Tải bản đầy đủ (.docx) (127 trang)

Sinh kế của người dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn phường anh dũng, quận dương kinh, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 127 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng: số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận là
trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ
nguồn gốc.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Thị Hiệp

1

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này, ngoài sự nỗ lực của
bản thân, tôi đã nhận rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ của các cá nhân,
tập thể trong và ngoài Học viện
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban Giám hiệu Học viện Nông
nghiệp Việt Nam, toàn thể các thầy cô giáo Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn;
các thầy, cô trong Bộ môn Phát triển nông thôn đã truyền đạt cho tôi những kiến
thức cơ bản và tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Nguyễn
Thị Tuyết Lan - giảng viên bộ môn Phát triển nông thôn đã trực tiếp hướng
dẫn, dành nhiều thời gian, tâm huyết chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt thời
gian thực hiện đề tài.
Qua đây tôi cũng xin cảm ơn chân thành đến toàn thể cán bộ tại UBND
Phường Anh Dũng đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi trong suốt quá trình thực tập và hoàn thiện báo cáo.


Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã
động viên và giúp đỡ tôi về tinh thần, vật chất trong suốt quá trình học tập và
thực hiện đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu vì nhiều lý do chủ quan, khách quan. Khóa
luận không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự
thông cảm và đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn sinh viên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 1 tháng 6 năm 2015
SINH VIÊN

Nguyễn Thị Hiệp
2

2


TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH)
đất nước với mục trong thời gian sớm nhất nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện mục tiêu đó, việc phát triển các
các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN), các khu đô thị mới... là
tất yếu. Tuy nhiên, việc thu hồi đất sản xuất nông nghiệp đã khiến đời sống
của người dân bị xáo trộn gây ra không ít khó khăn khi người dân phải tìm
công việc mới để mưu sinh. Đây là vấn đề cấp bách, do đó cần phải nghiên
cứu sự thay đổi sinh kế tìm ra biện pháp để đảm bảo sinh kế hộ nông dân sau khi
bị thu hồi đất một cách tốt nhất.
Phường Anh Dũng có hệ thống giao thông quan trọng và khá thuận lợi
cách trung tâm thành phố 7km, nằm trên tuyến đường 353 huyết mạch nối từ
trung tâm thành phố đến khu du lịch Đồ Sơn. Với vị trí địa lý như vậy đã tạo
điều kiện thuận lợi để phường phát triển, mở rộng giao lưu kinh tế - văn hóa

với các địa phương khác trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên, khi thực hiện CNHĐTH thì hoạt động sinh kế của hộ nông dân gặp nhiều khó khăn trong việc
chuyển đổi nghề mới. Do trình độ dân trí thấp, thu nhập chính của hộ sản xuất
nông nghiệp, lao động (LĐ) có độ tuổi cao đây chính là những hạn chế, khó
khăn khiến người dân khó tìm được kế mưu sinh phù hợp với nhu cầu. Để
giúp các hộ nông dân mất đất trong cả nước nói chung và hộ nông dân
phường Phường Anh Dũng nói riêng giảm bớt khó khăn, yên tâm sản xuất,
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách qua từng thời kỳ. Nhưng trên thực tế,
việc triển khai còn nhiều bất cập, chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Từ
đó tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “ Sinh kế của người dân sau khi bị thu
hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Phường Anh Dũng, Quận Dương Kinh,
thành phố Hải Phòng”
Mục đích của đề tài là trên cơ sở kết quả nghiên cứu sinh kế của người
dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn phường Anh Dũng, từ đó
3

3


đề xuất ra một số giải pháp nhằm ổn định sinh kế, nâng cao thu nhập và đời
sống cho các hộ dân trên địa bàn Phường Anh Dũng. Đề tài đã tiếp cận vấn đề
theo khung sinh kế bền vững của DFID, sử dụng chọn điểm, chọn mẫu nghiên
cứu, phương pháp thu thập số liệu, xử lý, phân tích thông tin và sử dụng các
chỉ tiêu đo lường kinh tế, xã hội, môi trường để nghiên cứu. Qua quá trình
nghiên cứu đạt được kết quả như sau:


Về sự thay đổi sinh kế của hộ nông dân
Sự thay đổi nguồn lực sinh kế đặc biệt là nguồn lực tự nhiên. Cụ thể,

đối với những hộ nông dân bị mất đất. Diện tích đất nông nghiệp bình quân

(BQ) giảm 15,6%/ năm. Trình độ văn hóa của hộ còn thấp, ít có trình độ
chuyên môn. Điều này gây cản trở rất lớn cho hộ vì khi thu hồi đất sẽ dẫn đến
quy mô đất đai thu hẹp, người dân phải tìm kiếm công việc mới, trình độ học
vấn và chuyên môn thấp sẽ khó tìm kiếm việc làm hơn.
Môi trường dễ bị tổn thương của hộ nông dân: nguồn lực đất đai ngày
càng suy giảm. Việc chuyển đổi nghề mới và đảm bảo ổn định nghề mới khó
khăn trong cả vốn và nguồn lực con người.
Về chiến lược sinh kế của hộ nông dân sau khi bị thu hồi đất nông
nghiệp. Chiến lược của hộ biểu hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau như thích
ứng với việc mất đất sản xuất nông nghiệp, thích ứng với môi trường thay đổi
do thu hồi đất và sự xuất hiện của các KCN, khu đô thị mới, thích ứng với
mật độ dân số tăng nhanh và đông dân ở địa phương hay thích ứng với việc
thay đổi nghề nghiệp phương thức sinh kế. Có khoảng 60% hộ dân bị mất đất
chuyển sang sản xuất ngành nghề, kinh doanh dịch vụ. Một bộ phận khác thì
làm trong các KCN. Có những hộ dân vì mất đất nên quỹ đất sản xuất còn ít,
các hộ cho thuê hay bán lại đất sản xuất nông nghiệp để đi làm thuê, làm
công... Hơn nữa, nhiều hộ dân đã thỏa nhiên vi phạm luật đất đai: lấn chiếm,
tranh chấp để tạo sinh kế cho hộ.

4

4


Kết quả sinh kế của hộ còn thấp. Với sản xuất nông nghiệp giảm rõ rệt,
phát triển các ngành nghề, dịch vụ. Việc đầu tư để phát triển các ngành nghề
cần rất nhiều vốn. Bên cạnh đó, mức độ ô nhiễm môi trường do chiến lược
sinh kế mới ngày càng cao



Về định hướng giải pháp và kiến nghị
Từ thực trạng sự thay đổi sinh kế của hộ nông dân trong các TDP và

những thuận lợi khó khăn còn tồn tại, cùng với những vấn đề phát sinh đề tài
đã đưa ra định hướng chuyển đổi sang mô hình sinh tế mới mang tính bền
vững: phát triển đa dạng hóa các ngành nghề ở địa phương, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH.
Để cải thiện sinh kế cho hộ, đề tài đã đề ra một số giải pháp. Trong đó
tập trung vào 5 nguồn lực sinh kế và giải pháp cho từng nhóm hộ có mức độ
mất đất khác nhau.
Đề tài đưa ra những kiến nghị đối với cơ quan nhà nước, các doanh
nghiệp, các hộ dân nhằm thúc đẩy tiến trình cải thiện sinh kế trong thời gian tới.
Tóm lại, đề tài đã đưa ra được một số biện pháp tháo gỡ khó khăn cho
hộ nông dân. Tuy nhiên những giải pháp này có hiệu quả hay không còn tùy
thuộc vào nhiều yếu tố, không chỉ bản thân hộ nông dân mà cần phải có sự hỗ
trợ của các cơ quan chức năng.

5

5


MỤC LỤC

6

6


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH ẢNH

7

7


DANH MỤC HỘP

DANH MỤC VIẾT TẮT

8

BQ

: Bình quân

CC

: Cơ cấu

CSHT

: Cơ sở hạ tầng

CSVC

: Cơ sở vật chất


CN

: Công nghiệp

CNH-ĐTH

: Công nghiệp hóa- đô thị hóa

DT

: Diện tích

HCSN

: Hành chính sự nghiệp

HĐH

: Hiện đại hóa

KCN

: Khu công nghiệp

8


9




: Lao động

SL

: Số lượng

THPT

: Trung học phổ thông

THCS

: Trung học cơ sở

TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp

TM-DV

: Thương mại- dịch vụ

UBND

: Ủy ban nhân dân

XKLĐ

: Xuất khẩu lao động


9


PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với xu thế đô thị hóa chung của cả nước, Hải Phòng - một trong

năm đô thị lớn nhất cả nước, trực thuộc trung ương, đang có những thay đổi
mạnh mẽ về kinh tế - xã hội và các lĩnh vực khác. Với tốc độ tăng trưởng
hàng năm cao và có xu hướng tăng liên tục trong nhiều năm, đô thị Hải
Phòng có tốc độ đô thị hóa vào loại cao trong cả nước. Do nằm trong tam
giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh nên trong những năm qua
thành phố đã thu hút được rất nhiều vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa, đặc biệt đẩy mạnh quá trình
hiện đại hóa, đô thị hóa nông thôn. Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư
thành phố Hải Phòng, tính hết ngày 01/12/2014, trên địa bàn thành phố có
409 dự án đầu tư nước ngoài đến từ 28 quốc gia và vùng lãnh thổ, với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 9.928,4 triệu USD. Hiện nay, ở Hải Phòng các khu
công nghiệp, khu đô thị, công trình công cộng mọc lên ngày càng nhiều. Tốc
độ tăng trưởng công nghiệp và giá trị thu từ sản xuất công nghiệp không
ngừng tăng lên qua các năm.
Anh Dũng là phường thuộc quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
Đây là phường chịu ảnh hưởng mạnh của quá trình xây dựng các khu công
nghiệp, khu đô thị trong những năm qua. Trước đây người dân đa số sản xuất
nông nghiệp, cuộc sống gắn liền với ruộng đất, thu nhập chủ yếu dựa vào cây
trồng, vật nuôi. Nhưng hiện nay do sự thay đổi và hội nhập, các khu đô thị

mới dần mọc lên, các công trình công cộng, các khu công nghiệp ngày càng
được xây mới nên diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Điều này
có ảnh hưởng to lớn đến đời sống, sinh kế của người dân trong phường. Việc
thu hồi đất nông nghiệp giúp người dân trên địa bàn sáng tạo phương thức sản
10

10


xuất, tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động có trình độ, các khu công
nghiệp mọc lên nhiều làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới thu hút lượng lao
động tại chỗ và lao động nơi khác đến làm tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ. Do
nhiều nông dân nhận được tiền đền bù đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh
nên thu nhập cũng tốt hơn. Tuy nhiên các hộ bị thu hồi đất phần lớn là những
hộ sản xuất nông nghiệp. Sau khi bị thu hồi đất, có nhiều hộ đã được cải tạo
điều kiện chuyển đổi sang ngành nghề khác, nhưng cũng rất nhiều hộ phải đối
mặt với mất việc làm. Việc thu hồi đất không chỉ làm các hộ nông dân mất đi
tài sản sinh kế đặc biệt quan trọng là đất đai mà còn làm mất đi địa vị, các cơ
hội, nguồn thực phẩm, thu nhập của hộ gia đình và công cộng, gây ra sự xáo
trộn xã hội. Không còn hoặc còn rất ít đất sản xuất nông nghiệp, với trình độ
dân trí có hạn, quen lao động chân tay, người nông dân phải tìm mọi cách
xoay sở với cuộc sống mới. Có nhiều người phải đổ ra thành thị để kiếm việc
làm và đối mặt với những rủi ro của cuộc sống nơi đô thị, một số ít lao động
trẻ được tuyển dụng vào làm việc trong khu công nghiệp, một số lao động tìm
kiếm làm tại các địa phương khác hoặc mở các dịch vụ (mở quán nước, xây
dựng nhà ở cho thuê…). Bên cạnh đó những nông dân không bị thu hồi đất
cũng bị tác động đến sản xuất của mình, một phần lao động trong gia đình
chuyển sang làm việc trong nhà máy hoặc dịch vụ trong khu công nghiệp.
Sinh kế của họ thay đổi ra sao sau khi bị thu hồi đất? Những đối tượng nào bị
ảnh hưởng nặng nề nhất? Sự thay đổi sinh kế của người dân ở đó đem lại cho

họ những gì, sẽ tốt hơn trước hay không được như trước? Đây là những câu
hỏi được đặt ra cho địa phương để định hướng phát triển cho thời gian sau tới.
Xuất phát từ thực tế đó tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Sinh kế của
người dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn Phường Anh
Dũng, Quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng”
1.2.

11

Mục tiêu nghiên cứu
11


1.2.1.

Mục tiêu chung
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu sinh kế của người dân sau khi bị thu hồi

đất nông nghiệp trên địa bàn phường Anh Dũng, từ đó đề xuất ra một số giải
pháp nhằm ổn định sinh kế, nâng cao thu nhập và đời sống cho các hộ dân
trên địa bàn Phường Anh Dũng.

-

Mục tiêu cụ thể
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến sinh kế của người dân
Phản ánh thực trạng sinh kế và những thay đổi đến sinh kế của người dân sau

-


khi bị thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn phường Anh Dũng
Đề xuất một số giải pháp nhằm ổn định sinh kế cho người dân trên địa bàn

1.2.2.
-

-

phường Anh Dũng.
1.3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Sinh kế của người dân
Chủ thể nghiên cứu: Các hộ dân bị thu hồi đất nông nghiệp
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1.
Phạm vi nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp
đến sinh kế của hộ nông dân trên địa bàn phường Anh Dũng. Từ đó đề xuất ra
một số giải pháp nhằm ổn định sinh kế cho người dân bị thu hồi đất.
1.3.2.2.

Phạm vi về không gian
Nghiên cứu trên địa bàn phường Anh Dũng, quận Dương Kinh, thành

phố Hải Phòng.
Pham vi về thời gian
Số liệu thứ cấp qua các báo cáo thống kê qua 3 năm 2012-2014
Số liệu điều tra : tháng 1/2015- tháng 5/2015
Số liệu sơ cấp: Các số liệu thu thập trong các năm 2012, 2013, 2014 và những

1.3.2.3.
-

tháng đầu năm 2015

PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN

2.1. Cơ sở lý luận

12

12


2.1.1. Các lý luận về sinh kế
2.1.1.1. Khái niệm về sinh kế
Ý tưởng sinh kế được đề cập trong các tác phẩm nghiên cứu của Robert
Chamber những năm 1980. Về sau khái niệm này xuất hiện nhiều hơn trong
các nghiên cứu của F. Ellis, Barrett và Reardon, Morrison, Dorward... Có
nhiều cách tiếp cận khác nhau và định nghĩa khác nhau về sinh kế, tuy nhiên
có sự nhất trí rằng khái niệm sinh kế bao hàm nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến
hoạt động sống của mỗi cá nhân hay hộ gia đình. Về căn bản, các hoạt động
sinh kế là do mỗi cá nhân hay nông hộ tự quyết định dựa vào năng lực và khả
năng của họ, đồng thời chịu tác động của các thể chế chính sách và những
quan hệ xã hội mà cá nhân hoặc hộ gia đình đã thiết lập trong cộng đồng.
Trong nhiều nghiên cứu của các tác giả, tổ chức đã đưa ra các khái
niệm khác nhau về sinh kế và được chấp nhận. Một số như:
Theo Chambers and Conway (1991): “Sinh kế bao gồm năng lực, tài
sản (dự trữ, nguồn lực, yêu cầu và tiếp cận) và các hoạt động cần có để bảo

đảm phương tiện sinh sống, sinh kế chỉ bền vững khi có thể đương đầu với và
phục hồi sau các cú sốc, duy trì hoặc cải thiện năng lực và tài sản, và cung cấp
các cơ hội sinh kế bền vững cho các thế hệ kế tiếp và đóng góp lợi ích ròng
cho các sinh kế khác ở cấp độ địa phương hoặc toàn cầu, trong ngắn hạn và
dài hạn”.
Tác giả F. Ellis (2000) cho rằng: “Sinh kế bao gồm các nguồn lực (tự
nhiên, vật chất, tài chính, con người, xã hội) và các hoạt động và sự tiếp cận
các nguồn lực trên (hỗ trợ bởi thiết chế và quan hệ xã hội) để cùng đạt một
mức sống cho cá nhân và hộ gia đình”.
Theo British Departmen for International Development (DFID) (1999):
“Sinh kế bao gồm khả năng, nguồn lực (gồm các nguồn lực vật chất xã hội)
cùng các hoạt động cần thiết làm phương tiện sống cho con người”.

13

13


Nghiên cứu Bùi Đình Toái (2004), khái niệm sinh kế của hộ hay một
cộng đồng là một tập hợp của các nguồn lực và khả năng của con người kết
hợp với những quyết định và hoạt động mà họ sẽ thực hiện không những để
kiếm sống mà còn đạt đến mục tiêu đa dạng hơn. Hay nói cách khác, sinh kế
của một hộ gia đình hay một cộng đồng còn được gọi là kế sinh nhai hay
phương tiện kiếm sống của gia đình hay cộng đồng đó.
Khái niệm về sinh kế có thể miêu tả như là một tập hợp các nguồn lực
và khả năng của con người có thể kết hợp được với những quyết định và
những hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không những kiếm sống mà đạt đến
mục tiêu và ước nguyện của họ.
Tóm lại, ta có thể hiểu một cách đơn giản sinh kế của một hộ gia đình
hay một cộng đồng là kế sinh nhai hay phương tiện kiếm sống của hộ gia đình

hay cộng đồng đó. Sinh kế được tạo nên bởi sự tương tác giữa những hoạt
động của cộng đồng, các quyền lợi, những công cụ đương đầu với tính dễ bị
tổn thương và những biện pháp thích hợp chống lại khủng hoảng dựa trên
nguồn lực của cộng đồng.
Phương pháp tiếp cận sinh kế có mục đích giúp người dân đạt được
thành quả lâu dài trong sinh kế mà những kết quả đó được đo bằng các chỉ số
do bản thân họ tự xác lập và vì thế họ sẽ không bị đặt ra bên ngoài. Điều đó
thể hiện tính chất lấy người dân làm trung tâm. Phương pháp này thừa nhận
người dân có những quyền nhất định, cũng như trách nhiệm giữa họ với nhau
và xã hội nói chung.
Phương pháp tiếp cận sinh kế được sử dụng để xác định, thiết kế và
đánh giá các chương trình, dự án mới, sử dụng cho đánh giá lại các hoạt động
hiện có, sử dụng để cung cấp thông tin cho việc hoạch định chiến lược và sử
dụng cho nghiên cứu. Một trong những điểm nổi trội của tiếp cận sinh kế là
khả năng linh hoạt và khả năng áp dụng của chúng đối với nhiều tình huống.
2.1.1.2.

14

Khung sinh kế bền vững

14


Khung sinh kế bền vững bao gồm những nhân tố chính ảnh hưởng đến
sinh kế của con người, và những mối quan hệ cơ bản giữa chúng. Khung sinh
kế có thể sử dụng để lên kế hoạch cho những hoạt động phát triển mới và
đánh giá sự đóng góp vào sự bền vững sinh kế của những hoạt động hiện tại.
Một sinh kế được coi là bền vững khi con người với khả năng của
mình có thể đối phó với những yếu tố dễ bị tổn thương, đồng thời có thể duy

trì hoặc thậm chí nâng cao khả năng nguồn lực sinh kế. Hay nói cách khác
sinh kế bền vững là không được khai thác quá mức gây bất lợi cho môi
trường hoặc cho các sinh kế khác ở hiện tại và tương lai. Ngược lại, chúng ta
phải góp phần thúc đẩy sự hòa hợp giữa chúng và mang lại điều tốt đẹp cho
mai sau.
Theo Chambers và Conway (1991), sinh kế được coi là bền vững khi
có thể đương đầu vượt qua những áp lực sống và duy trì hoặc nâng cao khả
năng cũng như tài sản ở cả hiện tại và tương lai, nhưng không gây ảnh hưởng
xấu đến cơ sở tài nguyên thiên nhiên.
Koos Neefjs (2003), quan niệm về sự bền vững sinh kế của một người
hay một gia đình khi họ đương đầu và phục hồi được các căng thẳng và chấn
động để tồn tại hoặc nâng cao thêm tổn hại đến các nguồn lực môi trường.
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sinh kế
bền vững và được tiến hành ở nhiều tổ chức khác nhau, mỗi tổ chức đưa ra
quan điểm riêng về sinh kế bền vững theo cách nhìn của họ. Tuy nhiên, họ
đều dựa trên việc xây dựng khung sinh kế bền vững để làm rõ quan điểm của
mình. Có ba quan điểm tương ứng với ba khung sinh kế được đưa ra đó là
khung sinh kế bền vững của UNDP, khung sinh kế bền vững của CARE và
khung sinh kế của DFID.

15

15




Khung sinh kế bền vững của UNDP
UNDP đã sử dụng cách tiếp cận sinh kế bền vững để xây dựng khung
sinh kế bền vững của mình như sau:

Sinh kế bền
vững

Kết quả

Các chiến lược thích ứng,
nguồn vốn, tri thức, công
nghệ.

Các chính sách vĩ mô,
nhà nước, địa phương

Các lựa
chọn

Công nghệ và các
hoạt động đầu tư

Công cụ

Nguồn: UNDP, 2001
Sơ đồ 2.1: Khung sinh kế bền vững của UNDP
Dựa vào khung sinh kế bền vững ở trên ta có thể thấy, để đạt được sinh kế
bền vững con người cần lựa chọn các chiến lược sinh kế sao cho phù hợp với
khả năng của mình dựa trên các tài sản, kiến thức mình có, kết hợp với đầu tư
công nghệ, hạ tầng kinh tế xã hội cùng những chính sách cũng như cơ chế quản
lý của nhà nước. Khung sinh kế là một chu trình khép kín phản ảnh mối quan hệ
tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố trong đó nhấn mạnh vào
các chiến lược sinh kế có khả năng chống chịu và đối phó với những thay đổi
trong môi trường bên ngoài mà con người không thể kiểm soát được.


16

16


Điểm nổi bật trong khung phân tích của UNDP là đã nhấn mạnh vào
khuyến khích, thúc đẩy người dân sử dụng và quản lý nguồn vốn của mình
một cách hiệu quả và bền vững. Trong đó các nguồn vốn được định nghĩa
như sau:
Nguồn vốn tự nhiên (đất, nước, tài nguyên , động thực vật...), nguồn
vốn xã hội (cộng đồng, gia đình, mối quan hệ xã hội...), nguồn vốn chính trị
(mức độ tham gia, quyền lợi chính trị...), nguồn vốn con người (lao động, giáo
dục, sức khỏe, dinh dưỡng...), nguồn vốn vật chất (đường giao thông, trạm y
tế, trường học...), nguồn vốn kinh tế (nghề nghiệp, tín dụng, tiết kiệm...).
Theo đó, tính bền vững của một sinh kế thể hiện ở cách thức mà con
người sử dụng các tài sản của mình ở cả hiện tại và tương lai. Sinh kế bền
vững là sinh kế đảm bảo được các yếu tố sau đây:
Một là, có khả năng đương đầu và phục hồi sau những cú sốc thông qua
những chiến lược đối phó và thích nghi, trong đó các chiến lược sinh kế đối
phó được áp dụng trong ngắn hạn, còn các chiến lược thích nghi được áp
dụng trong dài hạn.
Hai là, hiệu quả về mặt kinh tế tức là phải mang lại thu nhập cho
con người.
Ba là, bền vững về mặt sinh thái tức là không làm suy giảm các nguồn
tài nguyên thiên nhiên trong hệ sinh thái.
Bốn là, đảm bảo công bằng xã hội nghĩa là phát triển sinh kế cho một
nhóm người này sẽ không ảnh hưởng đến sinh kế của nhóm người khác ở cả
hiện tại và tương lai.
Như vậy, khung phân tích sinh kế của UNDP khá đơn giản nhưng

mang tính tổng quát cao, có thể áp dụng rộng rãi cho nhiều đối tượng. Khung
phân tích sinh kế UNDP ra đời tạo tiền đề cho các lý thuyết sinh kế sau này.

17

17




Khung phân tích sinh kế bền vững của CARE
Khung phân tích sinh kế bền vững của CARE được thể hiện trong sơ đồ 2.2:

Bối cảnh

Chiến lược sinh kế

Kết quả sinh kế

Nguồn: IFAD SL workshops, 2010
Sơ đồ 2.2: Khung sinh kế bền vững của CARE
Khung sinh kế bền vững của CARE phát triển trên khung sinh kế của
UNDP. Tuy nhiên, khung phân tích của CARE đã chỉ rõ đối tượng phân tích
là hộ gia đình, lấy hộ gia đình làm trung tâm, cụ thể hơn khung phân tích của
UNDP, CARE cũng đã đưa các nguồn lực vào khung phân tích nhưng chia
các nguồn lực ra làm hai loại: Một loại thuộc sở hữu của hộ gia đình còn gọi
là tài sản của hộ gia đình, một loại không thuộc sở hữu của gia đình mà là tài
sản chung của cộng đồng, các hộ chỉ được phép khai thác, sử dụng, ví dụ như
tài nguyên thiên nhiên. Theo đó, nguồn lực tự nhiên không được coi là tài sản
của hộ gia đình mà chỉ là yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn sinh kế

của hộ gia đình. Các chiến lược sinh kế của hộ gia đình theo CARE còn chịu
sự tác động của môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, CSHT kỹ thuật cũng
như những cú sốc mà con người không thể kiểm soát được. Theo quan điểm
của CARE, để thấy thực trạng sinh kế của hộ gia đình thì không chỉ dừng lại
18

18


ở việc nghiên cứu các chiến lược sinh kế của họ mà cần nghiên cứu sự thay
đổi diễn ra trong sinh kế của hộ gia đình thông qua việc giám sát quá trình
trao đổi và tiêu thụ, đồng thời đánh giá tài sản của các thành viên trong hộ gia
đình. Ngoài ra, khung phân tích của CARE còn nhấn mạnh sự tham gia của
cộng đồng trong việc tăng cường năng lực của họ để chủ động đối phó với
những cú sốc và bảo vệ sinh kế của mình.
Như vậy, khung sinh kế bền vững của CARE đã góp phần tạo nên một
số gợi ý quan trọng cho các tổ chức sau này khi nghiên cứu về sinh kế cũng
như khung sinh kế bền vững cho mình.


Khung sinh kế bền vững của DFID
Theo DFID, khung sinh kế bền vững được tạo thành từ năm yếu tố:
phạm vi rủi ro hay bối cảnh dễ bị tổn thương; tài sản sinh kế hay các nguồn
lực sinh kế; cơ cấu và tiến trình thực hiện; các chiến lược sinh kế và kết quả
sinh kế.
Theo khung phân tích này, mỗi hộ gia đình đều có những phương thức
kiếm sống riêng dựa vào nguồn lực có sẵn đặt trong bối cảnh chính sách và
thể chế nhất định, chịu tác động của môi trường dễ bị tổn thương.
Khác với CARE, DFID không đặt con người vào vị trí trung tâm như
CARE, do đó khung phân tích của DFID chưa có điểm nhấn, các yếu tố có vai

trò như nhau trong khung phân tích.

19

19


Tổ chức DFID đã đưa khung sinh kế bền vững như sau :
TÀI SẢN SINH KẾ

Các kết quả sinh kế
Bối cảnh dễ tổn thương Chính sách , tiến trình và cơ cấu
-Thu
nhiều
-Ở
các
cấp
khác
nhau
của
Chính
phủ,
luật
pháp,
chính
sáchnhập
công,
các hơn
động lực, các quy tắc
-Xu hướng

-Cuộc
sống
đầy
đủ
hơn
Chính
sách

thái
độ
đối
với
khu
vực

nhân
-Thời vụ
-Giảm
khả
năng
tổn
thương
trị và kinh tế (thị trường, văn hóa )
ên và môi trường, thị trường, chính Các thiết chế công
trị,dân,
chiếnchính
tranh…)
-An
ninh
lương

thực
được cải thiện
Con người
Ảnh hưởng và khả năng tiếp cận
-Công bằng xã hội được cải thiện
Chiến
lược sinh kế
-Tăng tính bền vững của tài nguyên thiê
-Giá trị không sử dụng của tự nhiên đư
Xã hội

Vật chất

Tự nhiên

Tài chính

Biểu đồ 2.1 : Khung sinh kế bền vững
Nguồn ADB ( Trích từ DFID)


Tình huống dễ bị tổn thương:
Tình huống dễ bị tổn thương đề cập tới phạm vi hộ nông dân bị ảnh

hưởng và bị lâm vào các loại sốc. Một đặc điểm quan trọng trong khả năng
tổn thương là con người không hoặc khó có thể can thiệp và kiểm soát được.
Khả năng tổn thương hay sự bấp bênh trong sinh kế tạo ra từ những yếu tố
này là một thực tế cho nhiều hộ nông dân. Sự chống đỡ của hộ nông dân đối
với các yếu tố này là rất nhỏ bé và khó khăn.
 Các nhân tố ảnh hưởng đến sinh kế:


Để duy trì sinh kế, mỗi hộ gia đình thường có các kế sách sinh nhai
khác nhau. Kế sách sinh nhai của hộ hay chiến lược sinh kế của hộ là quá
20

20


trình ra quyết định về các vấn đề cấp hộ. Bao gồm những vấn đề như thành
phần của hộ, tính gắn bó giữa các thành viên, phân bổ các nguồn lực vật chất
và chi phí vật chất của hộ.
Chiến lược sinh kế của hộ phải dựa vào năm loại nguồn lực (tài sản) cơ
bản sau:
Nguồn nhân lực

Nguồn lực xã hội

Nguồn lực tự nhiên
SINH KẾ

Nguồn lực vật chất

Nguồn lực tài chính

Sơ đồ 2.3 Các nguồn lực sinh kế
Nguồn nhân lực: bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức
khoẻ con người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những
chiến lược tìm kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai
của họ. Ở mức độ gia đình nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất
lượng nhân lực có sẵn. Những thay đổi này phụ thuộc vào quy mô hộ, trình độ

kỹ năng, khả năng lãnh đạo và bảo vệ sức khoẻ.
Nguồn nhân lực là một yếu tố cấu thành nên kế sinh nhai. Nó được xem
là nền tảng hay phương tiện để đạt được mục tiêu thu nhập.
Nguồn lực xã hội: là những nguồn lực định tính dựa trên những gì mà
con người vẽ ra để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm:
Các tương tác và mạng lưới, cả chiều dọc (người bảo lãnh/khách hàng
quen) và chiều ngang (giữa các cá nhân có cùng mối quan tâm) có tác động
làm tăng cả uy tín và khả năng làm việc của con người, mở rộng tiếp cận với
các thể chế, như các thể chế chính trị và cộng đồng.
21

21


Nguồn lực tự nhiên: là cơ sở các tài nguyên thiên nhiên của hộ hay
cộng đồng, được trông cậy vào để sử dụng cho mục đích sinh kế như đất đai,
nguồn nước, cây trồng, vật nuôi, mùa màng... Trong thực tế, sinh kế của
người dân thường bị tác động rất lớn bởi những yếu tố biến động của nguồn
lực tự nhiên.
Trong khung sinh kế bền vững. Mối quan hệ giữa nguồn vốn tự nhiên
và các tổn hại có sự gắn kết thực sự.
Nguồn lực vật chất: gồm các cơ sở hạ tầng xã hội, tài sản hộ gia đình
hỗ trợ cho sinh kế như: giao thông, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống ngăn,
tưới tiêu, cung cấp năng lượng, nhà ở, các phương tiện sản xuất, đi lại,
thông tin...
Nguồn lực tài chính: là những gì liên quan đến tài chính được con
người sử dụng để hướng tới mục tiêu sinh kế của hộ gia đình gồm: nguồn thu
nhập tiền mặt, tiền tiết kiệm, tín dụng và các nguồn thu khác như: tiền lương,
nguồn hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài...
Sự phân chia các nguồn lực của DFID rõ ràng và cụ thể hơn so với

CARE. Sự phân chia này bao quát được toàn bộ tài sản của một hộ gia đình,
bao gồm cả tài sản thuộc quyền sở hữu của hộ gia đình và các tài sản thuộc sở
hữu chung của cộng đồng nhưng hộ gia đình được quyền sử dụng.
Khung phân tích này còn khá trừu tượng và khó hiểu, tuy nó đã nêu lên
được các yếu ảnh hưởng đến sinh kế của người dân nhưng nó vẫn chưa làm rõ
được mối quan hệ giữa các yếu tố đó.
Như vậy, ở nghiên cứu này tôi sẽ chọn khung sinh kế bền vững của
DFID để nghiên cứu sự thay đổi sinh kế của người dân sau khi bị thu hồi đất
nông nghiệp. Sau khi thu hồi đất như một cú sốc tạo nên bối cảnh dễ bị tổn
thương. Bên cạnh đó, có thêm những chính sách và sự thay đổi thể chế được
nhấn mạnh trong khung sinh kế của DFID dẫn đến thay đổi thích ứng của sinh
kế là phù hợp với đề tài.
22

22




Các chiến lược sinh kế
Các chiến lược được dùng để chỉ phạm vi kết hợp những lựa chọn và

quyết định mà hộ nông dân đưa ra trong việc sử dụng các nguồn lực sinh kế
để thực hiện các hoạt động khác nhau nhằm tạo thu nhập và nâng cao đời
sống. Việc lựa chọn các chiến lược sinh kế không chỉ phụ thuộc vào các
nguồn lực sinh kế mà còn phụ thuộc vào tình huống dễ bị tổn thương, cơ chế
chính sách. Các chiến lược sinh kế bao gồm: các tác nhân xã hội, các cơ sở
tài nguyên thiên nhiên, cơ sở thị trường, tính đa dạng, tính sinh tồn và tính
bền vững.
Một sinh kế được coi là bền vững khi các chiến lược sinh kế đó phải có

khả năng chống chịu, đương đầu và phục hồi trước những biến động và những
cú sốc từ môi trường dễ bị tổn thương.


Kết quả sinh kế
Mục đích của việc sử dụng khung sinh kế là để tìm hiểu những cách

thức mà con người kết hợp và sử dụng các nguồn lực, khả năng kiếm sống
cũng như đạt được mục tiêu và ước nguyện của họ. Những mục tiêu và ước
nguyện này có thể gọi là kết quả sinh kế. Cụ thể những kết quả sinh kế là
những vấn đề thuộc về an sinh xã hội, thu nhập, an ninh lương thực,khả năng
ứng biến trước những thay đổi, cải thiện công bằng xã hội cho hiện tại và cả
tương lai.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Thực trạng nông dân mất đất nông nghiệp ở một số nước trên thế
giới.
2.2.1.1. Ở Trung Quốc
Trung Quốc là một quốc gia có điều kiện tự nhiên và phong tục tập
quán tương đối giống Việt Nam. Là nước đông dân nhất thế giới, và phần lớn

23

23


dân số sống ở khu vực nông thôn. Trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất
nước, Trung Quốc luôn theo đuổi sự nghiệp CNH. Nông nghiệp nông thôn
cũng đưa ra mục tiêu phát triển theo hướng CNH. Trong cơ cấu ngành nghề
của Trung Quốc thì công nghiệp và xây dựng là hai ngành chủ yếu và chiếm
trên 84%. Như vậy, nông nghiệp nông thôn đã chịu tác động mạnh mẽ của

quá trình này. Diện tích đất nông nghiệp còn lại của hộ nông dân tại đây là
rất nhỏ, đời sống hàng trăm triệu nông dân gặp nhiều khó khăn, làm gia tăng
khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền và các ngành nghề. Thu nhập
người dân nông thôn không bằng 1/3 dân thành phố. Việc làm của người dân
là không ổn định và thu nhập rất thấp. Để giải quyết vấn đề trên, Trung
Quốc đã đưa ra hàng loạt các chính sách mà được khái quát trong 10 chữ:
“Nâng thấp, mở trung, điều cao, đánh phi, giúp khó” nhằm phân phối lại thu
nhập cũng như ổn định lâu dài đời sống văn hoá xã hội cho người dân.
(webside: 2008.
2.2.1.2. Ở Hàn Quốc
Hàn Quốc cũng là một quốc gia có nhiều sự tương đồng với sự phát
triển kinh tế của việt nam. Trước những năm 70, Hàn Quốc cũng là môt nước
nông nghiệp, nông nghiệp chiếm tới 50% GDP Hàn Quốc cũng là người Châu
Á, mang ý thức hệ của người Á Đông: mặc cảm, tự ti. Trước năm 1970, GDP
bình quân đầu người của Hàn Quốc tương tự nước ta vào năm 1991, 1992,
khoảng 300-350 USD/người/năm. Cũng là nước bị chiến tranh bị tàn phá
nặng nề, năm 1954 thực hiện cải cách ruộng đất. Nhà nước mau lại đất của
chủ có trên 3ha để bán lại cho nông hộ thiếu đất với phương thức trả dần để
tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển từ năm 1965 đến năm 1971 tốc độ phát
triển nông nghiệp tăng 2,5%. Năm 1971 đến năm 1978 tăng 6,9%, 3/5 đất
hoang được nông hộ khai thác sử dụng hiệu quả cao. Năm 1975 tự túc được
nhiều lương thực và nông sản khác, chăn nuôi tăng từ 8-10%/năm. Cơ cấu

24

24


sản xuất chuyển dịch theo hướng hang hóa với hệ thống cây, con, ngành nghề
có giá trị kinh tế cao. Thu nhập phi nông nghiệp chiếm 35% tổng số.

Trước năm 1970 Hàn Quốc lấy CNH-HĐH làm trọng điểm, công
nghiệp tăng trưởng rất nóng nhưng lại không có cơ hội vì không có thị trường.
Trong khi đó nông nghiệp tăng chậm. Nhưng khoảng cách giứa thành thị và
nông thôn, giữa giàu - nghèo lớn.
Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra một con đường giải phóng đó là phong
trào “Sumomidon (phong trào xây dựng nông thôn mới)”. Học tập phương
châm “lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp phát triển nông
nghiệp”. Một mặt vẫn phát triển công nghiệp mặt khác vẫn đầu tư vào nông
nghiệp phát huy nội lực của người nông dân trên mảnh đất của họ để phát
triển kinh tế. Chính phủ đầu tư, hỗ trợ vào nông nhiệp bằng vật chất để phát
triển nông nhiệp, nông thôn. Với tư tưởng là chỉ đầu tư tài chính một phần
chủ yếu là vật chất bằng cách đưa sản phẩm công nghiệp không thể ra thi
trường tiêu thụ về nông thôn như sắt, thép,…xây dựng cơ sở vật chất như:
đường giao thông, các công trình công cộng (trường học, bệnh viện…)
2.2.2. Một số kinh nghiệm giải quyết vấn đề sinh kế và việc làm cho hộ
nông dân bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
2.2.3.1 Kinh nghiệm của thành phố Hà Nội
Theo thống kê của Bộ Lao động – TBXH trong 5 năm (2001 - 2004) số
người mất việc do bị thu hồi đất phục vụ cho các nhu cầu: xây dựng KCN,
khu chế xuất, khu đô thị... ở Hà Nội là gần 800.000 người. Trong 8 năm (từ
2001 đến 2007), Hà nội đã triển khai hơn 2800 dự án đầu tư liên quan đến thu
hồi đất. Thành phố đã bàn giao cho chủ đầu tư gần 1300 dự án với 6300 ha
đất, trong đó trên 80% là đất nông nghiệp, liên quan đến gần 180.000 hộ dân.
Bình quân mỗi năm Hà Nội đã giải phóng mặt bằng gần 1000ha.
( />
25

25



×