KHÁI LUẬN VỀ TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH
1.1. Khái niệm
Trong các hoạt động kinh tế, vốn là một nguồn lực đóng vai trò hết sức quan
trọng. Trong khi đó, trong nền kinh tế, có những người thừa vốn, lại có những
người thiếu vốn, vì thế hệ thống tài chính nhằm mục đích thực hiện việc luân
chuyển nguồn lực khan hiếm này từ nơi thừa đến nơi thiếu. Thông qua hệ thống tài
chính, vốn được luân chuyển theo nhiều cách khác nhau. Về tổng thể, hệ thống tài
chính quốc gia có cấu trúc như sau (xem hình 1.1)
Trung gian tài chính
Người thiếu vốn
Thị trường tài chính
Người thừa vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Vốn
Tài chính trực tiếp
Hình 1.1. Cấu trúc hệ thống tài chính quốc gia.
Trong đó:
Tài chính gián tiếp
- Người thừa vốn: Hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ, người nước ngoài.
- Người thiếu vốn: Doanh, nghiệp, Chính phủ , Hộ gia đình, Người nước ngoài
-Trung gian tài chính bao gồm các Ngân hàng thương mại, các quỹ tín dụng, quỹ
bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, công ty bảo hiểm, công ty tài chính...
-Thị trường tài chính gồm các thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán hay thị
trường vốn, thị trường ngoại hối.
Dưới những điều kiện nhất định, hệ thống tài chính quốc gia sẽ hoà vào các
hệ thống khác tạo ra hệ thống tài chính quốc tế có câú trúc như sơ đồ này.
Vậy tự do hoá tài chính là gì? Tự do hoá tài chính là giảm thiểu sự can
thiệp của nhà nước vào các quan hệ và giao dịch tài chính. Các hoạt động trong
hệ thống tài chính nói trên được tự do thực hiện theo tín hiệu thị trường.
Bản chất của tự do hoá tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại
vốn có của thị trường, là chuyển vai trò điều tiết tài chính từ "bàn tay can thiệp"
hay "bàn tay hữu hình" của chính phủ sang "bàn tay vô hình" của thị trường,
chuyển từ quản lý bằng hành chính sang qui luật thị trường và vì vậy tự do hoá tài
chính nằm ở trung tâm vấn đề muôn thuở của nền kinh tế là giải quyết mâu thuẫn
giữa vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường, đặc biệt là khi vị trí của tài
chính đang ngày một quan trọng hơn không chỉ đối với từng quốc gia mà còn đối
với từng khu vực và toàn cầu. Tài chính là một phạm trù rất rộng lớn và phức tạp
xuyên suốt từ huy động tới phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính - tiền tệ có
hạn sao cho có hiệu quả nhất đến toàn bộ nền kinh tế xã hội.
Theo Ngân hàng thế giới (1989), mục tiêu chính của TDHTC là phát triển
một hệ thống tài chính dựa trên cơ sở thị trường, hội nhập vào thế giới để nhằm
huy động tiết kiệm, phân bổ các nguồn lực có thể đầu tư trong nước và bên ngoài
một cách có hiệu quả và thúc đẩy tăng trưởng. Kết quả của tự do hoá tài chính
thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong hệ
thống NHTM) trên thu nhập quốc dân (tỷ lệ này của các nước châu Á trung bình là
60%GDP, của châu Phi chỉ có 20%GDP trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX).
Tự do hoá tài chính bao gồm các khía cạnh cơ bản sau:
-Tự do hoá lãi suất: đây được coi là hạt nhân của tự do hoá tài chính trong
nước, trong đó, lãi suất phải do thị trường quyết định tuỳ thuộc vào cung cầu về
đầu tư, vào mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế.
- Tự do hoá hoạt động phân bổ tín dụng: nguồn tín dụng được phân bổ dựa
trên lãi suất thị trường và mức độ tin cậy của người đi vay chứ không phải bằng
các quyết định hành chính.
- Tự do hoá tài khoản vốn: Tài khoản vốn trong cán cân thanh toán của một
quốc gia bao gồm các giao dịch đầu tư vào trong nước và ra nước ngoài, vay và
cho vay quốc tế ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Tự do hoá cho phép một nước tự
do xuất khẩu hoặc nhập khẩu vốn với nước ngoài thông qua các hình thức FDI, đầu
tư gián tiếp (vốn cổ phần), vay và cho vay nợ.
-Tự do hoá các dịch vụ tài chính: cho phép các ngân hàng, các tổ chức tài
chính trong và ngoài nước được tự do tham gia cung cấp các dịch vụ tài chính trên
thị trường và không phân biệt đối xử giữa các nhà cung cấp dịch vụ tài chính này.
Trong quá trình thực hiện tự do hoá tài chính, các khía cạnh cơ bản trên có
thể được thực hiện đồng thời cùng một lúc, cũng có thể được thực hiện theo từng
bước khác nhau sao cho phù hợp với bối cảnh quốc tế và đặc diểm của từng quốc
gia. Cách thức tiến hành như vậy được gọi là trình tự tự do hoá tài chính .
1.2. Trình tự tự do hoá tài chính .
Thực tế quá trình tự do hoá tài chính trên thế giới cho thấy không có một
trình tự tự do hoá tài chính chung nào cho tất cả các nước. Các quốc gia khác nhau
thực hiện tự do hoá tài chính theo các trình tự hoàn toàn khác nhau. Bảng 1.2 cho
ví dụ về trình tự tự do hoá tài chính của hai nước rất gần với Việt Nam trong khu
vực là Indonesia và Malaysia, trong đó cho thấy Indonesia có xu hướng thực hiện
các biện pháp tự do hoá tài chính đối nội trước khi tự do hoá tài khoản vãng lai
trong khi Malaysia lại thực hiện tự do hoá tài khoản vãng lai trước.
Bảng 1.2. Tình hình TDHTC ở một số nước Đông Nam Á trước khủng hoảng 1997
INDONESIA MALAYSIA
Tự do lãi suất Từ 1983 Từ 1991 (trừ khu vựckinh tế ưu tiên)
Phân bổ tín
dụng
Tự do hoá năm 1983, kiểm soát
lại năm 1995
Tỉ lệ dự trữ
ngân hàng
3% từ năm 1996, ( không tính
tiền mặt vào dự trữ)
Tăng từ 5.5% (1989) lên 9.5%
(1994)
FDI
Từ đầu 1990, doanh nghiệp
100% vốn (trừ một số lĩnh vực)
Từ 1987, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài nếu xuất khẩu 80%.
Cuối 1980 cho phép công ty
chứng khoán nước ngoài hoạt
động.
PFI
Sở hữu cổ phần nước ngoài tối
đa là 49%
Người nước ngoài nắm tối đa 30%
cổ phần của một công ty được
niêm yết
Vay nợ nước
ngoài.
Từ cuối năm 1980, vay nợ nước
ngoài được tự do hoá
Thành lập trung tâm tài chính hải
ngoại năm 1990
Nguồn: Tổng hợp dựa trên tài liệu tham khảo (5) và (7)
Trình tự tự do hoá tài chính mà các nước lựa chọn phụ thuộc vào đặc điểm
riêng có và định hướng chiến lược của các nhà lập chính sách. Tuy nhiên, theo Mc
Kinnon, với một nước có những đặc điểm thông thường thì trình tự tối ưu hoá các
chính sách tài chính trong quá trình chuyển từ sự kiểm soát tập trung sang nền kinh
tế thị trường đầy đủ, hội nhập vào thế giới cần được tiến hành theo các bước như
sau:
Trước khi lạm phát giá cả có khả năng giảm dần và thị trường vốn được mở
ra theo hướng cho vay tự do, thì yêu cầu đầu tiên là phải đạt được sự cân đối tài
chính của chính phủ trung ương. Kiểm soát tài khoá nên đi trước tự do hoá tài
chính. Tại sao vậy? Sự thâm hụt ngân sách quá lớn của chính phủ trong điều kiện
thị trường tài chính chưa phát triển (để có thể phát hành trái phiếu chính phủ)
thường dẫn đến việc Ngân hàng trung ương phát hành nội tệ quá mức để tài trợ
thâm hụt ngân sách gây ra lạm phát cho nền kinh tế. Phân tích bước thứ hai trong
quá trình tự do hoá tài chính sẽ cho thấy điều này ảnh hưởng xấu đến quá trình tự
do hoá tài chính như thế nào.
Bước thứ hai trong trình tự tự do hoá tài chính là việc mở cửa thị trường vốn
trong nước sao cho người gửi tiền nhận được lãi suất thực dương (tự do hoá lãi
suất). Việc vay và cho vay không hạn chế giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình chỉ
có thể diễn ra thuận lợi khi mức giá cả được ổn định và các thâm hụt tài khoá được
loại trừ. Thật vậy, trong điều kiện lạm phát quá cao, người cho vay sẽ bị thiệt do lãi
suất thực có xu hướng âm , điều này sẽ cản trở hành vi cho vay của người có vốn.
Song song với tự do hoá lãi suất là tự do hoá hoạt động của các ngân hàng
và việc phân bổ các nguồn tín dụng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng chỉ được giải
phóng khỏi các đòi hỏi dự trữ phiền hà và các chỉ dẫn chính thức trong việc định
lãi suất tiêu chuẩn đối với tiền gửi vào và tiền cho vay sau khi việc kiểm soát tài
khoá chặt chẽ được bảo đảm, sao cho chính phủ không còn cần phải đánh thuế lạm
phát hoặc đánh thuế vào khoản tiền tích trữ quá mức của người gửi tiền để có thu
nhập. Như vậy, một lần nữa, kiểm soát tài khoá lại phát huy vai trò là một bước
đệm quan trọng trong trình tự tự do hoá tài chính.
Sau khi các ngân hàng đã quen với cách thức hoạt động độc lập theo cơ chế
thị trường, bước tiếp theo là mở rộng sự tham gia của các trung gian tài chính mới,
cho phép cả các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động. Tuy nhiên quy chế này
cũng cần được nới lỏng dần dần bởi nếu như hệ thống tài chính được nới lỏng hoàn
toàn và bất ngờ thì các tổ chức mới tham gia sẽ mời chào lãi suất cao hơn các lãi
suất mà các tổ chức tài chính hiện có đang trả nhằm cạnh tranh giành tiền gửi và do
vậy buộc các ngân hàng đang hoạt động phải trả lãi suất thị trường đối với tất cả
các khoản tiền gửi (cũ lẫn mới) mặc dù lẽ ra lãi suất đó chỉ đáng trả đối với các
khoản vay mới. Kết quả là các ngân hàng này phải chịu lỗ về vốn đáng kể. Và khi
các khoản vay này quá lớn so với giá trị tài sản của ngân hàng thì điều này có thể
sẽ dẫn đến phá sản.
Cuối cùng, khi thị trường vốn trong nước được tự do hoá hoàn toàn tức là
việc vay và cho vay trong nước diễn ra tự do theo lãi suất cân bằng ( không bị hạn
chế) và tỉ lệ lạm phát trong nước được kiềm chế đến mức việc phá giá đồng tiền
theo tỉ giá hối đoái hiện hành không còn cần thiết thì mới tiến hành tự do hoá tài
khoản vốn: cho phép các doanh nghiệp, hộ gia đình vay hoặc gửi tiền tự do trên
các thị trường vốn quốc tế, cho phép mua bán chứng khoán để huy động vốn tự do,
và cuối cùng là chuyển đổi ngoại tệ tự do trên tài khoản vốn.
1.3. Vai trò của tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế.
1.3.1. Những lợi ích của tự do hoá tài chính .
a) Góp phần huy động được nguồn vốn lớn hơn và phân bổ vốn có hiệu quả
hơn.
Trước hết, xét về nguồn vốn trong nước, tự do hoá tài chính có thể nâng cao
tỷ lệ tiết kiệm của tư nhân so với thu nhập và mở ra cách thức phân bổ vốn tốt hơn
thông qua việc mở rộng và đa dạng hoá thị trường tài chính mà ở đó các cơ hội đầu
tư cạnh tranh nhau để thu hút các dòng tiết kiệm và thị trường và thậm chí có
khuynh hướng làm bình đẳng phân phối thu nhập.
Theo Mc Kinnon và Shaw (1973) việc quản lý lãi suất chính thức trong một
môi trưòng lạm phát cao sẽ làm cho lãi suất thực có xu hướng âm. Đến lượt nó lãi
suất thực âm lại giới hạn sự phát triển của các tài sản nợ và có trong hệ thống tài
chính. Hơn nữa lãi suất thực âm buộc người tiết kiệm phải chuyển các khoản tiết
kiệm của mình từ các tổ chức tài chính đến đầu tư vào bất động sản, vàng, ngoại tệ
nhằm chống lại sự mất giá từ lạm phát. Và hậu quả của việc thay đổi danh mục đầu
tư này sẽ làm cho các ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính phi ngân hàng
thiếu các nguồn vốn vay cho các khu vực còn lại của nền kinh tế.
Khuyến nghị chính sách cho vấn đề này là quá trình tự do hoá tài chính bằng
bãi bỏ lãi suất trần cần phải được thực hiện tại những nước nơi mà hệ thống tài
chính đang bị kiềm chế. Quá trình này không chỉ làm tăng tiết kiệm và những
nguồn vốn có thể cho vay mà còn làm cho việc phân bổ những nguồn vốn đó có
hiệu quả hơn và do đó góp phần dẫn đến một mức tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Về phía nước ngoài, tự do hoá tài khoản vốn tạo cơ hội cho các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào trong nước qua các kênh FDI, PFI đóng góp một nguồn vốn
vô cùng quan trọng cho nền kinh tế. Mặt khác, các nhà đầu tư vì động cơ lợi nhuận
nên luôn tính toán xem sẽ đầu tư vốn vào đâu cho có hiệu quả nhất. Chính vì vậy
mà nguồn vốn càng được phân bổ có hiệu quả.
Những người ủng hộ sự lưu chuyển tự do của vốn còn chỉ ra các lợi ích vượt
ra ngoài lợi ích tĩnh do quá trình phân bổ lại nguồn vốn vay giữa các nước như sau:
Bởi vì, vốn cổ phần trong nước bây giờ có thể được kết hợp trong một danh mục
đầu tư rộng lớn hơn nhiều nên chúng ít rủi ro hơn. Điều này làm tăng giá của
chúng và giảm chi phí vốn cho các công ty trong nước. Đến lượt mình, điều này lại
làm cho các cơ hội đầu tư trước đây được coi là quá mạo hiểm trở nên khả thi và
tổng hợp lại, những cơ hội này có thể đóng góp đáng kể cho tăng trưởng.
b) Nâng cao tính cạnh tranh của hệ thống tài chính trong nước.
Ngành dịch vụ tài chính tại bất cứ quốc gia nào cũng sẽ phải chịu tổn thất do
việc xoá bỏ các biện pháp bảo hộ vốn đã nuôi dưỡng những nhà cung ứng hoạt
động với chi phí và lợi nhuận cao trong nhiều năm. Việc thông tin dễ dàng hơn và
việc dỡ bỏ các hạn chế đối với hoạt động vay và gửi tiền ở nước ngoài đã buộc các
ngân hàng trong nước phải cắt giảm chi phí , ít nhất là cho các khách hàng lớn,
đồng thời ép chúng phải nâng cao chất lượng phục vụ nếu không muốn mất chỗ
đứng. Trong sự cạnh tranh khốc liệt này, tất yếu sẽ có các tổ chức bị loại ra khỏi