Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận chủ đề Tự do hóa tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.43 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HCM


Tiểu luận :

“ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH “
GVHD : Th.S TRƯƠNG MINH TUẤN
NHÓM 7

TP Hồ Chí Minh
Tháng 12 năm 2014


I Khái niệm và phân loại tự do hoá tài chính
1.1Khái niệm
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm
soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho
hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Như vậy, bước đầu tiên trong việc tự do hóa dịch vụ tài chính là xóa bỏ các
quy định, rào cản pháp lý. Việc xóa bỏ các quy định, rào cản không có nghĩa là
xóa bỏ một cách hoàn toàn, mà cần bãi bỏ những quy định không cần thiết, có
tính ngăn cản sự phát triển các chủ thể.
Những quy định, những rào cản pháp lý được xóa bỏ, từ đó giúp cho các chủ
thể phát triển cảvề mặt chất lượng cũng như số lượng.Nói cách khác, đây là sự
đa dạng hóa các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính cũng như các sản phẩm dịch
vụ tài chính.Đồng thời, lúc này các chủ thểcung cấp dịch vụ kể cả trong nước
lẫn nước ngoài sẽ bình đẳng với nhau, cùng cạnh tranh trong một “sân chơi”
bình đẳng.
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại
vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị


trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường
trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội.
1.2 Phân loại tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính trong nước: cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự
do thực hiện các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài
chính trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ
được điều hành theo tín hiệu thị trường.
Trước tự do hóa, nhà nước nắm giữ tòan bộ hệ thống ngân hàng và các công
ty bảo hiểm. Do đó, ngoài hình thức sở hữu nhà nước, không có một hình thức
sở hữu nào khác. Quá trình tự do hóa đưa đến sự song song tồn tại giữa khu vực
nhà nước và khu vực tư nhân. Bên cạnh các ngân hàng thương mại, công ty bảo
hiểm, định chế khác của nhà nước, các ngân hàng thương mại cổ phần, các công
ty bảo hiểm, công ty tài chính dưới nhiều hình thức sở hữu khác nhau được


thành lập. Phạm vi hoạt động của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính này
cũng không bị hạn chế. Tư nhân hóa ở mức độ hợp lý là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công của tiến trình tự do hóa nội bộ.
Tự do hóa tài chính với nước ngoài: loại bỏ kiểm soát vốn, và các hạn chế
trong quản lí ngoại hối bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự do hóa giao
dịch vốn.
Mở cửa cạnh tranh đòi hỏi cho phép các chủ thể nước ngoài hoạt động trên
lãnh thổ quốc gia (đều được người ta gọi là quyền thành lập), tạo cho các chủ
thể này những điều kiện hoạt động như những chủ thể trong nước. Tuy nhiên,
điều này không có nghĩa là chấm dứt mọi quy định hay giám sát các hoạt động
cung cấp dịch vụ. Tự dohóa đòi hỏi phải tăng cường cơ sở hạ tầng quy chế và
các cơ quan giám sát.
II. Những thuận lợi và khó khăn của tự do hoá tài chính.
2.1 Thuận lợi
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động dịch vụ tài chính cũng giống như các

hoạt động trao đổi mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác
động tích cực đến thu nhập và sự tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia.
Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số giác độ sau:
1. Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực
dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ
chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
2. Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính
được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được
hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian
ít nhất.
3. Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển
giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.


4. Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một
chính sách kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong
một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có
hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
Việc mở cửa thị trường tài chính cũng đồng thời góp phần củng cố lại
các tổ chức trung gian tài chính và tạo nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư,
thông qua việc nâng cao hiệu lực quản lý và giảm nhiều rủi ro, góp phần thúc
đẩy chính phủ các nước cải tiến phương pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và
thay đổi cách thức can thiệp vào thị trường, đồng thời thúc đẩy việc hoàn
thiện hàng lang pháp lý và hệ thống kiểm tra, giám sát của chính phủ đối với
những lĩnh vực dịch vụ này.
Việc loại bỏ yếu tố độc quyền, tăng cường sự cạnh tranh là nhân tố có
tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại
hình sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng.
Tóm lại, lợi ích tối thượng của tự do hoá tài chính là tạo ra một sự cạnh

tranh bình đẳng trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng bằng
những yếu tố độc quyền. Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy việc giảm
thiểu chi phí, nâng cao chất lượng phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát
huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường chuyển giao công nghệ và tạo môi
trường thay đổi chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng
cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường có thể
xảy ra trên bình diện quốc tế.

2.2 Khó khăn
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá
tài chính cũng cố những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng,
đặc biệt trong điều kiện xu thế tự do hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở


những bước đi ban dầu. Những hạn chế của tự do hoá tài chính thông thường
được nhìn nhận trên hai giác độ:
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra
khủng hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn
nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả
cấp độ quốc gia và quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính và khủng hoảng tài chính ngân hàng đã từng
là nỗi ám ảnh tưởng như có mối quan hệ nhân quả đối với các nước thi hành
chính sách này trong khoảng thời gian trước đây. Do vậy, nhiều người cho
rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài
chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ cho rằng đó là cái giá
phải trả của tự do hoá tài chính.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trường tài chính,
bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến khủng hoảng
tài chính - ngân hàng . Việc cải cách hệ thống tài chính và tự do hoá có chăng
chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong thẻ chế và các chính

sách tài chính vĩ mô vốn dĩ đã tiềm ẩn, và do đó làm tăng thêm rủi ro của việc
dẫn đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách tài chính theo hướng mở cửa
đã diễn ra ở những nước này thực chất không gây cản trở hoặc làm phương
hại đến lợi ích thực thụ, mà chỉ góp phần phơi bày những điểm yếu của hệ
thống tài chính nội địa trước những điều kiện của hệ thống tài chính quốc tế
mà thôi.
Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà
nghiên cứu khác đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ
ngân hàng trên thế giới. Những nhân tố này gồm: sự không ổn định có tính vĩ
mô như sự thất thường của hoạt động thương mại; tính áp đặt trong chính sách
tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt động cho vay; sự sụt giá tài sản, sự du


nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ lưỡng để sẵn sàng tiến hành mở
cửa, và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của những cải cách tài chính.
Nói cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính
lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành
mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ
giám sát, kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đường lối cải cách, chứ
không phải xuất phát từ bản thân quá trình tự do hoá tài chính.
Thứ hai: tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là
lĩnh vực đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện
những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài
chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều
hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài
sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận.
Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh
kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài
chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường
tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến

mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính
nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu
cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích
của người tiêu dùng.
III. Các yếu tố thúc đẩy tự do hóa tài chính
3.1 Sự phát triển của ngành công nghệ thông tin
Sự phát triển của ngành công nghệ thông tin đang tạo nhiều khả năng trao
đổi xuyên biên giới.Các sản phẩm thông tin đặc biệt là sự ra đời của Internet đã
góp phần giảm chi phí giao dịch, cung cấp thêm các kênh mới cho các giao dịch
thương mại và giảm các hàng rào đối với sựtham gia của các công ty nhỏ và xa
xôi về mặt địa lý.Các doanh nghiệp có thể liên hệ trên toàn thế giới.
3.2 Nhu cầu xây dựng nền tài chính quốc gia vững mạnh và hiệu quả


Chính phủ các nước ngày càng nhận thấy rằng bảo hộ không phải là cách
tốt nhất thực hiện mục tiêu về chính sách. Do những can thiệp làm méo mó thị
trường của chính phủ, các nguồn lực tài chính phân bổ không hiệu quả làm nảy
sinh nhiều khoản tín dụng xấu dẫn đến nguy cơ dễ đổ vỡ cho các trung gian tài
chính. Trong khi đó, để phát triển kinh tế đòi hỏi một nền tài 14 chính vững
mạnh, hữu hiệu, các thể chế tài chính đáng tin cậy nhằm củng cố lòng tin của
người tiêu dùng và giới đầu tư, buộc chính phủ các nước phải thực hiện nhiều
cải cách thị trường theo hướng mở cửa. Những cải cách theo hướng này giúp
các quốc gia hấp thu nhiều lợi ích to lớn. Điều này làm gia tăng xu hướng tự do
hóa trên phạm vi toàn cầu.
VI. Tiến trình tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính được tiến hành sau tự do hóa thương mại. Tiến trình tự
do hóa tài chính trải qua những bước sau:
Bước 1: Cải tiến và hiện đại hóa ngân hàng, đây là điều kiện cần thiết để
phát triển cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính.
Bước 2: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi

có sự quản lý của nhà nước.
Tự do hóa lãi suất là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, bản chất
của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung
cầu vốn trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ
can thiệp bằng các công cụ để điều hành theo định hướng.
Tự do hóa lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các
khoản nợ khó đòi, tiến hành tư nhân hóa một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà
nước, áp dụng các chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh trong khu vực
ngân hàng.
Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho
phép tỷ giá giao động trong một khoảng giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá
chính thức của ngân hàng trung ương.
Bước 3: Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hoàn toàn
cơ chế phân bổ quota và những rào cản khác trong giao dịch vãng lai.
Bước 4: Từng bước tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn.


Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế đối với các
giao dịch này như xóa bỏ hoàn toàn những quy định hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ
phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài
chuyển vốn về nước với các khoản đầu tư dài hạn-ngắn hạn thông qua hệ thống
ngân hàng Việt Nam. Cho các doanh nghiệp trong nước tự do tiếp cận với các
nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành cổ phiếu.
Đối với người dân tự do hóa nguồn vốn cho phép họ thực hiện các hoạt
động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia các hoạt động đầu tư
nhằm đạt lợi nhuận cao.
Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hưu các công ty khác nhau, các
dòng vốn được tự do di chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang những nơi có
tỷ suất sinh lợi cao.
V - Điều kiện để cho tự do hóa tài chính thành công

Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần
từng bước các giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất
yếu.Việt Nam muốn hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và chính sách
tiền tệ phải linh hoạt.
Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là:
- Ổn định đáng tin cậy.
- Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao.
- Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế.
- Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả.
- Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả.
Giám sát chặt chẽ hệ thống ngân hàng thông qua việc yêu cầu dự trữ, phân
hạng tài sản và báo cáo, phân tán rủi ro… Việc giám sát chặt chẽ sẽ giúp tránh
nguy cơ xảy ra khủng hoảng ngân hàng. Ở Chi lê do việc thiếu giám sát dẫn đến
cuộc khủng hoảng ngân hàng vào giai đoạn 1981 – 1983.
VI - Thực trạng về tự do hóa tài chính ở Việt Nam:
4.1 Về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ
Tham gia thị trường tiền tệ gồm có: 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước,
Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân hàng thương mại cổ phần, 5 ngân hàng
100% vốn nước ngoài (HSBC Vietnam, Standard Chartered Vietnam, Shinhan


Vietnam, ANZ Vietnam, Hong Leong), 4 ngân hàng liên doanh, 51 chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và 49 văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài.
Ngoài ra, còn có 2 công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, gồm Home Credit
và Prudential, một số công ty bảo hiểm , quỹ tín dụng nhân dân, quỹ đầu tư...
Tuy nhiên tham gia là thành viên của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu
thầu tín phiếu Kho bạc nhà nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ
chức trên, hầu như chỉ có các NHTM NN, NHTM, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm...
Nhìn chung, năm 2014 trên TTTT, lãi suất cho vay và huy động liên tục

biến động, tỷ giá giữ ở mức ổn định trong một khoảng thời gian dài. Thị trường
tiền tệ và hoạt động ngân hàng ổn định, đảm bảo an toàn, cung - cầu vốn không
có biến động lớn, vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng (TCTD) đảm bảo khả
năng thanh toán.
Từ đầu năm tới nay Ngân hàng Nhà nước chỉ 1 lần điều chỉnh tỷ giá bình
quân liên ngân hàng USD/VND tăng 1% , đây là việc làm rất cần thiết và phần
nào phản ánh giá trị thực của VND. Trong ngắn hạn tỷ giá vẫn ổn định do đồng
USD đang mất giá quá mạnh trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam
lượng kiều hối thường gia tăng đột biến vào cuối năm, nguồn cung này sẽ góp
phần giảm áp lực dự trữ ngoại tệ. Dự báo cho một thị trường ngoại hối dần ổn
định, cung cầu ngoại tệ trên thị trường đã dần cân bằng, tính thanh khoản ngoại
tệ được cải thiện đáng kể, tỷ giá trên thị trường tự do sát với tỷ giá của các ngân
hàng thương mại.
Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là các
TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng Trung
ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương mại và
Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và cho vay
của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với nhau trên thị


trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường tiền tệ phát
triển.
4.2 Về thực trạng phát triển thị trường tiền gửi và huy động vốn:
Đây là thị trường có sự cạnh tranh mạnh mẽ nhất và sôi động nhất giữa
các tổ chức trung gian tài chính trong việc thu hút tiền nhàn rỗi trong dân cư.
Năm 2008, sự biến động vào đầu năm của lãi suất và mức dự trữ bắt buộc
mà NHTW quy định đã khiến thị trường tiền gửi và huy động vốn rơi vào hoàn
cảnh khó khăn khi mà sự thiếu hụt của nguồn vốn huy động trong ngắn hạn kèm
theo đó là lãi suất tiền gửi đã tăng mạnh.
Năm 2009 cũng là một năm kinh doanh không mấy thuận lợi đối với các

doanh nghiệp nói chung và hệ thống NHTM nói riêng, đặc biệt là trong những
tháng đầu năm. Tuy nhiên, nhờ các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ,
sự điều hành thận trọng của NHNN cùng với những nỗ lực tự thân của các
NHTM cũng như các doanh nghiệp, từ quý II/2009, những khó khăn đã giảm
bớt và hệ thống ngân hàng Việt Nam đã vượt qua được tác động xấu của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Những tháng đầu năm 2014, sau khi Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh lãi
suất, giữ tỷ giá ổn định và áp dụng đồng bộ các biện pháp bình ổn thị trường, thị
trường tiền gửi đã có một số chuyển biến đáng ghi nhận, lãi suất cho vay và lãi
suất huy động giảm, tính thanh khoản ngoại tệ trên thị trường được cải thiện
đáng kể.
Trên thị trường hiện nay vẫn tồn tại tình trạng huy động USD của các
ngân hàng rất nhiều nhưng lại thiếu USD nguồn vốn để có thể bán lại cho các
doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo hoạt động kinh doanh nhiều công ty vẫn phải
chấp nhận mua đồng USD ở thị trường tự do với mức giá cao hơn so với mức
giá của NHNN quy định.
Hoạt động của các tổ chức tín dụng về cơ bản an toàn, đảm bảo khả năng
thanh khoản, các tổ chức tín dụng chấp hành tốt yêu cầu dự trữ bắt buộc và các


tỷ lệ an toàn trong hoạt động. Lãi suất thị trường được điều tiết ở mức hợp lý.
Lãi suất huy động và cho vay có biểu hiện giảm sau khi NHNN ban hành Thông
tư 12/TT-NHNN.
4.3

Về quá trình xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán:

Bức phá mạnh mẽ nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam là vào năm
2006 và những tháng trong năm 2007, tiếp theo đó là sự sụt giảm về chỉ số
chứng khoán lớn nhất vào năm 2008, mức giảm 66% của chỉ số VN-Index khiến

Việt Nam trở thành thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh nhất trong khu vực.
Điểm lại năm 2009 là năm mà thị trường chứng khoán Việt Nam có nhiều
biến động tăng giảm không ngờ. Đầu năm là sự sụt giảm mạnh mẽ khi chỉ số
VN-Index chỉ còn lại 235 điểm, sau đó là sự tăng mạnh mẽ VN-Index tăng
mạnh đạt đỉnh cao 525 giữa tháng 6 và đợt sóng cuối cùng từ cuối tháng 7 đến
cuối tháng 10 khi VN-Index liên tiếp lập những kỷ lục mới chưa từng có trước
đó về khối lượng giao dịch cả giá trị giao dịch, tại vùng 630 điểm đây cũng là
đỉnh cao nhất trong năm. Những tháng cuối năm với việc dòng tiền bị hạn chế
tâm lý nhà đầu tư bất ổn đã khiến thị trường giảm điểm mạnh trong khi thị
trường cả thế giới đi lên. Đó là đặc điểm của thị trường việt nam khi tâm lý đám
đông chế ngự.
Năm 2010 với sự khai thông của dòng tiền, áp dụng hạn mức tín dụng
mới và không bị hạn chế như cuối năm 2009, các công ty chứng khoán và ngân
hàng sẽ tiếp tục cho vay, nhà đầu tư mạnh dạn sử dụng đòn bẫy, khi mà áp lực
giải chấp không còn. Kết quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp hầu như đều
tăng trưởng tốt.
TTCK Việt Nam năm 2013 đã có những diễn biến và kết quả khả quan.
Chỉ số VN-Index tăng gần 23%; HN-Index tăng trên 13% so với cuối năm 2012.
TTCK Việt Nam được đánh giá là 1 trong những nước có mức độ phục hồi
mạnh nhất trên thế giới. Mức vốn hóa vào khoảng 964.000 tỷ đồng (tăng
199.000 tỷ đồng so với cuối năm 2012), tương đương 31% GDP.


4.4 Một số đánh giá về thực trạng phát triển thị trường tài chính ở
nước ta
Về thị trường vốn ngắn hạn hay còn gọi là thị trường tiền tệ. Nhìn chung
thị trường này chưa phát triển và Ngân hàng Nhà nước NHTW, chưa thực sự
đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các loại lãi suất của
NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất nghiệp
vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước có tác động rõ

nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ
dự trữ bắt buộc... thiếu linh hoạt. Các NHTM và Tổ chức tín dụng cạnh tranh
với nhau tăng lãi suất huy động vốn một cách một chiều, tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi
ro cho chính các NHTM.
Về thị trường chứng khoán. Có thể khẳng định rằng, trong tiến trình phát triển
Thị trường chứng khoán Việt Nam, tiềm năng của việc tham gia của các NHTM
là rất lớn. Việc các NHTM cổ phần niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán, các NHTM NN cổ phần hóa thực hiện phát hành cổ phiếu, cũng
như tới đây sẽ có thêm một số Công ty kinh doanh chứng khoán của các NHTM
đi vào hoạt động... sẽ tạo đà thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát
triển mạnh hơn nữa.
VII. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc mở cửa thị
trường tài chính
7.1 Một số đặc điểm cơ bản về thị trường dịch vụ tài chính ở Việt
Nam
HỆ thống ngân hàng của nước ta thực sự có những thay đổi căn bản vào
những năm đầu của thập kỷ 90 khi được tách làm 2 cấp: ngân hàng Nhà nước
và ngân hàng thương mại với hai chức năng riêng biệt. Sự cải tổ này đã đem
đến những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực làm cho hệ thống ngân
hàng ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường hơn. Tuy vậy, nhìn một cách


khái quát, hệ thống ngân hàng ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được những yêu
cầu của công cuộc cải cách và vẫn có thể coi là chưa phát triển. Một số hạn
chế chủ yếu là:
+ Non trẻ trong kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp.
+ HỆ thống các văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh.
+ Thiếu phương tiện và nhân viên lành nghề.
+ Hạn chế về công cụ thanh toán, chi trả.
+ Tỷ lệ cho vay không có khả năng thu hồi vốn lớn.

+ Thiếu vắng một cơ chế giám sát kiểm tra có hiệu quả.
Được coi là một phần của công cuộc cải cách, Việt Nam cũng đã cho
phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động. Một ngân hàng nước ngoài muốn
hoạt động tại Việt Nam có thể thành lập dưới 3 dạng: văn phòng đại diện, ngân
hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
ThỊ trường bảo hiểm của Việt Nam có phần rộng mở hơn đối với hoạt
động của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Mặc dù vậy các công ty bảo hiểm
Nhà nước vẫn giữ vị trí thống soái. Tuy nhiên, doanh thu bảo hiểm của các
công ty nước ngoài đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây và
có thể sẽ chiếm thị phần đáng kể trong một tương lai không xa.
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mới được hình thành vào tháng 72000. Thực chất đây mới chỉ là thị trường sơ khai và chưa ổn định. Tổng
lượng giao dịch còn hết sức mỏng so với toàn bộ nền kinh tế.
7.2 Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Thứ nhất: Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị
trường tài chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa
đảm bảo nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần
hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến


mở cửa thị trường tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng, sự tham gia của
các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cũng đã
mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng
cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản
lý và tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai: Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn
liền với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta
hiện nay. Thực trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ
bằng cách hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần
phải được bảo hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng
lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một

trong những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
diễn ra trên thế giới (cùng với những nguyên nhân khác) là sự yếu kém của
chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi hành
chính sách mở cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài chính
nảy sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị trường nếu
quá đột ngột do không cho sự cải cách đáng kể để nâng cao năng lực của hệ
thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng
hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực
dịch vụ tài chính. Vì vậy, cải cách và loại bỏ dần tính hành chính bao cấp của
hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với kinh tế thị trường trong môi
trường quốc tế được coi là một trong những chiến lược mang lại sự thành công
khi tham gia hội nhập.
Thứ ba: Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những
cải cách về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiến hành
toàn diện cả về quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ
thống gắn với những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều
hành chính sách tỷ giá, quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là


đặc biệt quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế. Bài học rút
ra từ các cuộc khủng hoảng tiền tệ trên thế giới đã cho thấy, việc duy trì một
chế độ tỷ giá chính thức quá xa so với tỷ giá thực, việc thả lỏng trong quản lý
ngoại tệ và việc quá lạm dụng chính sách lãi suất để tác động vào nền kinh tế
một cách cưỡng bức trong một thời gian dài nếu không được điều chỉnh để
tiến gần hơn với những điều kiện quốc tế sẽ là một bất lợi lớn khi tiến hành
mở cửa thị trường và tham gia hội nhập, thậm chí sẽ là nguyên nhân trực tiếp
gây ra khủng hoảng.
Thứ tư: Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường
dịch vụ tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống
luật pháp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch,

tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý
đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp
luật đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, nhằm duy trì sự ổn
định và lành mạnh của thị trường tài chính.
Thứ năm: Việt Nam cần tập trung tối đa vị thế của một nước đang phát
triển trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương để được hưởng
những ưu đãi hoặc nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ với tư cách thành
viên. Những nhượng bộ và những ưu đãi này sẽ là những điều kiện tốt để cơ
cấu, cải tổ lại và tăng cường tiềm lực cạnh tranh sao cho có thể đứng vững
trước sự du nhập của các thế lực cạnh tranh quốc tế khi thị trường được tự do
hoá hoàn toàn.
Cuối cùng, khi tiến hành đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính,
chúng ta cũng không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỷ lệ sở hữu vốn
của người nước ngoài (cá nhân hoặc tổ chức), đồng thời kèm theo những ràng
buộc về hình thức đầu tư và nhân sự điều hành hoặc sử dụng lao động để đảm
bảo lợi ích chủ quyền quốc gia và duy trì sự kiểm soát của Nhà nước đối với


thị trường tài chính.
Tóm lại: Khu vực dịch vụ tài chính trên thế giới đã thể hiện rõ xu hướng
toàn cầu hoá trong vòng hai thập kỷ gần đây. TỰ do hoá tài chính toàn cầu
đã mang lại những lợi ích to lớn xét trên cả khía cạnh hiệu quả và chất lượng
dịch vụ. Thật không may, trong thời gian trước đây, một số nền kinh tế chuyển
đổi theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính đã lâm vào những cuộc khủng
hoảng tài chính trầm trọng. Nỗi ám ảnh về khả năng xảy ra khủng hoảng đã trở
thành một trong những nguyên nhân chính khiến các nước thành viên WTO tỏ
ra do dự trong việc cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Nhập môn tài chính – tiền tệ, của PGS.TS SỬ ĐÌNH THÀNH – PGS. TS.
VŨ THỊ MINH HẰNG, nhà xuất bản lao động xã hội, xuất bản năm

2.

2008.
/>
3.

Viet-Nam-An-tuong-2013-ky-vong-2014/41211.tctc
/>
4.

thi-truong-tai-chinh-o-Viet-Nam-con-duong-va-buoc-di.html
/>
5.

canada-va-bai-hoc-doi-voi-viet-nam-4020.html
/>


×