Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận Tự do hóa tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.35 KB, 18 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
LỚP TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP K17B
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:TH.S TRƯƠNG MINH TUẤN
NHÓM 8:

DƯƠNG VIỆT ANH

01 (33121024267)

LIỄU KHÔI NGUYÊN 39 (33121021673)
PHẠM TRÍ ĐĂNG

09 (33121024311)

TRẦN HÀ THUỲ TRANG 63 (33121023408)
NGUYỄN VIẾT ÁNH

03 (33141025444)


TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
1. Khái niệm và bản chất của tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính có thể hiểu là giảm thiểu sự can thiệp của Nhà
nước vào các quan hệ và giao dịch tài chính, làm cho hệ thống tài chính quốc
gia được hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo tín hiệu thị trường. Đây
chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các quyền tham gia thị trường
cho các bên tìm kiếm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được của pháp luật


dưới nhiều hình thức khác nhau:
(1) Giảm tối đa việc kiểm soát về giá cả (trái phiếu, cổ phiếu và các
chứng từ thanh toán) và lãi suất trên thị trường tài chính (thị trường vốn và
thị trường tiền tệ).
(2) Xã hội hoá khu vực tài chính và đơn giản hoá các thủ tục hành
chính trong việc cho vay tín dụng.
(3) Cho phép sự gia nhập rộng rãi trong lĩnh vực dịch vụ tài chính; đặc
biệt xoá bỏ những trợ cấp cho các tổ chức hoạt động trong thị trường tài
chính.
Có thể nói, bản chất của tự do hóa tài chính là nhằm đưa hoạt động tài
chính vận hành theo cơ chế nội tại vốn có của thị trường và chuyển vai trò
điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra sự phối
hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao
gồm: Tự do hóa lãi suất, tự do hóa hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại (NHTM), tự do hóa hoạt động ngoại hối, tự do hóa hoạt động
của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.
Chia theo chiều dọc thì tự do hoá tài chính chủ yếu hàm ý tự do hoá
trên thị trường tiền tệ và tự do hoá trên thị trường vốn. Chia theo chiều
ngang, tự do hóa tài chính được phân làm hai cấp độ: Tự do hóa tài chính
nội địa hay tự do hóa tài chính trong nước và tự do hóa tài chính quốc tế hay
tự do hóa tài chính với nước ngoài.
Tự do hóa tài chính trong nước là việc xóa bỏ kiểm soát lãi suất và
phân bổ tín dụng, cho phép các tổ chức tài chính trong nước tự do thực hiện
các dịch vụ tài chính theo nguyên tắc thị trường, các thị trường tài chính
trong nước được khuyến khích phát triển, các công cụ chính sách tiền tệ
được điều hành theo tín hiệu thị trường.


Tự do hóa tài chính với nước ngoài là loại bỏ kiểm soát vốn và các

hạn chế trong quản lý ngoại hối bao gồm tự do hóa giao dịch vãng lai và tự
do hóa giao dịch vốn. Hạt nhân của tự do hóa tài chính là tự do hóa lãi suất
và cần thiết phải kiểm soát quá trình tự do hóa lãi suất, cụ thể là:
- Xác định thời điểm bắt đầu và tốc độ tự do hóa lãi suất căn cứ vào
những tiến bộ đạt được trong cải cách khu vực DNNN và khu vực ngân
hàng.
- Quyết định lộ trình và trật tự tiến hành tự do hóa lãi suất của các
công cụ tài chính khác nhau để không gây ảnh hưởng xấu tới hệ thống ngân
hàng.
- Ngân hàng Trung ương cần có chiến lược chỉ đạo chính sách tiền tệ
trong khuôn khổ hệ thống tài chính đã tự do hóa;
- Chuẩn bị những công cụ tài chính mới sau khi thực hiện tự do hóa
tài chính.
2.

Ưu điểm và nhược điểm của tự do hóa tài chính

2.1.

Ưu điểm

Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt động thương mại trong lĩnh vực
dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số giác độ sau:
Một là, tự do hoá tài chính tác động đến quá trình chuyển tiết
kiệm cho đầu tư. Tự do tài chính sẽ đẩy mạnh việc sử dụng vốn nhàn rỗi
của tư nhân vào tiến trình đầu tư, bởi vì khi đó, các ràng buộc về thủ tục vay
vốn sẽ được đơn giản hoá, giảm lượng dự trữ bắt buộc sẽ kích thích sự
cạnh tranh trong khu vực kinh doanh tài chính, điều này làm giảm các
khoản chi phí giao dịch, chi phí quản lý và đặc biệt là giảm sự khác biệt
giữa lãi suất cho vay và lãi suất vay vốn. Và do đó làm tỷ trọng tiền tiết

kiệm dành cho đầu tư ngày càng gia tăng.
Hai là, tự do hoá tài chính góp phần nâng cao hiệu quả việc phân bổ
nguồn lực đầu tư. Bằng cách chuyển nguồn vốn vào các dự án đầu tư có
khả năng sinh lời cao, tự do hoá tài chính đóng vai trò quan trọng trong
việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội. Quá trình tự do hoá tài chính
đòi hỏi các tổ chức tín dụng phải làm việc thật sự cật lực nhằm xác định
những dự án nào là những dự án mang lại khả năng sinh lợi cao, để quyết
định việc cho vay vốn trong khoảng thời gian ngắn nhất với thủ tục nhanh
gọn nhất. Hơn nữa, quá trình tự do tài chính sẽ giúp cho các cá nhân dễ


dàng tiếp cận được các nguồn tín dụng
Ba là, tự do hoá tài chính sẽ đảm bảo cho lãi suất thực được
dương bởi vì sự cân bằng giữa cung và cầu vốn trên thị trường tài chính. Do
sự tự điều chỉnh bởi quy luật cung và cầu, lãi suất tiền gửi vào trong các tổ
chức tín dụng loại trừ đi tốc độ lạm phát sẽ luôn luôn dương, khi đó người
cho vay sẽ an tâm hơn khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng. Chính vì điều
này sẽ thu hút vốn nhàn rỗi trong dân chúng, kết quả là làm gia tăng tín
dụng cho các dự án đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Bốn là, tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm
cho khu vực dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn,
đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực
quản lý.
Năm là, tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch
vụ tài chính được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng
có thể được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi
phí và thời gian ít nhất.
Sáu là, tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho
việc chuyển giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
Tóm lại, lợi ích mà tự do hoá tài chính là tạo ra một sự cạnh tranh bình

đẳng trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng bằng những yếu tố
độc quyền. Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy việc giảm thiểu chi phí,
nâng cao chất lượng phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ hội phát huy lợi thế
kinh tế quy mô, tăng cường chuyển giao công nghệ và tạo môi trường thay
đổi chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường năng lực
cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường có thể xảy ra trên bình
diện quốc tế.
2.2.

Nhược điểm

Theo các chuyên gia, những nguy cơ mà tự do hóa tài chính có thể
mang lại bao gồm:
(1) Nguy cơ tiền tệ hay đúng hơn là nguy cơ mất giá nội tệ do chính
sách tỷ giá hối đoái không hợp lý và nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng
chuyển vốn ra nước ngoài.
(2) Nguy cơ tiền tháo chạy do thiếu các biện pháp kiểm soát
dòng vốn ngắn hạn.


(3) Nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn
như trường hợp của Thái Lan vừa qua. Nguy cơ này càng nghiêm trọng
khi xảy ra biến động tỷ giá hối đoái, giá bất động sản, đặc biệt là biến
động giá trị của tài sản thế chấp vay ngân hàng và giá chứng khoán.
(4) Nguy cơ mất chủ quyền là vấn đề mà quốc gia nào cũng lo ngại
khi tự do hóa tài chính. Bởi khi xảy ra biến cố, Chính phủ buộc phải hy
sinh một số mục tiêu kinh tế xã hội, siết chặt ngân sách, giảm các chỉ tiêu
tăng trưởng và chương trình xã hội, chấp nhận trợ giúp nước ngoài”... Bên
cạnh đó, tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh
vực đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những

mục đích quan trọng của một quốc gia.
Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng
hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành để thực hiện những mục tiêu
đó vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một
mục đích nào khác hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ
thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy
cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền
lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường tài chính của Nhà nước
sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến mục tiêu chiến
lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không
được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu
lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của người
tiêu dùng.
3.

Thực trạng cải cách và tự do hoá tài chính ở Việt Nam

Thứ nhất, nếu chia thị trường tài chính theo chiều dọc thì thị trường
tài chính Việt Nam bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường
này đã trải qua một quá trình tự do hóa từ những năm cuối thấp kỷ 90 của
thế kỷ 20, đánh dấu bằng việc ngành ngân hàng chuyển sang mô hình 2 cấp
và hoạt động theo cơ chế thị trường theo Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước
và Pháp lệnh về Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính (tháng
5/1990). Theo đó, các NHTM thực hiện nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ và cung
cấp các dịch vụ ngân hàng; NHNN thực hiện chức năng quản lý Nhà nước
và chức năng NHTW. Cho đến nay, hệ thống pháp luật về ngân hàng được
hoàn thiện về căn bản với việc ban hành Luật NHNN và Luật các Tổ chức tín
dụng vào tháng 12/1997. Quá trình tự do hoá tài chính được thực hiện
theo những
bước đi cụ thể và đã đạt được kết quả đáng khích lệ, bao gồm:



- Hình thành và phát triển hệ thống điều hành tiền tệ dựa trên cơ sở thị
trường với hệ thống các công cụ gián tiếp.
- Chính sách tiền tệ đã được đổi mới căn bản và có trật tự theo hướng
tăng cường các công cụ và phương pháp điều hành gián tiếp, phù hợp với sự
thay đổi về thể chế và hạ tầng tài chính.
- Cơ chế điều hành lãi suất từng bước được đổi mới và đã được tự do
hóa theo cơ chế thị trường (từ lãi suất áp đặt sang “trần – sàn”, đến khống
chế trần và cuối cùng là lãi suất thỏa thuận) cùng với hàng loạt vấn đề khác
như nới lỏng tỷ giá, phá bỏ độc quyền Nhà nước trong việc mở ngân hàng
thương mại và cung ứng vốn... Và cùng với đó là dòng chảy của vốn từ nơi
lợi ích thấp đến nơi có lợi ích cao là lẽ tự nhiên.
- Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được tự do hóa, xóa bỏ
nhiều loại giấy phép theo hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế và yêu
cầu hội nhập quốc tế, bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành
chính, của Luật Doanh nghiệp trong việc phân định rõ quyền hạn và nghĩa
vụ của doanh nghiệp, tạo ra sự thông thoáng hơn cho hoạt động kinh tế đối
ngoại. Việc thực hiện chính sách quản lý ngoại hối đã được tiến hành theo
hướng đẩy mạnh phân cấp, ủy quyền quản lý để nâng cao tinh thần trách
nhiệm và hiệu quả hoạt động của các địa phương, đồng thời tạo điều kiện
cho doanh nghiệp và người dân thực hiện các giao dịch ngoại hối, giúp
NHNN có điều kiện tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách theo mô hình
ngân hàng trung ương hiện đại.
- Thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá từ tỷ giá cố định sang tỷ giá có điều
chỉnh, đến tỷ giá công bố theo mức hình thành cuối ngày trên thị trường;
- Từ tháng 12/2005, các giao dịch vãng lai đã được tự do hóa hoàn
toàn và các giao dịch vốn đã được nới lỏng đáng kể với việc ban hành Pháp
lệnh Ngoại hối. Hiện nay, các giao dịch vốn, nhất là dòng vốn ra vẫn được
kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính và giảm

thiểu rủi ro do việc rút vốn ồ ạt ra nước ngoài;
- Hoạt động tín dụng thay đổi từ tín dụng phân phối cho một số ít đối
tượng khách hàng sang tín dụng không phân biệt thành phần kinh tế và tách
bạch hoạt động cho vay chính sách với cho vay thương mại;
- Mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính cho các thành phần
kinh tế và tổ chức tài chính trong và ngoài nước, từng bước chuyển từ hoạt
động cung ứng dịch vụ độc quyền của ngành ngân hàng sang thị trường tài
chính đa ngành;
- Hệ thống thanh toán và thị trường tài chính đã được hình thành và


phát triển, góp phần hỗ trợ cho quá trình tự do hóa và cải cách khu vực tài
chính – ngân hàng, lòng tin của công chúng vào VND và hệ thống ngân
hàng ngày càng được tăng cường.
Thứ hai, nếu chia thực trạng vấn đề tự do hóa tài chính theo chiều
ngang thì thấy rằng từ sau khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách mở
cửa đến nay, về cơ bản, Việt Nam là nước “nhập khẩu tư bản” nước ngoài
dưới hình thức đầu tư trực tiếp là chủ yếu. Đại Hội IX của Đảng năm 2001
đã coi “khu vực có vốn đầu tư nước ngoài” là một trong 6 thành phần kinh tế
chính thức của Việt nam. Tốc độ đầu tư vào tuy không đều qua các năm,
nhưng đã hình thành một xu hướng tăng liên tục. Đặc biệt là từ đầu năm
2007 đến nay sau khi VN trở thành thành viên WTO thì tốc độ gia tăng đầu
tư nước ngoài vào VN đã rất mạnh trở lại so với những năm cuối thập niên
90 của thế kỷ trước và ở qui mô cao hơn. Tổng vốn luỹ kế đầu tư trực tiếp
vào VN đã lên đến trên 50 tỷ USD – Trong đó, chỉ riêng lượng vốn đổ vào
trong vòng 1 năm qua đã chiếm tới 40%. Bình quân 10 năm lại đây, khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài đã: Tạo ra trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng năm; Sử dụng gần 10% lao động công nghiệp; Tham gia hơn 20% tổng
đầu tư toàn xã hội bình quân/năm...Đã trực tiếp góp phần làm cho nền kinh
tế VN tiếp cận với công nghệ và trình độ quản lý hiện đại của kinh tế thế

giới. Trên thực tế, chưa bao giờ thị trường tài chính Việt nam sôi động như
giai đoạn từ tháng 5/2006 đến hết tháng 2/2007 – Trong đó, tâm điểm là
TTCK với mức “tự do” hầu như ở đỉnh cao nhất.
Tuy nhiên, qua những diễn biến nóng lạnh trên thị trường chứng
khoán thời gian qua, cũng đã cảnh báo cần phải có những giải pháp thận
trọng trong quá trình tự do hóa tài khoản vãng lai đến tự do hóa tài khoản
vốn.
Những động thái đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt nam cũng đã
bắt đầu hình thành và đang trở thành một “làn sóng” đầu tư thứ 3 từ nước
ngoài (sau FDI, ODA) được khởi xướng chính thức từ khoản “vay” 750 triệu
tổng giá trị trái phiếu Chính phủ năm 2006 và dòng vốn đầu tư vào TTCK
VN từ giữa năm 2006 đến nay liên tục gia tăng, ước khoảng hơn 1 tỷ USD
“tiền gốc” quay vòng.
Giới hạn về tỷ trọng nắm giữ vốn sở hữu cổ phần trong các Công ty
TC, NHCP và NHTM Nhà nước sẽ cổ phần hoá thuộc lĩnh vực NH đã tăng
từ 10% lên “trần” 30% theo Nghị Định mới nhất - NĐ số 69/2007/NĐ-CP
ngày 20/4/2007 của Chính Phủ V/v “nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của
NHTM VN”.
Về “đầu tư ra nước ngoài”: Cho đến nay, việc “đầu tư” ra nước


ngoài của VN đã khá đa dạng dưới các hình thức: Liên doanh khai thác dầu
khí ở nước ngoài (hiện có 4 liên doanh); Ngân hàng liên doanh với nước
ngoài hoạt động ở cả “2 đầu” (có 5 NH liên doanh); Một số dự án từ nguồn
ODA và FDI của Việt nam dành cho một số nước láng giềng trong lĩnh vực
xây dựng cầu, đường và thuỷ điện; Mở tài khoản tiền gửi ở nước ngoài và;
Việc áp dụng các hình thức tín dụng thương mại khi xuất khẩu hàng hoá ra
nước ngoài v.v... Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận là, tất cả các hình thức trên
còn rất khiêm tốn cả về doanh số và không gian hoạt động. "Tự do hóa tài
chính" ở Việt Nam trong lĩnh vực này thực chất mới dừng ở việc “trải thảm

đỏ” để thu hút vốn đầu tư hơn là có những hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
Điều này cũng phản ánh đúng thực trạng của một nền kinh tế đang phát triển
ở giai đoạn đầu như Việt nam.
Tóm lại, thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam có thể coi là chưa
phát triển và đang trong quá trình cải tổ, cơ cấu lại để nâng cao sức cạnh
tranh và thích ứng với môi trường kinh tế, xã hội đang ngày càng thay đổi
theo xu thế quốc tế hoá. Theo xu thế này, Việt Nam đã dần dần mở cửa nền
kinh tế nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói riêng để từng bước hội
nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói
rằng chính sách đó đã tương đối thành công và trở thành một nhân tố mang
lại sự cải thiện về tính hiệu quả, tính ổn định và tính cạnh tranh trong lĩnh
vực dịch vụ tài chính - một lĩnh vực vốn được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ
và mang nặng tính hành chính bao cấp trong thời gian trước đây. Sự mở cửa
thị trường của Việt Nam có thể coi là tương đối hào phóng so với một số
nước đang phát triển. Điều này đặc biệt đúng nếu so sánh giữa Việt Nam và
Trung Quốc - một nước đang phát triển có nhiều điều kiện kinh tế, xã hội,
chính trị khá tương đồng với Việt Nam và là nước đã có những cải cách kinh
tế đi trước Việt Nam một thập kỷ.
4.

Xu hướng tự do hóa tài chính của Việt Nam trong thời gian tới
Triển vọng tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam

Tự do hóa tài khoản vốn có lẽ là điều không thể tránh khỏi cho Việt
Nam trong tương lai, khi nền kinh tế phát triển cao hơn, hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, để tự do hóa an toàn và có tác dụng tích
cực đến tăng trưởng kinh tế, cần phải hiểu và thi hành những chính sách cần
thiết để tạo tiền đề cho tự do hóa xảy ra một cách trôi chảy.
So sánh với Trung Quốc, một mặt, Việt Nam chia sẻ một số điểm
tương đồng với Trung Quốc như có một nguồn vốn FDI đổ vào khá dồi dào



(tính theo tỷ trọng GDP thì thậm chí còn lớn hơn của Trung Quốc); giá trị
các tài sản tài chính (cổ phiếu, trái phiếu) đang lên cao, theo sát diễn biến lạc
quan của tăng trưởng kinh tế cao (khoảng 8%/năm); sự phụ thuộc vào và tỷ
trọng vốn đầu tư gián tiếp trong tổng các nguồn tài trợ từ nước ngoài còn
thấp; vai trò can thiệp và tham gia vào nền kinh tế của chính phủ rất lớn,
thông qua đầu tư nhà nước và khối doanh nghiệp nhà nước, làm cho thâm
hụt ngân sách luôn ở mức khá cao và luôn cần bổ sung thêm vốn.
Mặt khác, Việt Nam cũng có nhiều điểm giống các nước bị khủng
hoảng tài chính khi tự do hóa tài khoản vốn, như có lạm phát tương đối cao
(gần 8% trong mấy năm gần đây), lãi suất danh nghĩa VND cao, dự trữ
ngoại hối còn hạn hẹp, thâm hụt tài khoản vãng lai kinh niên, và nợ nước
ngoài tương đối lớn. Ngoài ra, Việt Nam giống tất cả các nước có liên quan
ở điểm là hệ thống tài chính còn rất yếu kém, với tỷ lệ nợ xấu cao, rủi ro hệ
thống lớn, thông lệ cho vay bất cẩn, chế độ quản trị ngân hàng còn yếu kém,
và cơ chế tỷ giá còn cứng nhắc...
Với những đặc điểm này, có thể thấy rằng các điều kiện tiền đề cho tự
do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam một cách an toàn là chưa tồn tại hoặc chưa
đầy đủ, nhất là những điều kiện tiền đề về nền kinh tế vĩ mô lành mạnh,
cũng như một hệ thống tài chính và hạ tầng cơ sở giám sát vững chắc. Cũng
không kém phần quan trọng là chính phủ và người dân Việt Nam có quá ít
kinh nghiệm bước đầu với việc tự do hóa tài khoản vốn (như cho phép đầu
tư trực tiếp/gián tiếp ra nước ngoài - một hiện tượng mới được đề cập đến
gần đây).
5.
Kinh nghiệm quốc tế về tự do hóa tài chính và những giải pháp cho
quá trình tự do hoá tài chính ở Việt Nam
Kinh nghiệm tự do hóa tài chính cho thấy tầm quan trọng của việc xử
lý ngay từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài

chính – ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ các nguồn lực và
ngăn ngừa nguy cơ khủng hoảng. Nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng
hoảng tài chính thường bắt nguồn từ các biện pháp tự do hóa tài chính.
Trung Quốc đã lựa chọn các biện pháp cải cách thị trường tài chính rất
thận trọng, tránh rủi ro theo một lộ trình với thời gian rất lâu dài chính với
mục tiêu cuối cùng là tự do hóa tài khoản vốn. Trình tự mở cửa thị trường tài
chính của Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở thừa nhận sự yếu kém của
hệ thống tài chính, ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro và thực hiện tự do hóa
thận trọng, với những bước đi rất cụ thể. Cho đến nay, Trung Quốc cho rằng,


vẫn chưa có đủ điều kiện cần thiết để thực hiện tự do hóa tài khoản vốn. Vì
vậy, đối với tài khoản vốn, nguyên tắc cơ bản của Trung Quốc là mở cửa có
giới hạn, các dự án sử dụng vốn nước ngoài và đầu tư bằng vốn nước ngoài
đều được thẩm tra, đặc biệt nhấn mạnh giám sát chặt chẽ chu chuyển của
dòng vốn ngắn hạn, bao gồm các giao dịch vốn trên thị trường chứng khoán
và hạn chế việc chuyển vốn ngoại hối ra nước ngoài.
Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao
nhất thế giới (là thành viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của
OECD, GATT và NAFTA. Vì vậy, lĩnh vực dịch vụ tài chính không những
phát triển và có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế Canada, mà
còn có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Năm 1997, khu vực dịch
vụ tài chính ở Canada chiếm tới 5,2% GDP và thu nạp 4,5% lao động của
toàn bộ nền kinh tế. Do việc mở cửa thị trường nên hoạt động dịch vụ tài
chính ở Canada mang tính quốc tế hoá cao, nhiều tổ chức, công ty nước
ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tại Canada và ngược lại, nhiều tổ
chức, công ty của Canada thực hiện các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài.
Tuy nhiên Nhà nước hạn chế về tỷ lệ sở hữu vốn, hình thức cung cấp dịch vụ,
và tính chất cư trú của những người nắm giữ quyền quyết định đối với các tổ
chức tài chính được phép thành lập và hoạt động tại Canada. Tất cả những hạn

chế về mặt đối xử quốc gia và quốc tế nêu trên được coi là cần thiết nhằm
đảm bảo một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả, duy trì sự khống chế của
chính phủ đối với toàn bộ hệ thống tài chính và do đó đảm bảo sự ổn định bền
vững của nền kinh tế Canada.

Giải pháp chính sách cho quá trình tự do hoá tài chính ở ViệtNam
Cho tới nay, Việt Nam đã đi được hơn nửa chặng đường tự do hóa tài
chính và tự do hóa tài chính là lựa chọn hợp lý trong điều kiện thực hiện các
cam kết hội nhập trong khuôn khổ WTO, gắn tự do hóa tài chính và cải cách
khu vực tài chính trong một lộ trình thống nhất. Tuy nhiên, Việt Nam chưa
có kế hoạch tổng thể về cải cách và phát triển khu vực tài chính. Vì vậy, khi
Việt Nam thực hiện tự do hóa tài chính mức độ sâu rộng hơn, cần lưu ý
những vấn đề sau:


Một là, phải bảo đảm an ninh tài chính. Cần có sự phối hợp chặt chẽ
chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, chính sách thương mại, chính sách
tỉ giá và các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Vấn đề đầu tiên cần phải xử lý là
giảm thiểu nợ xấu, nợ khó đòi của doanh nghiệp nhà nước và nâng cao khả
năng cạnh tranh cho khu vực này. Biện pháp hiệu quả trong dài hạn là xóa
bỏ dần bao cấp cho các doanh nghiệp nhà nước; phải quản lý tốt, chặt chẽ tỷ
lệ, loại hình nợ một cách tương thích.
Chính sách tỷ giá cần tiếp tục điều chỉnh để đồng Việt Nam không bị
đánh giá cao, nhất là so với các nước trong khu vực, tăng khả năng cạnh
tranh của hàng hóa xuất khẩu và mang lại lợi ích cho cán cân thương mại và
cán cân vãng lai. Tiếp đó, chính sách đầu tư nên tập trung vào việc giảm
thiểu bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu, đồng thời khuyến khích đầu tư
vào các ngành xuất khẩu và các ngành sản xuất có hàm lượng công nghệ
cao.
Còn đối với chính sách thương mại, đầu tiên, cần thực hiện các biện

pháp chuẩn bị cho mở cửa thương mại nhằm đáp ứng yêu cầu của WTO và
AFTA. Cụ thể ở đây, chính sách thuế phải minh bạch, từng bước đơn giản
hóa hệ thống thuế quan, không nên để quá nhiều mức thuế trong biểu thuế
như hiện nay. Cùng với đó, cần đơn giản hóa thủ tục hải quan; đơn giản thủ
tục cấp giấy phép nhập khẩu, mở rộng hơn nữa các đối tượng được phép
tham gia xuất nhập khẩu. Mặt khác, cần khuyến khích, tăng cường xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ, nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu
nói chung và hàng chế biến có giá trị gia tăng cao nói riêng cũng như hàng
công nghệ cao; tiến tới giảm hẳn xuất khẩu nguyên liệu thô và các mặt hàng
sơ chế.
Hai là, phải củng cố và nâng cấp đồng bộ cả hệ thống pháp luật
ngân hàng và hệ thống ngân hàng để giảm áp lực bất lợi khi mở cửa thị
trường tài chính. Trước hết, cần rà soát lại các điều khoản của các bộ luật có
liên quan đến lĩnh vực ngân hàng để sửa đổi những quy định bất hợp lý;
đồng thời phải chủ động lường trước sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân
hàng nước ngoài với các ngân hàng thương mại trong nước khi thực hiện các
cam kết mở cửa thị trường tài chính. Do đó, cần đẩy nhanh tiến độ cải cách
ngân hàng nhằm nâng cao tiềm lực tài chính, làm cơ sở để đổi mới công
nghệ và trình độ chuyên môn quản lý, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nhấn mạnh rằng, phát triển các
trung gian tài chính, đặc biệt là hệ thống ngân hàng là điều kiện cần cho tự
do hoá tài chính tại các quốc gia đang phát triển. Hệ thống các trung gian tài
chính vững mạnh sẽ thúc đẩy thị trường tài chính phát triển và khi đó tự do


hoá tài chính mới thành công. Các trung gian tài chính phải được tạo ra


trước thị trường tài chính. Đến khi các thị trường vốn phát triển lên, việc
phân bổ đầu tư trong nền kinh tế sẽ được cải thiện. Đến lượt nó, đầu tư sẽ

tạo ra nhu cầu mới về các dịch vụ từ thị trường vốn cùng với sự tăng trưởng
của toàn bộ nền kinh tế. Đó chính là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa tăng trưởng
kinh tế và sự gia tăng hoạt động trên thị trường vốn.
Ba là, phải chủ động phòng chống những nguy cơ khi tự do hoá tài
chính. Biện pháp đối phó với nguy cơ mất giá đồng nội tệ do các nhà đầu tư
dễ dàng chuyển vốn ra ngoài là phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ như trường
hợp của Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore trong đợt khủng hoảng tài
chính vừa qua. Để đối phó với nguy cơ tiền tháo chạy ra khỏi nền kinh tế, có
thể tham khảo một số kinh nghiệm của các nước như Chile: nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư gián tiếp phải giữ tiền mặt trong nước tối thiểu một năm và từ
tháng 9/1998, các nhà đầu tư tài chính nước ngoài phải đóng một loại thuế
dưới dạng nộp vào quỹ dự trữ 30% tổng số tiền cho vay nhưng không được
hưởng lợi tức. Đồng thời, đánh thuế 1,2% trên toàn bộ vốn đưa vào không kể
thời hạn. Ngoài ra, việc hạn chế đổi ngoại tệ cũng góp phần ngăn chặn nguy
cơ tiền tháo chạy. Ngoài ra, để “hóa giải” nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay
ngắn hạn, Chính phủ phải có hệ thống giám sát tài chính hiệu quả, nhằm
ngăn chặn những khoản đầu tư quá nhiều rủi ro... Muốn vậy, phải (1) đổi
mới căn bản hệ thống thiết chế an toàn và giám sát tài chính theo các thông
lệ và chuẩn mực quốc tế; (2) Có biện pháp hợp lý và linh hoạt về kiểm soát
các luồng vốn, nhất là nguồn vốn ra và nguồn vốn ngắn hạn vào TTCK; (3)
Nâng cao năng lực điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá theo nguyên tắc thị
trường nhằm hạn chế rủi ro thị trường đối với khu vực tài chính trong quá
trình tự do hóa; (4) Trong quá trình tự do hóa tài chính, cần xử lý sớm, ngay
từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính, nhất
là hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán.
Bốn là, phải khơi thông thật tốt các kênh đầu tư. Nếu dòng vốn chảy
vào môi trường đầu tư hiệu quả, các kênh dẫn đầu tư “tiêu hoá” tốt nguồn
vốn thì sẽ không xảy ra hiện tượng đánh tháo tiền. Nếu không có kênh đầu
tư hiệu quả để giải thoát sự ứ đọng của vốn thì nguồn cung vốn sẽ giảm và
hệ thống tài chính sẽ vô cùng nguy hiểm nếu gặp phải những cú sốc tài chính

bên ngoài... Chính vì vậy cần quan tâm phát triển hệ thống thanh toán và
dịch vụ hỗ trợ thị trường tài chính theo hướng hiện đại hóa, đồng thời tăng
cường quản lý, giám sát nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động tài
chính diễn ra thông suốt và an toàn;
Năm là, đẩy nhanh tiến độ cải cách doanh nghiệp, nhất là khu vực
doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, góp phần giảm gánh


nặng đối với Ngân sách Nhà nước. Đồng thời, nhanh chóng xây dựng và


hoàn thiện các Luật thuế nhằm củng cố nguồn thu ngân sách trong khi nguồn
thu thuế bị giảm mạnh trong quá trình thực hiện các cam kết về mở cửa thị
trường dịch vụ;
Sáu là, thúc đẩy hình thành các điều kiện tiền đề để tự do hóa thị
trường vốn. Giải pháp cho vấn đề này có lẽ không gì thích hợp hơn việc
nghiên cứu mô hình tự do hóa của các nước trên thế giới, đặc biệt Trung
Quốc, tập trung vào những lợi thế, thách thức, và những khó xử trong chính
sách liên quan đến quá trình tự do hóa của họ để làm bài học cho Việt Nam.
Đồng thời Việt Nam cần tham gia tích cực và hiệu quả các chương trình hợp
tác khu vực và quốc tế đối với lĩnh vực tự do hoá thị trường vốn để đẩy
nhanh quá trình hội nhập nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Có thể thấy
trước rằng việc tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam cũng đồng nghĩa với
một cuộc cải cách sâu rộng và đồng bộ trên nhiều mặt của nền kinh tế vĩ mô
mà một trục trặc trong quá trình này cũng sẽ làm cái giá phải trả cho việc tự
do hóa trở nên đắt hơn nhiều.
Cuối cùng, theo những nghĩa vụ bắt buộc trong quy định của WTO,
hệ thống các ngân hàng thương mại nước ta phải đáp ứng các yêu cầu về
minh bạch hoá, áp dụng các chuẩn mực an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, trích lập. Các biện pháp cụ thể hơn

bao gồm:
- Minh bạch hoá mối quan hệ giữa CSTT và CSTK, làm cho cả 2
chính sách này ngày càng lành mạnh bằng cách trao nhiều quyền lực cho
NHTW trong việc hoạch định và thực thi CSTT. NHTW phải đủ sức và đủ
công cụ để bảo đảm ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam; Đủ sức kiểm
soát và làm chủ các nghiệp vụ chính của NHTW như: Điều hành thị trường
tiền tệ; Điều hành và kiểm soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia; Đảm
bảo trên đất Việt nam chỉ tiêu tiền VN và nhanh chóng thực hiện lộ trình tự
do chuyển đổi cho đồng tiền VN; Đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt
động thanh tra – giám sát hoạt động Ngân hàng của mọi loại Định chế tài
chính (ngay cả khi có Uỷ Ban giám sát tài chính ngoài NHTW);
- Mọi hoạt động có tính chất đầu tư của khu vực tài chính công phải
thực hiện thống nhất theo cơ chế thị trường, đều phải bị điều chỉnh thống
nhất bởi Luật chuyên ngành về ngân hàng; Hạn chế dần và có kỷ cương
minh bạch, công khai về các hoạt động tín dụng chính sách ưu đãi đối với
khu vực thuộc đối tượng chính sách ưu đãi của Nhà nước; Thống nhất một
mạng thanh toán quốc gia đối với mọi pháp nhân có quan hệ thanh toán với
ngân hàng, kể cả khu vực NSNN và khu vực tài chính Nhà nước ngoài
NSNN.


- Cần phải đứng trên lợi ích của Nhà nước để dẫn dắt thị trường bằng
cách có chính sách “dãn” rộng hơn khoảng cách giữa các lần cổ phần hoá
từng NHTMNN hay từng DNNN nếu không, một bộ phận tài sản của Nhà
nước sẽ có xu hướng rơi vào tay cá nhân các nhà đầu cơ!
- Đào tạo và từng bước phổ cập kiến thức phổ thông về cung ứng và
“mua” các dịch vụ tiện ích từ ngân hàng. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín
dụng trực tiếp giữa cá nhân với ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp
thông qua các công ty, nhà máy chế biến, tập đoàn công nghiệp, tập đoàn
thương mại đồng thời có chính sách khuyến khích phát triển mạnh mẽ việc

mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng của cả pháp nhân và thể nhân để
cùng với các giải pháp công nghệ nhanh chóng nhất thể hoá thẻ thanh toán
trên lãnh thổ Việt nam ...
Tóm lại, tự do hoá tài chính trước hết luôn gắn chặt với năng lực minh
bạch và khả năng kiểm soát lưu thông tiền tệ, khả năng thanh tra giám sát
các dòng chu chuyển vốn trong nền kinh tế cũng như chu chuyển vốn giữa
trong nước với nước ngoài của NHTW để thúc đẩy nền kinh tế nói chung,
các chủ thể kinh tế nói riêng ngày càng phát triển một cách vững chắc. Mức
độ tự do hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực quản trị, công nghệ, kiểm soát rủi
ro và tính minh bạch trong các quan hệ theo luật pháp liên quan ở trong nước
và thông lệ quốc tế từng thời kỳ phát triển. Mặt khác, tự do hoá tài chính
cũng là một xu thế khách quan không thể nhẫn nại “ngồi chờ” sự hoàn thiện
năng lực và môi trường luật pháp của từng quốc gia thành viên WTO, vì vậy
nhất thiết Việt nam phải chủ động và tích cực tiếp cận với tự do hoá tài
chính bằng một thái độ kiên quyết và cẩn trọng cần thiết nhất có thể được,
cần bám sát điều kiện kinh tế- chính trị của đất nước, và trên cơ sở đó phải
xác định được một lộ trình hợp lý.
Một số kiến nghị cho các tổ chức và doanh nghiệp Việt Nam:
- Nâng cao tiềm lực tài chính thông qua các kênh như cổ phần hoá, phát
hành cổ phiếu, liên kết để lớn mạng phát triển, đặc biệt đẩy mạnh phát
triển mô hình liên kết Ngân hàng – Chứng khoán – Bảo hiểm để hình
thành các tập đoàn kinh doanh lớn trong nước đủ sức cạnh tranh với các tổ
chức tài chính và doanh nghiệp nước ngoài.
- Các tổ chức doanh nghiệp trong nước cần có chiến lược quảng bá thương
hiệu, phát triển khách hàng mới, quan tâm chăm sóc tốt khách hàng cũ,
khách hàng truyền thống, có chính sách hậu mãi thích hợp. Các công ty
trong nước cần nâng cấp hệ thống và chương trình đào tạo nhằm cung cấp
dịch vụ chăm sóc khách hàng tốt hơn, nâng cao hiệu quả công việc.
- Chú trọng phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại để theo



kịp với xu hướng hội nhập đồng thời nâng cao khả năng ứng dụng thông
tin của các nhân viên, cán bộ tài chính.
- Chú trọng thu hút “chất xám” cố gắng giữ được nguồn nhân lực có trình
độ thông qua cơ chế tiền lương và các chương trình đào tạo bồi dưỡng
nâng cao nghiệp vụ kĩ năng.
- Cẩn trọng khi hợp tác liên doanh với đại gia ngoại, hoạt động đầu tư tài
chính từ đối tác nước ngoài đôi khi trở thành các thương vụ thâu tóm, sáp
nhập. Việc doanh nghiệp nội bị loại ra khỏi liên doanh hay bị thâu tóm
diễn ra khá phổ biến ở một thị trường đang phát triển như Việt Nam.
Kỳ vọng hợp tác với các ông lớn ngoại dần biến thành nỗi thất vọng bởi
kết quả không diễn ra như mong muốn, thậm chí đi ngược lại với mục
đích ban đầu. Nhiều doanh nghiệp Việt giờ đây đang hối hận sau chuỗi
ngày ngắn ngủi bắt tay với cổ đông nước ngoài đơn cử: Tribeco Sài Gòn
bị thâu tóm bởi Tribeco Bình Dương – đứng sau là nhà đầu tư nhà đầu tư
nước ngoài nắm 100% vốn, Uni-President Việt Nam; hay kỳ vọng về sự
hợp tác toàn diện giữa Bibica – Lotte, ừ quản lý, công nghệ đến kỹ thuật,
xuất nhập khẩu… giờ đây thực sự đã trở thành nỗi thất vọng; Hay như sự
thống trị của đối tác ngoại và sự lép vế của nội trong hoạt động của đại gia
BigC như hiện nay. Không chỉ rót tiền vào các thương vụ lớn (như SCG
vào Prime, TPG và KKR vào MSN, Semen Gresik vào Xi măng Thăng
Long…), các tập đoàn lớn cũng như quỹ đầu tư nước ngoài đang rót tiền
cả vào các doanh nghiệp nhỏ trong nước.
Việc thu hút vốn ngoại là cần thiết trong bối cảnh doanh nghiệp nội thiếu
vốn, thiếu công nghệ, thiếu kinh nghiệm quản lý… Tuy nhiên, điều quan
trọng có lẽ nằm ở khâu chọn đối tác. Việc đưa ra các ràng buộc như cổ
phần tối đa, nguyên tắc thị trường trong việc lựa chọn nguyên liệu đầu
vào, đầu ra… có thể là cần thiết để đảm bảo sự an toàn, sự ổn định của
doanh nghiệp và hạn chế khả năng thao túng của các cổ đông lớn, tránh
vết xe đổ của các sự vụ đau lòng vừa qua.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Minh Ngọc, Triển vọng tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam:
Nhìn từ quốc tế và Trung Quốc - Tạp chí Ngân hàng Số 3+4/2007
2. Trần Anh Tuấn, Tác động của việc tự do hóa tài chính đến tăng trưởng
kinh tế - lý luận & thực tiễn ở Việt Nam www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn - 2003
3. Nguyễn Hoài, Được gì khi tự do hóa tài chính? - vneconomy 12/05/2007,
4. Nguyễn Đại Lai, Tự do hóa tài chính - Xu thế và giải pháp chính sách
cho ngân hàng Việt Nam thời kỳ hậu WTO - www.sbv.gov.vn - 2007
5. BVK, Tự do hoá tài chính và những vấn đề đặt ra - www.cpv.org.vn 6/7/2007
6. XT, Tự do hóa tài chính – xu hướng và giải pháp chính sách www.sbv.gov.vn - 2007
7. Tự do hóa tài chính - Kinh nghiệm của Trung Quốc, canada và bài học
đối với Việt Nam www.laocai.gov.vn/NHDLTNTQ/content/2030010.htm
8. Tự do hoá tài chính và thị trường vốn tại các quốc gia đang phát triển
- www.moi.gov.vn - 07/6/2004



×