rủi ro, quan trọng hơn cả là được quyền
tham gia nhiều hơn và có hiệu quả vào các hoạt động của xã hội.
2.1.4. Tiêu chí đánh giá nghèo đói
Tiêu chí đánh giá nghèo đói đến nay dường như đã đi đến một cách tiếp
cận tương đối thống nhất về đánh giá mức độ nghèo đói, đó là định ra một
tiêu chuẩn hay một điều kiện chung nào đó, mà hễ ai có thu nhập hay chi tiêu
dưới mức thu nhập chuẩn thì sẽ không thể có một cuộc sống tối tiểu hay đạt
được những nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại trong xã hội. Trên cơ sở mức
chung đó để tính chuẩn nghèo, có nhiều cách xác định khác nhau theo cả thời
gian và không gian.
Ở đây, cần phân biệt rõ mức sống tối thiểu và mức thu nhập tối thiểu.
Mức thu nhập tối thiểu hoàn toàn không có nghĩa là có khả năng nhận được
những thứ cần thiết tối thiểu cho cuộc sống. Trong khi đó mức sống tối thiểu
lại bao hàm tất cả những chi phí để tái sản xuất sức lao động gồm năng lượng
cần thiết cho cơ thể, giáo dục, nghỉ ngơi giải trí và các hoạt động văn hóa
khác. Do vậy, khái niệm về mức sống tối thiểu không phải là một khái niệm tĩnh
mà là động, một khái niệm tương đối và rất phong phú về nội dung và hình thức,
không chỉ tùy theo sự lựa chọn khác nhau về môi trường văn hóa, mà còn phụ
thuộc vào sự thay đổi về đời sống vật chất cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế.
Tiêu chí đánh giá nghèo đói của Ngân hàng Thế giới - World Bank
(1998): Trong tiêu chức đánh giá WB đã lựa chọn tiêu thức phúc lợi với những
chỉ tiêu bình quân đầu người bao gồm cả ăn uống, học hành, mặc, thuốc men,
dịch vụ y tế, nhà ở và giá trị hàng hóa lâu bền. Tuy nhiên, báo cáo về số liệu thu
nhập ở Việt Nam sẽ thiếu chính xác bởi phần lớn người lao động tự hành nghề.
25
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

25



×