Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tếxã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.18 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
1.
2.

ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………
ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO KỸ THUẬT ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ

DỰ ÁN CẤP ĐẶC BIỆT…
2.1

Một số khái niệm liên quan đến rủi ro công trình..............................................3

2.1.1
2.1.2

Định nghĩa và phân loại sự cố công trình xây dựng…………………...
Khái niệm rủi ro (risk) và phân loại rủi ro công trình (risk in construction projects)

3

4
Nguyên nhân gây ra các rủi ro kỹ thuật........................................................7
Các tác động của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án....................9
Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật trong một số dự án điển hình cấp đặc biệt.................13

………………………………………………………….
2.2
2.3
2.4
2.4.1


Phân tích đánh giá sự cố kỹ thuật cầu Cần Thơ ảnh hưởng đến lợi

ích kinh tế và xã

hội của dự án…………………………………………………
2.4.1.1

Tổng quan về dự án………………………………………………...

2.4.1.2

Tóm tắt sự cố………………………………………………………

2.4.1.3

Phân tích đánh giá sự cố…………………………………………...

*Nguyên nhân của sự cố……………………………………………………...
*Ảnh hưởng của sự cố………………………………………………………..
2.4.2
Phân tích đánh giá sự cố kỹ thuật đường hầm sông Sài Gòn (hầm Thủ Thiêm) ảnh

13
13
14
15
15
15

17

2.4.2.1........................................................................ Tổng quan về dự án17
2.4.2.2............................................................................... Tóm tắt sự cố19
2.4.2.3................................................................... Phân tích đánh giá sự cố21
*Nguyên nhân của sự cố……………………………………………………...
21
*Ảnh hưởng của sự cố………………………………………………………..
21
hưởng đến lợi ích kinh tế và xã hội của dự án

3.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………………………….

23

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………… 24

1.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt nam đang bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế và đang trở thành điểm

đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính điều này đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống giao thông vận tải, điện tử, viễn thông... Ngày càng nhiều các


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 2


dự án khu đô thị mới, khu công nghiệp, sân bay, bến cảng, nhà ga, các công trình cầu đường, công
trình ngầm được đầu tư xây dựng với quy mô lớn ở nhiều nơi trên cả nước trong thời gian qua, đặc
biệt là ở các thành phố lớn như TP Hồ Chí Minh, nơi có nhiều dự án công trình trọng điểm quốc gia
mang ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế - chính trị - xã hội.
Tuy nhiên, trong sự phát triển nhanh chóng này, dù rằng đã có rất nhiều dự án đầu tư xây dựng
đã mang lại thành công xét cả khía cạnh hiệu quả kỹ thuật lẫn kinh tế thì thực tế cũng cho thấy đã và
đang tồn tại rất nhiều dự án công trình bao gồm cả các công trình quan trọng gặp phải những sự cố
kỹ thuật như lún đường, sập cầu, nứt hầm, trượt lở mái dốc,…để lại những hậu quả rất nghiêm trọng,
gây ảnh hưởng lớn đến lợi ích kinh tế - xã hội như sự cố sập cầu Rào (Hải Phòng), Cầu Đuống, Cầu
Đắc Krông, sập nhịp dẫn cầu Cần Thơ, vụ sụp toàn bộ trụ sở Viện Khoa học xã hội miền Nam do tác
động của việc thi công tầng hầm cao ốc Pacific (TP Hồ Chí Minh), gần đây nhất là sự xuất hiện của các
vết nứt ở đường Hầm Sông Sài Gòn (Hầm Thủ Thiêm) (TP Hồ Chí Minh) tuy vẫn đang được khẳng
định là nằm trong giới hạn cho phép… Những sự cố như vậy đã ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả dự
án. Theo số liệu thống kê của Cục Giám định Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng hàng năm
có khoảng 0,28 – 0,56% công trình bị sự cố thì với hàng vạn công trình được triển khai cũng đã có
hàng trăm công trình bị sự cố [1]. Vì vậy việc xác định nguyên nhân sự cố, đúc rút kinh nghiệm để có
biện pháp khắc phục xử lý và đề phòng các rủi ro kỹ thuật để tránh ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của
các dự án rất được sự quan tâm của giới xây dựng công trình nói riêng và toàn thể xã hội nói chung,
đặc biệt là trong tình hình Việt Nam đang chịu tác động mạnh từ nền kinh tế thế giới đang biến động,
lạm phát tăng cao, tín dụng bị thắt chặt, vật giá (giá xăng dầu, giá vật tư, giá nhân công) leo thang
làm thay đổi kinh phí xây dựng các công trình. Điều này cũng góp phần tạo tiền đề để các yếu tố rủi
ro kỹ thuật công trình xảy ra với xác suất cao hơn.
Hiện nay ở các nước trên thế giới đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn để rủi ro (risk)
và quản trị rủi ro (risk management). Ở Việt Nam, đề tài này cũng đã và đang được giới nghiên cứu
rất quan tâm. Tuy nhiên, sự thật là một tỷ lệ lớn các tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam đề cập đến những
rủi ro nói chung hoặc liên quan đến các ngành/lĩnh vực mang tính chất đặc biệt như kinh doanh tiền
tệ, tín dụng (các ngân hàng, quỹ đầu tư), kinh doanh kim loại quý, kinh doanh bảo hiểm [2]. Riêng
lĩnh vực xây dựng công trình giao thông thì lại có rất ít các báo cáo/nghiên cứu về rủi ro kỹ thuật một
cách toàn diện và có hệ thống được ghi nhận và công bố ở Việt Nam. Vì vậy công tác quan lý rủi ro kỹ
thuật vẫn chưa được sự quan tâm đúng mức. Việc nhìn nhận, đánh giá và quản lý các rủi ro ở các dự

án vẫn chưa được tiến hành một cách chủ động, nhiều sự cố tương tự vẫn thường xuyên tái diễn vì
những suy nghĩ chủ quan rằng ít có khả năng xảy ra các sự cố nghiêm trọng. Do đó, việc nhận dạng,
phân tích và đánh giá đúng mức những ảnh hưởng từ rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kinh tế - xã hội của
dự án, đặc biệt là những dự án cấp đặc biệt sẽ tạo ra cái nhìn tổng quát hơn về tác động của rủi ro và
có ý nghĩa rất quan trọng, là rất cần thiết và cấp bách trong sự phát triển và xây dựng các phương
pháp, biện pháp quản trị rủi ro kỹ thuật phù hợp, đảm bảo an toàn cho công trình và đem lại sự thành
công cho các dự án. Đây cũng chính là mục đích mà bài tiểu luận muốn hướng đến.

Article I.

ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO KỸ THUẬT ĐẾN HIỆU QUẢ KINH TẾ-XÃ HỘI
CỦA MỘT SỐ DỰ ÁN CẤP ĐẶC BIỆT
1.1 Một số khái niệm liên quan đến rủi ro công trình
1.1.1

Định nghĩa và phân loại sự cố công trình xây dựng

Sự cố công trình được ghi nhận và đề cập đến rất nhiều trong các văn bản pháp lý được ban hành của
Chính Phủ và Bộ Xây dựng như Nghi định số 209/2004/NĐ-CP, 180/2007/NĐ-CP, NĐ 23/2009/NĐ-CP,
thông tư số 24/2009/TT-BXD, số 27/2009/TT-BXD [3]. Theo khoản 29 điều 3 Luật Xây dựng định
nghĩa “Sự cố công trình là những hư hỏng vượt quá giới hạn an toàn cho phép làm cho công trình có
nguy cơ sụp đổ; đã sập đổ một phần hoặc toàn bộ công trình; hoặc công trình không sử dụng theo
thiết kế” [4]. Theo đó, có 4 loại sự cố là sự cố sập đổ, sự cố biến dạng, sự cố sai lệch vị trí và sự cố về
công năng; phân chia theo cấp độ có cấp độ nhẹ, vừa, nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Tuy
nhiên định nghĩa này vẫn chưa thực sự rõ ràng khi không đề cập đến định lượng ở mức độ nào thì

Trường Đại học giao thông Vận
tải



Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 3

được gọi là sự cố. Từ đó đã dẫn đến nhiều cách suy diễn khác nhau về mức độ sự cố, chẳng hạn
nhầm lẫn giữa vi phạm vấn đề chất lượng thông thường và sự cố công trình. Riêng cụm từ “không thể
sử dụng được theo thiết kế” cũng chưa được giải thích chi tiết nên kết quả là trên thực tế cũng được
diễn giải theo nhiều nghĩa. Việc phân loại sự cố cũng còn chung chung, gây khó khăn cho việc tổng
hợp, phân tích sự cố. Ví dụ sự cố vết nứt, lún sụt mái dốc, nền, sự cố do vượt tải… Điều này làm cho
công tác quản lý nhà nước của các địa phương vẫn còn lúng túng khi giải quyết sự cố công trình ở các
quy mô khác nhau [2] [5].
1.1.2

Khái niệm rủi ro (risk) và phân loại rủi ro công trình (risk in construction
projects)

Nhắc đến rủi ro chúng ta thường nghĩ ngay đến những bất trắc xảy ra ngoài mong muốn và thường
gây ra những thiệt hại về thời gian, vật chất, sức khỏe, tính mạng của con người. Khái niệm này được
thay đổi theo ý nghĩa của từng đối tượng quan tâm ví dụ các trong các ngành, lĩnh vực khác nhau thì
rủi ro có những định nghĩa khác nhau phù hợp với tính chất riêng biệt của chúng.
Thực tế nghiên cứu các tài liệu cho thấy, có rất nhiều định nghĩa về rủi ro và đến nay vẫn chưa có
một khái niệm thống nhất nào về rủi ro. Tùy theo từng quan điểm, các trường phái khác nhau, các tác
giả khác nhau lại đưa ra những định nghĩa khác nhau. Nhìn chung có thể chia các khái niệm rủi ro làm
hai trường phái là trường phái truyền thống và trường phái hiện đại. Trường phái đầu tiên cho rằng rủi
ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc
điều không chắc chắn (uncertainty) có thể xảy ra cho con người. Trường phái thứ hai quan niệm rủi ro
là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực lẫn tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến sự
tổn thất nhưng có thể mang lại nhưng lợi ích, cơ hội. Ví dụ việc xảy ra rủi ro giúp con người nhận thức
được những rủi ro có thể xảy ra, nghiên cứu rủi ro và tìm ra được những biện pháp để đề phòng
chúng xuất hiện. Rủi ro xuất hiện khi tồn tại đồng thời hai yếu tố cơ bản : yếu tố gây rủi ro và đối

tượng chịu tác động, ảnh hưởng. Phạm vi nghiên cứu về rủi ro cũng khá phong phú và đa dạng, vì vậy
ở đây ta chỉ xét đến rủi ro thường xuất hiện ở khía cạnh kỹ thuật trong các dự án công trình.
Rủi ro kỹ thuật (technical risk) trong dự án công trình chính là khả năng xảy ra những sự cố công
trình do các yếu tố kỹ thuật (vật liệu, thiết bị, máy móc, sai sót từ khâu thiết kế, thi công, tiến độ,...)
như đã được định nghĩa trước đó. Trong lĩnh vực an toàn công trình thì rủi ro thường được nhận ra kết
quả là tiêu cực [6]. Một công trình xây dựng được xem là an toàn nếu mức độ rủi ro thực tế của nó
nằm trong vùng các giá trị chấp nhận. Giá trị biên của vùng này là hai giá trị tiêu chuẩn rủi ro : rủi ro
hư hỏng tiêu chuẩn - giá trị cho phép rủi ro với những công trình mới xây dựng; và rủi ro hư hỏng giới
hạn cho phép - giá trị rủi ro khi công trình đang khái thác đạt tới thì phải tiến hành sửa chữa, tăng
cường [7].
Cũng giống như sự cố công trình, việc phân loại rủi ro trong công trình cũng có nhiều cách khác
nhau và đóng một vai trò quan trọng trong công tác đánh giá mức độ ảnh hưởng có thể xảy ra của
các rủi ro đến dự án công trình và từ đó có cơ sở để đưa ra những biện pháp quản lý và phòng ngừa
rủi ro phù hợp. Một số rủi ro chính của dự án thường phân thành hai nguồn là bên trong (internal) như
các nguồn lực con người, vật liệu (resources); công tác quản lý dự án (project team relationship and
communication), và bên ngoài (external) có thể kể đến nguồn tài chính (financial); chính phủ
(government) như chính sách, chủ trương; yếu tố kinh tế (economic) như lạm phát, biến động giá cả;
rủi ro hoạt động (operational risk) như năng lực của nhà thầu, tư vấn, việc kiểm soát chất lượng; yếu
tố kỹ thuật (technical) trong thiết kế, thi công ; cơ sở pháp lý (legal); điều kiện môi trường xung quanh
(natural environment), và yếu tố rủi ro trong an ninh, an toàn (tai nạn lao động, trộm cắp công
trường, phá hoại..) (security) (Hình 1) [8].
Ở góc độ rủi ro kỹ thuật của dự án thì rủi ro thường xảy ra ở khâu thiết kế (design) hoặc thi công
(construction). Loại rủi ro này nếu xét trên góc độ các bên liên quan của dự án có thể chia thành [9] :
-

Rủi ro trên góc độ nhà thầu như do điều kiện thời tiết không thuận lợi; thất thoát vật tư; chất
lượng vật liệu kém; …

Trường Đại học giao thông Vận
tải



Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

-

Trang 4

Rủi ro trên góc độ tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát : thiết kế có sai sót, trình độ học vấn hạn
chế, ý thức kèm, nhiều quy trình quy phạm về thiết kế; không nhất quán về tiêu chuẩn xây dựng;
công nghệ thi công; quản lý chất lượng thiết kế; quản lý tư vấn yếu kém; năng lực giám sát;…

Hinh 1: Các nguồn rủi ro chính của một dự án (Nguồn [8])
Xét theo các giai đoạn dự án thì có thể phân loại rủi ro như sau:
-

Rủi ro trong giai đoạn chuẩn bị dự án: như việc thu thập không đầy đủ/chính xác tình
hình địa chất, địa hình, điều kiện tự nhiên, khí hậu; thiết kế sơ bộ;...

-

Rủi ro trong giai đoạn thực hiện dự án : đây là giai đoạn mà xác suất để xảy ra các rủi ro
kỹ thuật rất cao, ví dụ như: điều kiện tự nhiên xấu; sai sót trong khảo sát, thiết kế kỹ thuật;
thiếu trách nhiệm, bớt xén trong quá trình thi công, giám sát; Trình độ quản lý dự án kém/có
biểu hiện tiêu cực…

-

Rủi ro trong giai đoạn khai thác dự án : như công tác quản lý khai thác; bảo dưỡng, sửa
chữa yếu kém cũng gây ra những rủi ro kỹ thuật…


Xét theo mức độ rủi ro có thể phân loại theo ma trận rủi ro như hình sau [10]:

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Trang 5

Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Hình 2 : Ma trận phân loại rủi ro. Nguồn [10]
Trong đó rủi ro được phân làm 3 cấp độ: nhỏ (minor), vừa (moderate) và lớn (major) ứng với mức độ
ảnh hưởng (impact) và khả năng xảy ra (likelihood).
1.2 Nguyên nhân gây ra các rủi ro kỹ thuật
Việc có thể phân tích và đưa ra chính xác các nguyên nhân gây ra rủi ro kỹ thuật có ý nghĩa thực tiễn
rất cao vì chúng sẽ là căn cứ quan trọng để đề ra các biện pháp giảm thiểu tác hại hoặc phòng tránh
rủi ro có thể xảy ra. Tìm hiểu rõ được nguyên nhân của rủi ro cũng giúp ta xác định được tầm mức
ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả của dự án và từ đó dành được sự đầu tư và quan tâm phù hợp
trong công tác quản trị rủi ro.
Nguyên nhân có thể là do khách quan hoặc chủ quan. Xét về nguyên nhân cơ bản, rủi ro được chia
làm 10 loại như theo sơ đồ Taxanomy đó là (Hình 3) [11] :
-

Thiếu hiểu biết

-

Sự thay đổi thủ tục


- Sự cẩu thả

-

Thiếu sót về điều tra/phân tích

- Điều kiện thay đổi

-

Sai sót khi lập kế hoạch

- Sai sót khi đánh giá giá trị

-

Sai sót khi thực hiện

- Sự không hiểu biết

- Sai sót trong đánh giá

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 6


Hình 3 : Sơ đồ Taxanomy các nguyên nhân cơ bản của rủi ro [11].
Như đã đề cập ở phần trên, rủi ro có thể xảy ra ở mọi khâu trong các giai đoạn của dự án : giai đoạn
chuẩn bị dự án, giai đoạn thực hiện dự án và giai đoạn khai thác dự án. Vì vậy các nguyên nhân rủi ro
cũng xuất hiện tương ứng theo từng giai đoạn. Xét trong phạm vi nghiên cứu, rủi ro kỹ thuật có thể
được chia ra thành 10 nguyên nhân đặc thù như ở bảng sau :
Bảng 1 : Các nguyên nhân gây ra các rủi ro kỹ thuật [11]
STT
1
2
3
4
5

NGUYÊN NHÂN GÂY RA RỦI RO KỸ THUẬT CÔNG TRÌNH
Vi phạm trình tự xây dựng cơ bản
Có sai sót trong khảo sát địa chất công trình
Có vấn đề trong tính toán thiết kế
Chất lượng của vật liệu và chế phẩm xây dựng kém
Về mặt nghiên cứu khoa học còn có vấn đề tồn tại hoặc điểm khó trong kĩ thuật chưa được giải

6
7
8
9
10

quyết thỏa đáng hoặc sự vội vã khi ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới
Trong thi công xem nhẹ lý thuyết kết cấu
Công nghệ thi công không thỏa đáng
Quản lý tổ chức thi công không tốt

Sử dụng công trình không thỏa đáng ở giai đoạn khai thác
Các sự cố bất khả kháng : các sự cố thiên tai vượt quá tầm dự tính của con người như động
đất, sóng thần, bão lũ, nổ, hỏa hoạn… gây nên.
1.3 Các tác động của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án
Như đã trình bày trước đó, rủi ro sự cố kỹ thuật có thể xuất hiện ở mức độ nhỏ và không gây ra

ảnh hưởng đáng kể đến công trình [nằm trong giới hạn cho phép] nên mức độ tác động đến dự án chỉ
ở dạng tiềm tàng. Nhưng khi rủi ro đó vượt mức cho phép chúng sẽ gây ra một tác động nào đó và
nhiều trường hợp rủi ro sẽ phát triển đến mức độ cao và gây ra ảnh hưởng lớn đến dự án mà ta
thường gọi là ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án, hiệu quả về kinh tế-xã hội. Nắm bắt được quá trình
phát triển của rủi ro sẽ giúp ta lường trước được các ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả dự án và
nhanh chóng đề ra biện pháp giảm thiểu, khắc phục và phòng ngừa trước khi rủi ro phát triển đến giai
đoạn gây ra tác động. Sơ đồ dưới đây cho thấy 3 giai đoạn phát triển cơ bản của rủi ro xảy ra trong
công trình :

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 7

Hình 4 : Các giai đoạn phát triển của rủi ro. Nguồn [12]
Trong phạm vi nghiên cứu, ở đây ta xét đến rủi ro đã xuất hiện và gây ra ảnh hưởng đến hiệu quả
của dự án. Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật có thể khác nhau trong mỗi giai đoạn của của dự án và lại
khác nhau ở các công tác trong từng giai đoạn. Vì vậy ta chỉ đứng trên góc độ tổng thể của dự án để
xem xét các nhân tố bị ảnh hưởng từ rủi ro kỹ thuật.
Thông thường, hiệu quả kinh tế-xã hội của một dự án được thể hiện qua các tiêu chí như sau :
1)


Chi phí dự án (cost)
Bài toán về chi phí không riêng gì ngành công trình mà bất kỳ lĩnh vực hoạt động nào cũng gặp

phải. Làm thế nào để dự án đạt hiệu quả về chi phí? Làm thế nào vẫn đảm bảo được chất lượng dự án
ở mức cao nhất nhưng chi phí ở mức thấp nhất có thể? Những câu hỏi tương tự như vậy cũng chính là
cơ sở để các nhà đầu tư tính toán mức độ hiệu quả của dự án và thực hiện quyết định đầu tư.
Rủi ro kỹ thuật xảy ra là điều mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng không mong muốn xảy đến vì nó làm
tăng chi phí của dự án chưa kể những ảnh hưởng hệ luy liên quan như kéo dài thời gian dự án, dư
luận xã hội, ảnh hưởng danh tiếng chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn thiết kế..v.v..
2)

Thời gian dự án (time)

Thông thường các dự án đều được vạch sẵn tiến độ thực hiện nên nếu không dự trù được yếu tố rủi ro
kỹ thuật có thể xảy ra và có chiến lược quản trị rủi ro hợp lí trong quá trình thực hiện dự án thì khi xảy
đến sẽ gây kéo dài thời gian chuẩn bị hoặc thực hiện dự án và làm giảm thời gian khai thác dự án.
Thời gian kéo dài cũng đồng nghĩa với việc phát sinh thêm chi phí đầu tư xây dựng, chưa kể đến các
ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến chất lượng dự án khi thời gian thực hiện kéo dài.
3)

Chất lượng công trình (quality)

Yếu tố này đặc biệt quan trọng và rất được quan tâm bởi nhà đầu tư dự án, các bên liên quan khác và
đặc biệt là xã hội. Những năm gần đây đã có rất nhiều sự cố kỹ thuật xảy ra trong các dự án xây dựng
được dư luận báo chí truyền thông lên tiếng phản ảnh. Chi phí có thể tăng thêm, thời gian có thể kéo
dài nhưng nếu chất lượng công trình không đảm bảo thì nó sẽ là nơi cư ngụ lý tưởng của các rủi ro
tiềm tàng để rồi khi đưa vào khai thác sử dụng có thể sẽ xảy ra những hậu quả rất khôn lường đến an
sinh xã hội kèm theo là chi phí cho khâu sửa chữa, tăng cường, bảo dưỡng thậm chí có khi phải phá
bỏ để xây dựng mới.

Ba yếu tố nêu trên : chi phí (cost), thời gian (time) và chất lượng công trình (quality) là ba yếu tố
quan trọng nhất khi đầu tư dự án, cũng là cơ sở chính để đánh giá hiệu quả kinh tế của bất kỳ dự án
nào. Và đây cũng chính là 3 yếu tố chịu ảnh hưởng nhiều nhất khi rủi ro kỹ thuật xảy đến.

Hình 5 : Ba yếu tố quan trọng thể hiện hiệu quả kinh tế của một dự án
Lấy ví dụ cho thấy tác động của rủi ro đến 3 yếu tố cơ bản này có thể kể đến sự cố sập đổ viện khoa
học xã hội vùng Nam bộ ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 9 tháng 10 năm 2007 do thi công hố móng
tầng ngầm của cao ốc Pacific bên cạnh nằm tại số nhà 43-45-47 Nguyễn Thi Minh Khai, P. Bến Nghé,
Q1. Với diện tích mặt bằng 1.750 m2, cao 78.45m, gồm ba tầng hầm và 1 tầng kỹ thuật (chiều sâu
11.8m); 1 trệt và 20 tầng lầu; tổng diện tích sàn xây dựng là trên 22.000m2. Trong quá trình thi công,
chủ đầu tư đã điều chỉnh thiết kế (chưa được Sở Xây dựng thành phố cho phép) lên thành 6 tầng hầm
(chiều sâu 21.1m), một tầng trệt, 21 lầu, diện tích sàn lên tới hơn 41.000 m2. Nhiều nghiên cứu phân
tích đánh giá cho thấy nguyên nhân xuất phát ở các khâu quản lý, thiếu sót trong khảo sát đất nền

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 8

phục vụ thiết kế tầng ngầm, thiết kế kỹ thuật và cả chất lượng thi công. Cái giá phải trả cho rủi ro kỹ
thuật này là thiệt hại không nhỏ về kinh tế của chủ đầu tư như :
-

Chi phí cho việc khoan bổ sung hai lỗ khoan mỗi lố sâu 80m;

-


Chi phí cho việc thi công chống thấm hơn 3,5 tỷ;

-

Chi phí đền bù cho công trình Sở ngoại vụ :5,0 tỷ;

-

Chi phí đền bù cho Viện KHXH vùng Nam bộ : 12,0 tỷ;

-

Chi phí trả lãi vay ngân hàng trong thời gian ngưng thi công: 24,0 tỷ

-

Chi phí bị chậm 2 năm rưỡi khai thác công trình ước tính 150,0 tỷ

-

Tổng cộng khoảng 200 tỷ

Và cái giá đắt nhất là đã gây ra một dư luận không tốt đối với ngành xây dựng trong xã hội [13].
Ngoài ba yếu tố kể trên, thì hiệu quả của dự án đầu tư của phải xét đến yếu tố xã hội. Nếu chỉ tính
đến lợi nhuận mà không xem xét đến tác động an sinh xã hội thì chưa phải là dự án đầu tư có hiệu
quả, đặc biệt là đối với những dự án quan trọng quốc gia hoặc các công trình cấp đặc biệt (theo định
nghĩa trong Phụ lục 1- Nghị định 12/2009 ngày 10 tháng 2 năm 2009 về quản lý dự án đầu tư xây
dựng công trình và định nghĩa trong Phụ lục 1- Nghị định 209/2004/NĐ-CP về quản lý chất lượng công
trình xây dựng). Có thể kể đến là :
4)


Tính an toàn, thuận tiện, hiệu quả trong khai thác sử dụng
Dự án được hoàn thành, công trình được đưa vào khai thác sử dụng không có nghĩa là rủi ro kỹ

thuật ít khả năng xuất hiện, mà ngược lại rủi ro luôn rình rập nếu như công tác quản lý khai thác, bảo
dưỡng yếu kém cũng gây ra các rủi ro kỹ thuật. Khi đó tính an toàn của công trình sẽ là vấn đề phải
bàn đến, nếu không được nhanh chóng khắc phục, sửa chữa sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động khai
thác như xảy ra tai nạn giao thông,… Sự thuận tiện của người khai thác sử dụng cũng bị ảnh hưởng vì
hậu quả của rủi ro đã xảy ra và đương nhiên tính hiệu quả trong khai thác sử dụng của dự án so với
dự kiến ban đầu bị giảm đi tùy theo mức độ của rủi ro. Ví như sự cố tiếng tăm không kém ở thành phố
Hồ Chí Minh, được giới báo chí gọi là “một tuyến đường dẫn và cây cầu” được đặt với tựa đề mỉa mai
trên báo là “13 năm + 600 tỷ đồng = tan nát”. Thông tin đó nói rằng “suốt 5 năm xây dựng, 8 năm
đưa vào khai thác đường Nguyễn Hữu Cảnh chưa một ngày lành lặn, phẳng phiu. Hết lún nứt hầm
chui, cầu vượt đến xuất hiện những lổ thủng trên cầu Văn Thánh 2, rồi đến lượt tuyến đường bị lún có
nơi hàng mét” [14].
5)

Ảnh hưởng đến môi trường

Mặc dù trong quá trình lập dự án đầu tư, tất cả các dự án có công suất, quy mô quy định tại Phụ lục II
của Nghị định 29/2011/NĐ-CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ đều quy đinh rõ việc đánh giá tác động
môi trường (ĐTM), đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) và cam kết bảo vệ môi trường của dự án.
Trong đó đều quy định rõ phải xác định các nguồn gây ô nhiễm của dự án, đánh giá tác động, ảnh
hưởng của các nguồn ô nhiễm đến các yếu tố tài nguyên, môi trường, xã hội, con người xung quanh
khu vực dự án cũng như đề ra những biện pháp giảm thiểu ô nhiễm, quản lý và dự phòng sự cố môi
trường trong quá trình hoạt động của dự án…Nhưng thực tế cho thấy khi rủi ro môi trường xảy ra do
công tác quản lý hoạt động đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và gián tiếp tác động đến
dân sinh. Lấy ví dụ như nguồn nước từ dự án công trình nhà máy thuộc tổ hợp bôxit – nhôm Lâm
Đồng rò rỉ ra khu dân cư có mùi hắc, nhờn, sủi bọt khiến cá nuôi của người dân xung quanh chết hàng
loạt. Nguyên nhân được xác định là do trong quá trình tập kết vật tư, nguyên vật liệu để phục vụ cho

dự án đi vào hoạt động, đơn vị đã để bao bì đựng hóa chất ra bên ngoài, không che đậy, quản lý chặt
chẽ, dẫn đến một lượng hóa chất đã tan chảy khi trời mưa, thẩm thấu xuống đất và trôi theo dòng
nước ra hệ thống thoát nước chung của nhà máy rồi ra môi trường bên ngoài. Hậu quả của sự cố này
là chi phí phải đền bù thiệt hại thỏa đáng cho những hộ dân bị ảnh hưởng đến cây trồng, vật nuôi và
các công tác tổ chức khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước.
6)

Tầm quan trọng/mức độ ý nghĩa đối với xã hội

Thông thường những dự án đặc biệt quan trọng như các dự án quốc gia hoặc các công trình cấp đặc
biệt có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội vì quy mô công trình, ý nghĩa trong việc tạo ra kết nối giao thông

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Trang 9

Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

liên vùng miền, là biểu tượng của thành phố, đất nước; là công trình mang bản sắc dân tộc, là minh
chứng cho sự tiến bộ trong khoa học kỹ thuật,...v..v. Tầm quan trọng hoặc mức độ ý nghĩa đối với xã
hội càng lớn thì dự án càng phải chứng minh được chất lượng và hiệu quả kinh tế-xã hội mà nó mang
lại. Hậu quả của sự cố xảy ra trong những dự án/công trình như vậy sẽ là vô cùng to lớn, không
những gây thiệt hại to lớn về người, của cải, mà quan trọng hơn là sự ảnh hưởng xấu đến nhận thức,
dư luận của toàn xã hội về giới công trình xây dựng. Điều này sẽ được làm rõ hơn trong hai dự án điển
hình cấp đặc biệt tiếp theo là sự cố kỹ thuật ở cầu Cần Thơ năm 2007 và sự cố đang được dư luận xã
hội quan tâm–xuất hiện vết nứt ở đường Hầm sông Sài Gòn (Hầm Thủ Thiêm) dù chỉ mới đưa vào khai
thác sử dụng hơn 9 tháng nay.
1.4 Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật trong một số dự án điển hình cấp đặc biệt

1.4.1
1.4.1.1

Phân tích đánh giá sự cố kỹ thuật cầu Cần Thơ ảnh hưởng đến lợi
và xã hội của dự án

ích kinh tế

Tổng quan về dự án

Cầu Cần Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long, được khởi
công xây dựng ngày 25 tháng 9 năm 2004 và tại thời điểm khánh thành vào lúc 09h00 sáng ngày 24
tháng 4 năm 2010 là cây cầu dây văng có nhịp chính dài nhất tại khu vực Đông Nam Á. Một công trình
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh….đối với sự phát
triển của Cần Thơ, Vĩnh Long và cả ĐBSCL đồng thời là biểu tượng sinh động, thiết thực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cầu gồm cầu chính dài 1010m, cầu dẫn phía Vĩnh Long 520m, cầu dẫn phía Cần Thơ 1120m, mặt
cầu rộng 26m. Tổng mức đầu tư 4.832 tỷ (khoảng 342,6 triệu USD tại thời điểm 2001) bằng nguồn
vốn ODA của chính phủ Nhật và vốn đối ứng của chính phủ Việt Nam. NIPPON KOEI-CHODAI và nhà
thầu chính là liên danh TAISEI-KAJIMA-NIPPON STEEL (TKN). Chủ đầu tư là Bộ Giao thông vận tải. Đại
diên chủ đầu tư quản lý dự án là Ban quản lý dự án Mỹ Thuận.

Hình 6 : Sơ đồ vị trí cầu Cần Thơ
1.4.1.2

Tóm tắt sự cố

Sự cố đã xảy ra trong quá trình đang thi công bê tông dầm hộp tại hai nhịp neo của cầu chính từ trụ
P14 đến trụ P15 phía bờ Vĩnh Long mỗi nhịp dài 40m. Nhà thầu đã sử dụng hệ thống kết cấu đỡ tạm
bao gồm các trụ pale thép, các giàn ngang và các giàn dọc.

Vào lúc 7 giờ 55 phút sáng ngày 26/9/2007 toàn bộ hệ thống kết cấu đỡ tạm kể trên đã xảy ra sự
cố sập đổ, kéo theo là sự sập đổ của dầm hộp bê tông đang thi công. Từ ghi nhận tại hiện trường và
các nhân chứng thì sự sập đổ được bắt đầu từ trụ T13 của hệ kết cấu đỡ tạm, tiếp theo là tiếng nổ và
khói trắng bốc lên gần trụ P13. Bê tông dầm cầu đã thi công giữa các trụ chính P13-P14 và sau đó là
giữa các trụ P14-P15 sập theo và đè lên các bộ phận của hệ kết cấu đỡ tạm.

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 10

Hình 7 : Hình ảnh trước và sau khi sự cố xảy ra

2.4.1.3 Phân tích đánh giá sự cố
*Nguyên nhân của sự cố
Sau sự cố sập đổ, thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ủy ban điều tra nhà nước với sự tham gia của các
chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực sự cố công trình của Việt Nam và Nhật Bản. Sau 8 tháng làm việc,
Uỷ ban đã thống nhất đệ trình báo cáo lên thủ tướng Chính phủ báo cáo cuối cùng về kết quả điều tra
dày gần 100 trang và 10 phụ lục. Báo cáo khẳng định :
-

Việc thiết kế hệ thống kết cấu đỡ tạm trong điều kiện chưa xét tới lực lún lệch không phải là
nguyên nhân trực tiếp gây ra sự cố.

-

Khâu gia công, chế tạo, lắp dựng hệ thống kết cấu đỡ tạm cũng không phải là nguyên nhân

trực tiếp gây ra sự cố

-

Các yếu tố bất lợi như chiều dài lớp đất đắp, sự thay đổi của nước ngầm…mà trong hồ sơ
thiết kế chưa đề cập tới cũng không phải là nguyên nhân gây ra sự cố.

-

Riêng lún lệch ở một đài móng trụ tạm, qua khảo sát, tính toán cho thấy hệ kết cấu đỡ tạm
bị phá hủy rất nhanh do mất ổn định của trụ tạm. Nguyên nhân gây ra mất ổn định là do lún
lệch ở một đài cọc.

Từ kết quả điều tra, phân tích trên Uỷ ban nhà nước đã kết luận :


Nguyên nhân chủ yếu của sự cố là do sự biến đổi về địa chất làm lún lệch đài móng trụ
tạm thượng lưu T13U tới giá trị 12mm theo hướng dọc cầu từ phía bờ ra phía sông. Lún lệch
đài móng đã làm tăng nội lực trong các bộ phận của trụ tạm gây đứt bu lông liên kết của một

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 11

số thanh giằng xiên làm chiều dài hữu dụng của các thanh cột trụ tạm tăng lên gây oằn cột
trụ tạm T13 và theo đó là sự sập đổ các kết cấu bên trên trụ tạm.

*Ảnh hưởng của sự cố
Sự cố sập 2 nhịp dẫn của cầu Cần Thơ khi đang thi công được xem là sự cố công trình thảm khốc
nhất năm 2007 xét cả về thiệt hại vật chất, tiền của và sinh mạng. Phân tích ở các khía cạnh hiệu quả
kinh tế-xã hội của dự án như đã trình bày trước đó có thể thấy được sự ảnh hưởng nghiêm trọng của
rủi ro kỹ thuật ở cầu Cần Thơ:

Chi phí, thời gian và chất lượng công trình :

-

Các yếu tố này quá rõ ràng, rủi ro xuất phát từ công trình phụ tạm nhưng hậu quả đã gây sập đổ toàn
bộ 2 nhịp dẫn và phải tiến hành xây dựng lại toàn bộ sau đó,

Qua đó cũng cho thấy công tác quản

lý rủi ro kỹ thuật đối với chất lượng hệ kết cấu trụ tạm còn nhiều thiếu sót cũng như chất lượng trong
công tác thu thập, đánh giá điều kiện địa chất của khu vực dự án. Từ đó cũng ảnh hưởng đến danh
tiếng, độ tin cậy của tư vấn thiết kế nước ngoài của dự án.
Một số thông tin bên lề ghi nhận được thì sau sự cố nghiêm trọng này xảy ra, cổ phiếu của hầu hết
các hãng xây dựng Nhật trên thị trường chứng khoán Tokyo đều tụt giá, đặc biệt là những hãng liên
quan đến vụ sập nhịp cầu Cần Thơ. Ngoài ra các hãng này còn nhận được nhiều lời chỉ trích, phê bình
về vụ việc cầu Cần Thơ. Tai nạn đã làm cho ngành xây dựng Nhật bị thế giới đánh giá thấp về khả
năng xây cất, không chú trọng đến sự an toàn và điều này sẽ dẫn đến khả năng khó trúng thầu ở các
dự án khác ở nhiều quốc gia trong tương lai.
Mặc dù không thống kê được chính xác chi phí cho công tác xử lí sự cố này nhưng ước tính thiệt
hại vật chất xây dựng khoảng 40 tỷ đồng chưa kể công tác tìm kiếm người bị chết, cứu chữa và tài trợ
cho các gia đình bị nạn…
Ngay sau sự cố xảy ra, công việc thi công đã bị đình chỉ và phải sau khi bộ GTVT đưa ra kết luận
chính thức về sự cố đến ngày 25/05/2008 nhà thầu TKN đã chính thức khởi động lại công trình bằng
việc thi công lại trụ tạm các nhip P14, P15. Vì vậy tiến độ hoàn thành bị chậm trễ đến hơn 1 năm.

-

Thiệt hại về người, ảnh hưởng đến xã hội:

Sự kiện ngày 26/09/2007 theo báo cáo của Bộ Giao Thông Vận tải vào tháng 10 năm 2007, số người
chết là 54 người và có 80 người bị thương. Con số này đã đưa sự cố cầu Cần Thơ trở thành sự cố công
trình thảm khốc nhất trong năm 2007, dư luận xã hội vô cùng bàng hoàng và bức xúc, lo ngại vì công
trình được nước ngoài tư vấn xây dựng nhưng lại để xảy ra sự cố nghiêm trọng như vậy. Vụ việc đến
mức phải lập Uỷ Ban nhà nước để điều tra nguyên nhân và các cơ quan thực thi pháp luật cũng phải
vào cuộc, báo chí cũng liên tục lên tiếng về sự kiện này. Sau sự cố, một khu tưởng niệm được xây
dựng trong khuôn viên Bồ Đề Cổ Tư với diện tích gần 80m2 nằm cách vị trí cầu Cần Thơ khoảng 200m
được xây dựng bằng kinh phí do nhà thầu Nhật Bản tài trợ. Đây là nơi thờ tự tập trung những người
quá cố khi tham gia xây dựng cầu Cần Thơ. Một lễ cầu siêu đã được tổ chức tại chùa vào cùng ngày
diễn ra lễ khánh thành cầu để tưởng nhớ đến những người đã thiệt mạng và cầu cho linh hồn của họ
đươc siêu thoát.

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 12

Hình 8 : Sự cố cầu Cần Thơ trên báo chí
Mặc dù cuối cùng cầu Cần Thơ cũng được hoàn tất và khánh thành vào sáng ngày 24/04/2010
trong sự háo hứt mong đợi của rất nhiều người dân, mong ước hướng đến một tương lai thịnh vượng,
giàu đẹp của người dân hai bờ sông Hậu, của nhân dân ĐBSCL, Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng và đại diện tư vấn thiết kế giám sát Nhật Bản cũng không quên bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông
đến những mất mát của các thân nhân nạn nhân trong sự cố cầu Cần Thơ. Quả thật sự cố cầu Cần

Thơ sẽ khó phai mờ trong tâm trí của người dân trong vùng và cả nước.
1.4.2
1.4.2.1

Phân tích đánh giá sự cố kỹ thuật đường hầm sông Sài Gòn (hầm Thủ Thiêm)
ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và xã hội của dự án
Tổng quan về dự án

Đường hầm sông Sài Gòn hay còn gọi là hầm Thủ Thiêm là công trình hầm dìm vượt qua sông Sài
Gòn, TP Hồ Chí Minh đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam. Đây là một phần trong dự án Đại lộ Đông
Tây nối Quận 1 với khu đô thị mới Thủ Thiêm Quận 2. Công trình ngoài ý nghĩa tạo kết nối hai bờ sông
và giảm tải cho cầu Sài Gòn thì còn là động lực cho sự phát triển của thành phố. Với các trang thiết bị
hiện đại có độ tin cậy và chính xác cao phục vụ công tác vận hành đảm bảo an toàn giao thông qua
hầm, công trình được đánh giá là hầm vượt hiện đại nhất Đông Nam Á.
Công trình được thiết kế với thời gian phục vụ là 100 năm, chịu được động đất 6 độ Richter, mặt cắt
ngang hầm rộng 33,3m bao gồm hai hướng lưu thông với 3 làn xe mỗi bên và có 2 làn thoát hiểm hai
bên hông hầm, tổng chiều dài toàn công trình là 1490m trong đó :
- Phần hầm dìm : 370,8m
- Hai đoạn hầm hở chữ U dài : 185m +215m = 400m
- Hầm đào lấp dài : 399,2m +320m =719,2m
- Tốc độ thiết kế : 60km/h
- Độ dốc dọc tối đa : 4%
- Độ dốc ngang tối đa : 2%
Dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư ODA của chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng của Chính phủ Việt
Nam, tổng vốn đầu tư gần 10.000 tỷ đồng. Tổng thầu thi công là liên doanh các nhà nhà thầu Nhật
Bản. Nhà thầu chính thi công là tập đoàn Obayyashi của Nhật Bản. Chiều ngày 20 tháng 11 năm 2011,
lễ khánh thành hầm Thủ Thiêm được tổ chức và chính thức được thông xe sáng ngày 21 tháng 11 sau
gần 7 năm thi công.

Trường Đại học giao thông Vận

tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 13

Hình 9 : Sơ đồ mặt cắt thiết kế và hình dạng hầm Thủ Thiêm
1.4.2.2

Tóm tắt sự cố

Tháng 5-2008, sau khi các đốt hầm được đúc xong, theo báo cáo kết quả kiểm tra của tổ chuyên gia
Hội đồng nghiệm thu Nhà nước về chất lượng công trình xây dựng đã ghi nhận được hàng loạt vết nứt
xuất hiện ở cả 4 đốt hầm dìm ở hai vách và nắp hầm. Vết nứt ở thành tường thẳng đứng kéo dài từ
2m-3m, bề rộng của vết nứt rộng đến 1mm (theo tiêu chuẩn JSCE 2002 do nhà thầu Obayashi đưa ra
thì mức độ bề rộng vết nứt cho phép đối với hầm là dưới 0,28mm). Các vết nứt cũng xuất hiện ở vị trí
giữa các phân đoạn đổ bê tông của mỗi đốt hầm. Các vết nứt này thẳng đứng và kéo dài gần như hết
chiều cao đốt hầm, bề rộng vết nứt đến 0,3 mm.
Các vết nứt này đã được nhà thầu kiểm tra, nghiên cứu tìm biện pháp xử lý.
Đến tháng 6/2009 công tác sửa chữa các vết nứt được tiến hành và hoàn tất vào tháng 9/2009.
Các vết nứt được khắc phục bằng keo epoxy đối với những vết nứt có chiều rộng lớn hơn 0.15mm và
phủ keo epoxy lên bề mặt vết nứt cho chiều rộng nhỏ hơn 0.15mm.
Tháng 12/2009, Hội đồng nghiệm thu nhà nước kiểm tra thông qua, cho phép đơn vị thi công tiếp
tục công đoạn bơm nước kiểm tra thả nổi, chống thấm.
Đến ngày 7/3/2010, đốt hầm đầu tiên được lai dắt từ bãi đúc ra vị trí dìm và đánh chìm xuống đáy
sông. Trong thời gian từ tháng 3/2010 đến 6/2010, cả 4 đốt hầm lần lượt được dìm xuống đáy sông.
Trong thời gian này, hầm Thủ Thiêm tiếp tục bị phát hiện có dấu hiệu thấm nước.

Trường Đại học giao thông Vận

tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 14

Hình 10 : Các vết nứt, vết thấm và các điểm xử lí sự cố ở hầm Thủ Thiêm
Ngày 28/4/2010 báo cao của Hội đồng nghiệm thu nhà nước cho biết hai đốt hầm số 1 và số 2
dưới đáy sông đã xuất hiện hiện tượng thấm cục bộ tại 1 số vị trí.
Ngày 28/5/2010 sau khi hoàn tất công tác dìm đốt hầm số 3, đơn vị tư vấn giám sát Oriental
Consultant cho biết đốt hầm dìm số 3 cũng bị thấm tại 109 vị trí nhưng tình trạng thấm vẫn trong giới
hạn cho phép.
Ngày 19/11/2011 một ngày trước khi khánh thành hầm Thủ Thiêm, các nhà thầu và đơn vị tư vấn
giám sát đã tổ chức họp báo và khẳng định hầm Thủ Thiểm đã hoàn toàn hết thấm nước.
Tuy nhiên, sau 9 tháng đưa vào khai thác sử dụng, Sở Giao thông vận tải TP.HCM thông báo bắt
đầu duy tu, bảo dưỡng định kỳ hầm. Và trong thời gian này các cơ quan truyền thông lại tiếp tục phát
hiện các vết trám trét các vết nứt giống như thời điểm thực hiện khắc phục vết nứt lúc hầm bị thấm
khi vừa đánh chìm xuống đáy sông Sài Gòn. Trên nóc đốt giữa hầm xuất hiện nhiều vết ố đen, vết
trám hình xương cá dài từ vài cm đến vài m. Ngoài ra, tại những vị trí trám bằng keo này còn có
những miếng nhựa màu vàng được gắn vào nóc hầm. Tuy nhiên Ban quản lý dự án cho biết đấy là các
vị trí thấm ở mức độ nhẹ, nằm trong giới hạn cho phép của tiêu chí kỹ thuật hợp đồng, xuất hiện trong
giai đoạn sau khi đưa vào sử dụng.

Hình 11 : Hình ảnh mới của việc xử lý vết thấm
Hiện công tác kiểm tra theo dõi sự cố xử lý thấm tại đốt giữa của hầm vẫn đang tiếp tục. Nhà thầu
đã hoàn tất công tác duy tu, bảo dưỡng như kế hoạch từ ngày 21/7 đến 24/8/2012.
Mặc dù các chi phí sửa chữa vết nứt trong giai đoạn này đều do nhà thầu Obayashi chi trả vì đang
trong thời hạn bảo hành (bảo hành 1 năm). Nhưng đến cuối tháng 11/2012 nghĩa là chỉ còn khoảng 2
tháng nữa công trình sẽ được bàn giao cho Việt Nam. Nếu tình trạng vết nứt, thấm này vẫn tiếp tục

phát sinh sự cố tương tự thì chi phí khắc phục sẽ do chủ đầu tư chịu và hậu quả của những rủi ro sẽ là

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 15

đáng kể nếu không có biện pháp phòng ngừa rủi ro, nhanh chóng khắc phục sự cố nứt đang xuất
hiện.
1.4.2.3

Phân tích đánh giá sự cố

*Nguyên nhân của sự cố
Tính đến thời điểm hiện tại thì chưa có báo cáo nào công bố chính thức về sự cố vết nứt mà hầm Thủ
Thiêm gặp phải. Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia, nguyên nhân chính xuất hiện các
vết nứt là do co ngót bê tông công thêm việc : không kiểm soát được lượng nước dùng cho 1m3 bê
tông; công tác bảo dưỡng độ bay hơi của hơi nước trong bê tông không đúng quy trình; bố trí thép
cấu tạo chưa hợp lý..
Phía nhà thầu Obayashi Nhật Bản giải thích vì hàm lượng nước trên xi măng ít, cùng việc phân tầng
trong bê tông, điều kiện môi trường làm tăng các vết rạn.
Phía nhà tư vấn PCI lại cho rằng ngoài các lý do trên, bê tông nứt còn có một phần nhỏ do vật liệu
xi măng nhiệt thủy hóa thấm có đặc tính dễ trương nở khi nắng, và sự cố có thể còn do tay nghề của
công nhân.
*Ảnh hưởng của sự cố
Hầm Thủ Thiêm là công trình trọng điểm của TP.Hồ Chí Minh và được người dân thành phố rất quan
tâm. Dù hiện tại sự cố chưa đến mức độ nghiêm trọng và vẫn được khẳng định là “trong giới hạn cho

phép” thì không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của sự cố đến sự đánh giá mức độ hiệu quả cả về kinh tế
lẫn xã hội của dự án, trong đó sự tác động đến xã hội là rất đáng kể vì công trình được xem là niềm tự
hào của người dân thành phố.
Nếu xét ảnh hưởng của sự cố đến hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án có thể thấy :
-

Sự cố nứt xảy ra đã làm tăng thêm chi phí cho việc sửa chữa khắc phục dù rằng dự án được đánh
giá là có quy mô lớn nhất thành phố vì chi phí giải tỏa đền bù giải tỏa khu vực này là rất lớn. Cụ
thể như tại thời điểm năm 2008 khi sự cố các vết nứt xuất hiện, Ban Quản lý dự án đã phải tạm
ứng 16 tỷ đồng từ ngân sách thành phố để thực hiện gấp rút hợp đồng tư vấn “Đánh giá nguyên
nhân và giải pháp khắc phục sự cố các đốt hầm dìm Thủ Thiêm”. Dù mới đưa vào khai thác sử
dụng chưa đến 1 năm nhưng sự cố vết nứt hầm đã xuất hiện, nếu sự cố này cứ tiếp tục diễn ra
sau khi hết thời hạn bảo hành của nhà thầu thì chủ đầu tư sẽ tiếp tục phải lấy vốn từ ngân sách
nhà nước mà cũng chính là tiền của người dân thành phố nói riêng và cả nước nói chung để đi
khắc phục sự cố.

-

Dù đến thời điểm hiện tại nguyên nhân sự cố vẫn chưa thực sự rõ ràng và thống nhất nhưng để
sự cố xảy ra chỉ trong một thời gian ngắn đưa vào khai thác sử dụng đã cho thấy chất lượng của
công trình được tư vấn thiết kế thi công nước ngoài đảm nhận vẫn còn nhiều điều cần xem xét.
Có thể sự cố sẽ không đi đến mức nghiêm trọng nhưng có một điều chắc chắn là nếu cứ để tình
trạng rạn nứt, thấm nước tiếp diễn thì nguy cơ các cấu kiện cốt thép bên trong sẽ bị hoen rỉ, làm
tăng thể tích và chèn hỏng bê tông xung quanh và làm giảm tuổi thọ của hầm một cách nhanh
chóng.

-

Nếu nói hầm Thủ Thiêm góp phần lớn trong việc tạo thành mạng lưới giao thông ở phía đông,
phát huy vai trò giao thương giữa TP.HCM với các tỉnh, kết nối gần hơn với Tây Nam bộ và Đông

Nam Bộ. Theo đó, từ trung tâm TP đi Đại lộ Đông-Tây về các tỉnh miền Tây rút ngắn được thời
gian hoặc từ trung tâm TP đi các tỉnh miền Đông và ra biển Vũng Tàu qua đại lộ Đông-Tây cũng
sẽ nhanh hơn đồng thời góp phần giảm áp lực cho giao thông cầu Sài Gòn đang quá tải, thì nay
sau khi để sự cố xảy ra, nhiều người dân đã lo ngại về tính an toàn khi lưu thông qua hầm. Theo
ghi nhận được từ người dân sinh sống ở khu vực này cho biết, trước đây, cứ vào buổi chiều xe
gắn máy qua hầm rất đông, có khi nối đuôi nhau nhưng từ khi báo chí phản ánh chuyện nứt hầm
Thủ Thiêm thì lượng người lưu thông qua hầm giảm đáng kể, có khi rất thưa thớt là đằng khác. Ai
cũng cảm thấy nghi ngại, bất an trước hình ảnh nóc hầm trám vá chằng chịt. Nhiều người trước
đây hay lưu thông qua hầm Thủ Thiêm cho gần thì nay “mình cứ đi đường khác cho chắc ăn, dù

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 16

hơi xa một tý” hay “hầm thế này thì lo quá, đợi người ta sửa xong rồi tính tiếp…”. Thông tin chiều
11/8/2012 do báo Dân Trí ghi nhận “hầm Thủ Thiêm vắng hoe vắng hoắt”.
Ngoài ảnh hưởng đến mỹ quan công trình, sự cố còn làm giảm hiệu quả trong khai thác sử dụng

-

khi người dân có tâm lý e ngại qua hầm mà chọn con đường đi khác dù rằng có thể phải chịu
cảnh ùn tắc dẫn đến lãng phí tiền bạc, lãng phí thời gian của xã hội, lãng phí trong đầu tư xây
dựng công trình. Và điều quan trọng hơn cả, sự cố vết nứt hầm Thủ Thiêm đã tạo ra vết nứt về
niềm tin trong lòng người dân. Đã có quá nhiều công trình gặp sự cố, lún nứt cầu Văn Thánh 2,
mới đây đại lộ Đông Tây lún nứt phải đắp đi đắp lại nhiều lần, đường cao tốc Sài Gòn - Trung
Lương vừa khánh thành mặt đường đã hư hỏng…Những vết nứt hầm Thủ Thiêm có thể được lấp

đầy, che kín nhưng vết nứt niềm tin trong lòng người dân sẽ khó mà “trám” được dễ dàng.
2.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Bài tiểu luận hướng tới việc đánh giá, làm nổi bật khía cạnh các ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến

hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án, đặc biệt là các dự án quốc gia, công trình cấp đặc biệt. Thông qua
việc làm rõ một số khái niệm liên quan đến rủi ro kỹ thuật và nguyên nhân cũng như việc phân loại rủi
ro, tác giả đề cập đến những ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật có thể xảy ra đối với hiệu quả của dự án.
Đặc biệt là qua phân tích đánh giá hai ví dụ sự cố kỹ thuật điển hình là dự án cầu Cần Thơ và hầm
Thủ Thiêm trong những năm gần đây tác giả muốn đưa đến một cái nhìn tổng quan hơn về mức độ
tác động của rủi ro kỹ thuật nếu không có biện pháp quản trị rủi ro phù hợp cũng như có biện pháp
khắc phục nhanh chóng kịp thời thì hậu quả sẽ là rất nghiêm trọng khi mà gần đây sự cố công trình
xảy ra ngày càng nhiều. Qua những phân tích nhận định trong bài cũng cho thấy vấn đề rủi ro, ảnh
hưởng và quản lý rủi ro của ngành công trình xây dựng vẫn còn nhiều hạn chế, còn thiếu sự quan
tâm.
Trong phạm vi nghiên cứu đề tài, kiến nghị các cấp có thẩm quyền cần dành nhiều sự quan tâm
hơn nữa đến công tác đánh giá tác động cũng như công tác quản lý rủi ro công trình mà trước mắt là
cần phải xây dựng lại các định nghĩa, khái niệm rõ ràng hơn, định lượng cụ thể hơn về sự cố, rủi ro
công trình trong các điều Luật, Nghị định và Thông Tư hướng dẫn xây dựng công trình. Khuyến khích
công tác nghiên cứu rủi ro kỹ thuật công trình, đặc biệt là công tác phân tích, đánh giá và đưa ra
chính xác các nguyên nhân gây ra rủi ro kỹ thuật trong các công trình gặp sự cố một cách khoa học.
Chẳng hạn như thường xuyên tổ chức các Hội thảo nghiên cứu, đánh giá về các sự cố công trình để
đúc rút kinh nghiệm, xây dựng hệ thống các biện pháp quản lý rủi ro trong tương lại. Điều này có ý
nghĩa thực tiễn rất cao vì chúng sẽ là căn cứ quan trọng giúp giảm thiểu tác hại và là cơ sở dữ liệu để
tham khảo cho các công trình có quy mô tương tự. Hay như việc xây dựng và công bố các danh mục
rủi ro trong các dự án công trình xây dựng, là tập họp các nghiên cứu phân tích cụ thể các sự cố đã
xảy ra, đánh giá độ lớn của rủi ro và mức độ tác động đến hiệu quả dự án cũng là một giải pháp rất
thực tiễn để nâng cao nhận thức và sớm có biện pháp phòng ngừa các rủi ro tương tự có thể xảy ra.
Ở góc độ các chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn thiết kế, giám sát, đơn vị thi công. Cần nhìn nhận, đánh

giá và quản lý ảnh hưởng của các tác động từ rủi ro kỹ thuật trong từng giai đoạn của dự án và có
biện pháp dự phòng đối phó ngay lập tức nếu có sự cố xảy ra để đảm bảo được tiến độ, chất lượng
cũng như để giảm bớt chi phí phát sinh khi xử lý sự cố. Nhưng cần thiết hơn đó là việc sớm chủ động
nhận dạng, phân tích, đánh giá, có biện pháp quản trị rủi ro ngay từ lúc lập dự án đầu tư vì “Phòng
bệnh hơn là chữa bệnh”.
Riêng về sự cố đang diễn biến ở Hầm Thủ Thiêm, Ban quản lý dự án và các bên liên quan nên
nhanh chóng điều tra, tìm hiểu chính xác nguyên nhân sự cố và nhanh chóng đề ra biện pháp khắc
phục sự cố vì đây là công trình trọng điểm có tầm ảnh hưởng đến xã hội rất lớn. Thiết nghĩ các cơ
quan liên quan đến công trình này nên công khai, minh bạch thông tin để người dân biết và bớt lo
ngại do phỏng đoán, tin tức chưa xác thực từ báo chí hay từ những người không thực sự hiểu rõ sự cố
đang xảy ra.
“Rủi ro không thể được tiệt trừ nhưng có thể quản lý được. Và chủ động lúc nào cũng tốt hơn là việc
phản ứng sau rủi ro…”

Trường Đại học giao thông Vận
tải


Ảnh hưởng của rủi ro kỹ thuật đến hiệu quả kính tế-xã hội của một số dự án cấp đặc biệt

Trang 17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Ngọc Hùng (2009). Báo cáo “ Sự cố công trình xây dựng : Nguyên nhân và giải pháp phòng
ngừa”, Tổng hội xây dựng Việt Nam.
[2] Phạm Thi Trang (2010). “Nghiên cứu giải pháp quản trị rủi ro trong dự án thi công xây dựng”, Tạp
chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng- Số 1(36).2010.
[3] PGS.TS. Nguyễn Văn Hiệp (2009). “Sự cố công trình xây dựng – Bất cập trong quy định hiện hành
và kiến nghị khắc phục”, Báo cáo hội thảo khoa học toàn quốc “Sự cố và phòng ngừa sự cố công trình
xây dựng”.

[4] Luật xây dựng, số 16/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003.
[5] Tổng hội xây dựng VN (2009). Báo cáo “Sự cố và phòng ngừa sự cố công trình xây dựng ở Việt
Nam – Thực trạng và giải pháp”.
[6] GS.TS Nguyễn Viết Trung, Bài giảng quản lý rủi ro “Phân tích rủi ro kỹ thuật xây dựng công trình
cầu trong dự án có vốn ODA”.
[7] TS. Phạm Văn Thứ (2009). “Rủi ro hư hỏng các công trình xây dựng và phương pháp tiếp cận
(Failure risk of construction and the evaluation method)”. Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải số 186/2009.
[8] Nicholas Chileshe and Adwoa Boadua Yirenkyi-Fianki (2011). “Perception of Threat Risk Frequency
and Impact on Construction Project in Ghana: Opinion Survey Findings”, Journal of Construction in
developing countries, Vol. 16(2). 115-149.2011.
[9] NCS. Trịnh Thùy Anh (2005). “Xây dựng danh mục rủi ro trong dự án xây dựng công trình giao
thông ở Việt Nam hiện nay”, Bộ môn Quản trị kinh doanh, Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải.
[10] New South Wales Treasury (2004), “Risk Management Guideline”, TAM04-12, September 2004
[11] GS.TS. Nguyễn Viết Trung, ThS. Vũ Thị Nga. Báo cáo “Phân tích rủi ro kỹ thuật trong xây dựng
công trình cầu ở Việt Nam”. Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải.
[12] Trịnh Thùy Anh (2005). “Phân tích mối quan hệ giữa các rủi ro trong dự án xây dựng công trình
giao thông ở Việt Nam hiện nay”, Trường Đại Học Giao Thông Vận Tải.
[13] PGS.TS Nguyễn Bá Kế (2009). “Bài học từ sự cố sập đổ viện khoa học xã hội vùng Nam bộ ở
thành phố Hồ Chí Minh”, Viện KHCN xây dựng.
[14] PE. Trần Văn Việt, TS. Nguyễn Văn Túc (2009). “Nhận diện nguyên nhân sự cố công trình và truy
tìm nguyên nhân sự cố kẹt rô bốt tại dự án CTMT kênh Nhiêu Lộc- Thị Nghè, TP Hồ Chí Minh, Nhìn từ
góc độ thủy lực công trình.

Trường Đại học giao thông Vận
tải



×