Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Nhân vật của tiểu thuyết trung trung đỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.44 KB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

LÊ THỊ THU THỦY

NHÂN VẬT CỦA TIỂU THUYẾT
TRUNG TRUNG ĐỈNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2011


Lê Thị Thu Thuỷ

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài .................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................... 8
3.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 8
3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 9
4.1. Mục đích nghiên cứu ...................................................................... 9
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 10
6. Kết cấu của luận văn ............................................................................ 11
PHẦN NỘI DUNG


CHƢƠNG 1. TIỂU THUYẾT CỦA TRUNG TRUNG ĐỈNH
TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975

1.1. Tổng quan về sự phát triển của tiểu thuyết đương đại Việt Nam sau
1975 ......................................................................................................... 12
1.1.1. Hai giai đoạn phát triển của tiểu thuyết ...................................... 13
1.1.2. Thành tựu của tiểu thuyết Đổi mới sau 1986 ............................. 20
1.2. Những đóng góp của Trung Trung Đỉnh vào sự phát triển của tiểu
thuyết
đương đại Việt Nam sau 1975.......................................................... 25
CHƢƠNG 2. THẾ GIỚI NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRUNG TRUNG ĐỈNH

2.1. Nhân vật trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh, một cái nhìn khái quát ... 30

2


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

2.1.1. Nhân vật và vai trò của nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi
mới ............................................................................................................................30
2.1.2. Góc nhìn chung về nhân vật tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh ............. 34
2.2. Nhân vật người lính trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh ....................... 38
2.2.1. Kiểu nhân vật trong tâm thế “lựa chọn” ........................................... 40
2.2.2. Kiểu nhân vật “lạc lõng” ................................................................... 49
2.3. Nhân vật người phụ nữ trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh .................. 57
2.3.1. Kiểu nhân vật phụ nữ truyền thống .................................................. 57
2.3.2. Kiểu nhân vật phụ nữ hiện đại .............................................................. 64
2.4. Các kiểu nhân vật khác ............................................................................ 71

2.4.1. Kiểu nhân vật trí thức thời đại mới ................................................... 71
2.4.2. Kiểu nhân vật kì dị mang hình hài khuyết tật ................................... 74
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
TRONG TIỂU THUYẾT TRUNG TRUNG ĐỈNH

3. 1. Các phương diện miêu tả nhân vật ................................................... 78
3.1.1. Khắc họa chi tiết ngoại hình - cá thể hóa nhân vật ..................... 78
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật ............................................. 80
3.1.3. Nhân vật đồng hiện cùng dòng kí ức, hoài niệm ........................ 84
3.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống ....................................................... 86
3.3. Giọng điệu và ngôn ngữ đa dạng ...................................................... 90
3.3.1. Giọng điệu đa thanh trong nghệ thuật xây dựng nhân vật .......... 90
3.3.2. Ngôn ngữ hấp dẫn, kết hợp đối thoại và độc thoại nội tâm ........ 95
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 101

3


Lê Thị Thu Thuỷ

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trung Trung Đỉnh sinh năm 1949 tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng, là một
trong số rất ít nhà văn trở về sau chiến tranh mà sự nghiệp sáng tác đã
phản ánh rõ nét quá trình đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975. Ông
cũng là một cây bút bền bỉ với thời gian. Bằng lao động nghệ thuật nhẫn
nại, không ngừng tìm tòi khám phá, Trung Trung Đỉnh đã có một khối
lượng tác phẩm khá lớn với hàng chục truyện ngắn, sáu tiểu thuyết. Sự

nghiệp văn học của ông đã được người đọc và nhà nước ghi nhận và trao
tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (năm 2007) và giải
Nhất Cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ nhất (năm
1998 - 2000).
Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam thực sự có rất nhiều khởi sắc.
Có thể khẳng định rằng chưa bao giờ, văn xuôi phát triển mạnh mẽ như
thế, nhà văn được sống một cách thành thật cùng trang viết. Trên nền thời
đại bộn bề đa đoan, văn chương vẫn hút nhựa sống từ hiện thực cuộc đời,
đem lại những sáng tác đa diện.
Thế giới nhân vật của một nhà văn được hình thành từ quan niệm
nghệ thuật về con người. Văn học trước 1975 gắn với quan niệm con
người sử thi, con người cao cả bách chiến, bách thắng. Văn học sau 1975
mô tả cuộc sống và con người trong xu hướng ngày càng trở nên đa diện
đa dạng hơn. Sau 1975, con người phức tạp, nhiều chiều. Trong tâm hồn mỗi
con người luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái cao thượng và thấp hèn,
4


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

nhân đạo và độc ác, con người làm chủ hoàn cảnh nhưng có khi lại là nạn
nhân của hoàn cảnh.
Trung Trung Đỉnh đã hơn một lần tâm sự và tự nhận, bàn chân đã đi
khắp các nơi trên đất nước, song những ngày tháng sống và chiến đấu ở
Tây Nguyên có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc đời mình.
Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước, ông là nhà văn viết nhiều và thành công về miền núi bởi ông luôn
thích núi rừng trong lành, yên tĩnh hơn thành phố ồn ào, bụi bặm.
Đến với văn chương khá sớm bằng truyện ngắn đầu tay Những khấc
coong chung nhưng tới lúc Lạc rừng đoạt giải Nhất Cuộc thi tiểu thuyết

lần thứ nhất của Hội Nhà văn Việt Nam (1998 - 2000) thì bạn đọc đã phải
ghi nhận cái tên Trung Trung Đỉnh như một “thương hiệu văn chương”.
Và kể từ đó, ông đều đặn ra mắt bạn đọc những tác phẩm của mình với
“thương hiệu” Trung Trung Đỉnh. Đặc biệt vào thời kì Đổi mới, trong khi
hầu hết các nhà văn cùng thế hệ đã tỏ ra chững lại, ít viết hoặc thưa dần
thì Trung Trung Đỉnh liên tục cho ra đời những tác phẩm mới, thu hút sự
quan tâm không chỉ người đọc mà cả những nhà phê bình.
Mỗi trang văn của nhà văn Trung Trung Đỉnh có sức lôi cuốn mạnh
mẽ và quyến rũ rất riêng, đặc biệt là nhân vật trong các tác phẩm của ông.
Thông qua mỗi nhân vật, Trung Trung Đỉnh đưa đến cho người đọc cái
nhìn toàn diện về cuộc sống xã hội, lịch sử, văn hóa và những biến thiên
của nó.
Theo dòng thời gian trên hành trình sáng tác của nhà văn, nhân vật
trong tác phẩm cũng có nhiều thay đổi. Cho đến nay đã có nhiều bài phê
bình, những công trình nghiên cứu về nhân vật trong tác phẩm của Trung
Trung Đỉnh nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về nhân vật tiểu
thuyết của ông một cách hệ thống. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn đi sâu
5


Lê Thị Thu Thuỷ

nghiên cứu đề tài Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh. Xuất phát
từ thực tế này, người viết luận văn kế thừa những công trình nghiên cứu
của các tác giả, đồng thời tiếp tục đi sâu hơn nữa để làm sáng tỏ một
phương diện đặc sắc trong sự nghiệp văn chương mà cụ thể là tiểu thuyết
sau 1975 của Trung Trung Đỉnh với mong muốn góp phần làm rõ hơn
phong cách nghệ thuật và những đóng góp của ông trong sự nghiệp văn
học nước nhà.
2. Lịch sử vấn đề

Sau năm 1975, sự đổi mới trong văn học diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ.
Hoà cùng dòng chảy chung của văn học, Trung Trung Đỉnh đã trở thành
một hiện tượng. Việc ra đời hàng loạt các bài viết, bài phê bình đã khẳng
định tài năng sáng tác của Trung Trung Đỉnh với một khối lượng khá
phong phú. Nhìn chung, ngoài những bài viết về các tác phẩm cụ thể,
nhiều bài nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu nghệ thuật, tìm hiểu phong
cách sáng tác của Trung Trung Đỉnh, một số bài tìm hiểu về nhà văn với
tư cách là một tác giả của nền văn học hiện đại Việt Nam.
Chúng tôi nhận thấy các ý kiến, các bài viết đánh giá về Trung Trung
Đỉnh (sau 1975) hầu hết ít nhiều đề cập đến nghệ thuật xây dựng nhân vật
của ông, và coi đó là một trong những nét đặc sắc của tiểu thuyết Trung
Trung Đỉnh.
Trên cơ sở tìm hiểu những bài nghiên cứu, phê bình, thảo luận về văn
nghiệp Trung Trung Đỉnh, chúng tôi xin điểm lại một số ý kiến bàn đến sáng
tác của Trung Trung Đỉnh có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài.
Một trong những bài viết đầu tiên về Trung Trung Đỉnh là của nhà
thơ Anh Ngọc đã nhận xét như sau: “Xuất hiện chưa lâu lắm nhưng tôi
thấy Trung Trung Đỉnh đã đi đúng hướng vào bản chất của văn học,
6


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

với tất cả sự trung thực và nghiêm khắc của một người đã tự giải phóng
được mình – đã tự do và đầy trách nhiệm” [53]. Đây là một ý kiến nhận
được sự đồng thuận của hầu hết các nhà phê bình. Tuy nhiên, nhận xét của
Anh Ngọc mới dừng lại ở sự quan sát tổng quan, chưa nhấn mạnh vào đặc
trưng phong cách Trung Trung Đỉnh hay một tác phẩm cụ thể của ông.
Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng nhận xét: “Nhân vật trong tiểu
thuyết từ người lính viết văn (Xoay) đến cô gái mới vào đời nằm dài chờ

việc làm (Sương), từ người phụ nữ bị tâm thần do oan ức (chị Mão) đến
anh Ron suốt đời thật thà tới mức ngớ ngẩn… đều bị cuộc đời ở cái phần
tầm thường, dung tục tha hóa dữ dội” [70; 255]. Có thể nói, ý kiến của
nhà nghiên cứu này đã đi sâu vào tác phẩm Trung Trung Đỉnh bằng các
dẫn chứng cụ thể. Vì thế, Bùi Việt Thắng đã nhận ra nét chung trong nghệ
thuật xây dựng nhân vật của Trung Trung Đỉnh, đó là những con người dù
ở tầng lớp nào: là người lính cầm bút hay người phụ nữ thua thiệt hoặc
một quân nhân giải ngũ về với đời thường… cũng đều bị cuộc đời tha hóa
dữ dội.
Còn nhà văn Ma Văn Kháng sau khi đọc Tiễn biệt những ngày buồn
đã thốt lên trong một bức thư tay gửi Trung Trung Đỉnh: “Tôi đã mất ngủ
hai đêm liền. Xao xác tận đáy gan ruột. Đau buồn âm ỉ, ứa nước mắt.
Cuộc đời thật từ hình hài đến tâm sự. Chua chát và ngọt ngào đến độ…”.
Cảm nhận của Ma Văn Kháng bộc lộ cái nhìn đồng cảm với sáng tác
Trung Trung Đỉnh. Cùng là những nhà văn trở về từ chiến trường, lặn
ngụp cùng cuộc đời và viết văn như một nhiệm vụ từ trái tim, nhận xét
của Ma Văn Kháng đã góp phần định hướng về nguồn mạch cảm xúc
chung trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh.
Với con mắt tinh tế và đặc biệt nhạy cảm, nhà phê bình Phạm Xuân
Nguyên đã bộc lộ cảm xúc của mình khi đọc tác phẩm của Trung Trung Đỉnh
7


Lê Thị Thu Thuỷ

được đăng tải trên trang web của anh: “Đọc văn anh sẽ thấy anh có lối đi
riêng của mình: không “thời thượng”, không ồn ào, lặng lẽ cày xới trên
những điều mình cảm, mình nghĩ…”.
Nhà văn Nguyên Ngọc thì cho rằng: “Tây Nguyên được phát hiện ra,
hiển lộ ra trong chiến tranh, cuộc chiến tranh mà Trung Trung Đỉnh đã

lâm vào đó - và ở đó anh đã gặp được Tây Nguyên - như một số kiếp.
Toàn bộ cái ấy - Tây Nguyên và chiến tranh, chiến tranh và Tây Nguyên đã làm ra anh, con người anh, cuộc đời anh, số phận anh, kiếp người của
anh…” [55]. Với cái nhìn sâu sắc, nhà văn Nguyên Ngọc đã đưa ra một
nhận xét tinh tế về các tác phẩm phản ánh con người, mảnh đất Tây
Nguyên trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh. Là tác giả thành công ở
mảng đề tài này, Nguyên Ngọc chỉ rõ, không phải nhà văn mà chính Tây
Nguyên và cuộc chiến tranh oanh liệt của đồng bào các dân tộc anh hùng
nơi đây đã làm nên diện mạo Trung Trung Đỉnh.
Có thể nói, những nhận xét tương đối xác đáng trên đây đã chứng
tỏ, tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh có những vấn đề văn học gây chú ý
không chỉ với người đọc mà còn tạo hứng thú với những cây bút phê bình
có tiếng. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, hiện tại nghiên cứu về
Trung Trung Đỉnh vẫn dừng lại ở những bài viết nhỏ lẻ, chưa có nhiều
công trình khoa học nghiên cứu cụ thể và thích đáng vấn đề này. Hơn thế
nữa, nghiên cứu về nhân vật trong tiểu thuyết của Trung Trung Đỉnh là
một khoảng trống lớn xét trên góc độ tiếp cận tác phẩm. Do vậy, trên tinh
thần kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, chúng
tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống hơn về
nhân vật tiểu thuyết của Trung Trung Đỉnh sau 1975. Luận văn hi vọng
góp một phần nhỏ vào việc khẳng định tài năng và những đóng góp của

8


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

Trung Trung Đỉnh trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại, xác lập cái
nhìn hoàn chỉnh về phong cách Trung Trung Đỉnh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Miêu tả rõ những đặc điểm về mặt nội dung, hình thức nghệ thuật
nhân vật trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh để từ đó khẳng định những
đóng góp vào diện mạo của tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Để làm rõ yêu cầu đặt ra là nghiên cứu Nhân vật của tiểu thuyết Trung
Trung Đỉnh, luận văn sẽ tiến hành khảo sát và nghiên cứu các tác phẩm của
ông. Trong đó, chúng tôi tập trung chủ yếu vào các tiểu thuyết sau:
1. Tiễn biệt những ngày buồn (1990)
2. Ngõ lỗ thủng (Chuyện tình Ngõ lỗ thủng) (1990)
3. Lạc rừng (1999)
4. Sống khó hơn là chết (2007)
Ngoài ra khi cần thiết, chúng tôi sẽ mở rộng, liên hệ sang các tiểu
thuyết khác của ông và của các nhà văn khác để đối chiếu, so sánh.
Hiện thực cuộc sống từng ngày từng giờ được nhà văn Trung Trung
Đỉnh kể, miêu tả và bình luận thông qua cái nhìn, thái độ ứng xử đúng đắn
của các nhân vật. Chúng tôi chọn bốn tiểu thuyết này vì đây là những tác
phẩm tiêu biểu đánh dấu những mốc lớn trên hành trình sáng tạo, lao động
nghệ thuật của nhà văn và ghi nhận những thành công, bứt phá mạnh mẽ
trong lối viết của Trung Trung Đỉnh về đề tài Tây Nguyên và cuộc sống
con người thời kì hậu chiến. Đây là những tác phẩm tiêu biểu gắn liền với
nghiệp viết của Trung Trung Đỉnh thành công trong việc tạo dựng nhân
vật đồng thời thể hiện đầy đủ sự tinh tế về khả năng ngôn ngữ, cái nhìn
tinh tế về đời sống tâm hồn mỗi con người. Đây cũng là những tác phẩm
9


Lê Thị Thu Thuỷ

có nhiều dấu hiệu của sự đổi mới về kĩ thuật, kết cấu, ngôn ngữ đồng thời
người đọc luôn bắt gặp cuộc sống thường nhật, hằng ngày, nó rất thật, rất
gần gũi mà không cảm thấy nhàm chán. Các nhân vật dù có xuất hiện ở

nhiều vai trò khác nhau, nhiều hoàn cảnh khác nhau, song cuối cùng họ
vẫn là những nhân vật mang đậm dấu ấn Trung Trung Đỉnh. Vấn đề nhân
vật, không nằm ngoài quan niệm của nhà văn về con người và giá trị của
con người, nội dung cốt lõi của mọi nền văn học chân chính.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ tiến hành nghiên cứu nhân vật trên các phương diện sau:
Xem xét những nhân vật mà nhà văn Trung Trung Đỉnh thực sự thể hiện
thành công, tạo dấu ấn và làm nên phong cách của ông.
Nghiên cứu nhân vật về phương diện ngôn ngữ và giọng điệu, góp phần
tạo nên nét đặc sắc trong hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác Trung
Trung Đỉnh.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp thu những nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn
đặt ra nhiệm vụ và giới hạn là tập trung làm rõ hơn nhân vật trong tiểu thuyết
của Trung Trung Đỉnh cụ thể là những nhân vật được ông yêu thích và dành
nhiều tình cảm của mình để xây dựng, để gửi gắm những thông điệp của ông
đến với bạn đọc. Thông qua hệ thống nhân vật người viết muốn khẳng định
phong cách nghệ thuật của Trung Trung Đỉnh vừa giữ được cách viết theo
quy luật nội tại của bản thân nó đồng thời đã có những sự thay đổi trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật.

10


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích này, với đề tài Nhân vật của tiểu thuyết
Trung Trung Đỉnh, luận văn không có tham vọng bao quát được hết tất

cả các nhân vật trong tất cả các tác phẩm của ông mà chỉ đề ra những
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Trên cơ sở tổng hợp lí thuyết về nhân vật trong tác phẩm văn học để
nghiên cứu các nhân vật trong văn bản cụ thể.
- Vận dụng cơ sở lí thuyết đã được xây dựng để xác định, phân loại
đối tượng cần nghiên cứu. Trên cơ sở đó đưa ra cách xác định đối tượng
cụ thể.
- Xem xét những ảnh hưởng và chi phối của nhân vật trong tác phẩm,
nhằm chỉ ra vai trò của nhân vật trong từng tác phẩm nói riêng và toàn bộ
sự nghiệp văn học của nhà văn Trung Trung Đỉnh nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn chúng tôi vận dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp hệ thống: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sẽ
dùng phương pháp hệ thống để xem xét nhân vật với tư cách là một yếu
tố hữu cơ trong một cấu trúc chỉnh thể trong mối quan hệ với các yếu tố
khác của cấu trúc.
Xem xét từng hình tượng nhân vật trong từng bình diện, phương diện
nghệ thuật.
- Phương pháp so sánh: Để khẳng định nét đổi mới và riêng biệt,
đặc sắc của nhân vật trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh, luận văn sẽ so
sánh nhân vật của ông với các nhân vật trong tiểu thuyết của một số nhà
văn khác.
11


Lê Thị Thu Thuỷ

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cũng tiến hành sử dụng phương
pháp thống kê, phân loại như một phương pháp hỗ trợ.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh trong bối cảnh tiểu
thuyết Việt Nam sau 1975.
Chương 2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh.
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết
Trung Trung Đỉnh.

12


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT CỦA TRUNG TRUNG ĐỈNH
TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT VIỆT NAM SAU 1975
1.1. Tổng quan về sự phát triển của tiểu thuyết đƣơng đại Việt Nam
sau 1975
Nghiên cứu thể loại từ lâu đã trở thành một trong những xu hướng
đầy thách thức trong lí luận văn học nói chung. Bước sang thế kỉ XX, văn
học Việt Nam đã hoàn toàn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của nhiều thể
loại mới trên tiến trình hiện đại hóa. Đặc biệt, tiểu thuyết, một loại hình tự
sự có sức sống lâu bền, thường được xem là “máy cái” của nền văn học đã
trở thành đối tượng nghiên cứu sâu rộng, chiếm lĩnh vị trí trọng tâm trong
lĩnh vực lí luận nghệ thuật.
Ở luận văn này, người viết không có tham vọng tìm hiểu toàn bộ sự
phát triển của tiểu thuyết Việt Nam mà chúng tôi muốn đưa ra cái nhìn có
tính khái quát xoay quanh lộ trình nghiên cứu tiểu thuyết đương đại Việt

Nam kể từ sau năm 1975. Xét về phương diện đó, tiểu thuyết chia thành
hai giai đoạn lớn: từ 1975 đến 1985 và từ 1986 với công cuộc Đổi mới trở
về sau. Hi vọng rằng, đặt ra một cái nhìn có tính lịch đại về bước đường
phát triển của thể loại này ở một thời điểm nhạy cảm: trước và sau Đổi
mới, chúng tôi có thêm nhiều căn cứ xác đáng hơn để đánh giá về những
đóng góp của nhà văn Trung Trung Đỉnh trong diện mạo văn xuôi Việt
Nam nói chung.
13


Lê Thị Thu Thuỷ

1.1.1. Hai giai đoạn phát triển của tiểu thuyết
“Thể loại sống bằng hiện tại, nhưng luôn nhớ quá khứ của mình, khởi
thủy của mình”. (M. Bakhtin)
Từ sau năm 1975, đất nước hoàn toàn độc lập, dân tộc được giải
phóng và con người thoát khỏi những nghiệt ngã của hoàn cảnh, của
những giới hạn nhất thời thì văn học dường như cũng bước vào một công
cuộc chuyển mình đầy thách thức. Tiểu thuyết, dĩ nhiên không ngoại trừ
xu thế chung của thời đại, sống cùng nhịp thở hiện đại nhưng giai đoạn
đầu, thể loại này vẫn mang đậm dấn ấn của văn học chiến tranh 1945 1975. Vì vậy, nhìn lại chặng đường 10 năm phát triển (1975 - 1985),
người ta có thể thấy rằng, tiểu thuyết Việt Nam hoàn toàn bị “đóng băng”,
hay nói cách khác, nó phát triển theo quy luật “quán tính” theo những định
hướng về cảm hứng đề tài, nhân vật… Ở một đất nước mà “chiến tranh”
được nhắc tới như một phạm trù văn hóa như Việt Nam thì việc văn
chương phản ánh về cuộc sống chiến đấu, những năm tháng gian lao anh
hùng của con người là một sự thật có cơ sở từ thực tế xã hội. Những ảnh
hưởng của văn xuôi 1945 - 1975 mà cảm hứng chủ đạo là: “Văn học của
những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng.
Nhân vật trung tâm của nó là những con người đại diện cho giai cấp dân

tộc, thời đại và kết tinh một cách chói lọi những phẩm chất cao quý của
cộng đồng” [61; 61] vẫn tiếp tục ghi dấu ấn trong các tác phẩm sau 1975.
Văn học mười năm đầu sau ngày đất nước giải phóng, thực chất là sự “nối
dài” của văn học kháng chiến, cái nhìn sử thi về con người, xã hội vẫn chi
phối nghệ thuật tiểu thuyết. Nói như thế không có nghĩa phủ nhận sạch
trơn những gì mà văn xuôi giai đoạn này mang lại. Hai đề tài lớn của tiểu
thuyết: đề tài chiến tranh cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
14


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

vẫn tiếp tục được các nhà văn đi sâu, tìm tòi, khám phá với những biểu hiện
mới mẻ hơn, với chiều kích sâu rộng hơn, ở cái nhìn có tính chất bao quát,
toàn cảnh. Đó là sự chiêm nghiệm của những người vừa bước ra khỏi cuộc
kháng chiến, nhìn hiện thực cuộc sống với con mắt của người trong cuộc nên
tiểu thuyết không còn vẻ “xơ cứng” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Bùi Việt
Thắng). Tiểu thuyết Việt Nam mười năm đầu sau chiến tranh có thể kể đến
các tác phẩm: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà (Nguyễn Minh Châu), Mở
rừng (Lê Lựu), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Năm 1975 họ đã sống như
thế (Nguyễn Trí Huân), Họ cùng thời với những ai (Thái Bá Lợi), Vùng trời
(Hữu Mai), Dòng sông phẳng lặng (Tô Nhuận Vĩ), v.v…
Có thể nói, giai đoạn 1975 - 1985 là thời kì tiền đổi mới mà sự xuất
hiện của một loạt tác phẩm ít nhiều gây tiếng vang như trên đã nhen nhóm
những tín hiệu tốt lành cho sự chuyển đổi ngoạn mục về tư duy sáng tạo
nghệ thuật của các nhà tiểu thuyết. Trước hết, nó đem đến một không khí
văn chương sôi nổi, thoát ra khỏi cái bóng của văn học tuyên truyền cổ vũ
một thời; sáng tác về đề tài chiến tranh – người lính thời hậu chiến đã
thấm đẫm cái nhìn đầy thực tế của những người vừa bước ra khỏi bầu
không khí bom đạn ấy. Điều này được ghi nhận rất rõ trong báo cáo của

Nguyễn Khải tại Đại hội Nhà văn lần thứ ba: “Những tác phẩm viết về
chiến tranh được xuất bản vào cuối những năm 70 nói rõ những đặc điểm:
các tác giả không né tránh những hi sinh, thua thiệt tạm thời. Tính gay gắt
của cuộc chiến đã được miêu tả tương đối trung thực trên nhiều khía cạnh.”
[84; 346]. Khuynh hướng phân tích hiện thực chiến tranh giúp các cây bút
đi sâu vào những biến cố, những tình thế dồn nén để nhân vật vươn lên
khẳng định bản lĩnh và hoàn thiện mình.
15


Lê Thị Thu Thuỷ

Bộ tiểu thuyết Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh là một bức tranh
hiện thực đến trần trụi về cuộc chiến đi qua với tất cả sự bộn bề, phức tạp
của nó. Đó là những con người kiên cường, bám trụ vùng đất thép Củ Chi,
Gia Định, tiếp tục cuộc đấu tranh dằng dai quyết liệt với địch để giành lại
dân, giành lại địa bàn... Được sự giúp đỡ, phối hợp của lực lượng địa
phương và của những người dân yêu nước, trung đoàn bộ binh Mười sáu
đã bám đất, bám dân, đập tan âm mưu, biến vùng đất ven đô này thành
vùng đất trắng của địch, tạo thế bàn đạp cho cuộc tổng tiến công mùa
xuân 1975 đại thắng. Lấy bối cảnh từ cuộc chiến tranh Việt Nam trong
những ngày tháng cam go, quyết liệt nhất, Nguyễn Trọng Oánh không dập
khuôn theo công thức ca ngợi những thắng lợi vang dội một cách cũ mòn
theo lối văn chương cổ động quen thuộc mà tác giả đã bình tĩnh trình bày
một cơn xoáy lốc dữ dội có thất bại, có hi sinh đổ máu của nhân dân để
tạo ra những hoàn cảnh điển hình, đặt nhân vật vào những biến thiên mất
mát, buộc nhân vật lựa chọn cách sống: dũng cảm hay hèn nhát, kiên định
hay bội ước?
Bước ra khỏi cuộc chiến dữ dội vừa đi qua, tiểu thuyết của Nguyễn
Minh Châu với những cái tên như: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà,

Những người ở trong rừng ra… vẫn cho thấy hiện thực nghiêm ngặt được
tác giả nhắc đến trong một cái nhìn mới. Trong Miền cháy, tác giả lấy bối
cảnh là thành phố mới giải phóng, còn sót lại đầy tàn dư của nếp nghĩ cũ
kĩ, là những cánh đồng, thôn ấp đầy mìn dây thép gai, lẫn trong những
mảnh đạn là xương người. Từ đó, trung tâm của câu chuyện nổi bật hình
ảnh con người, những người cán bộ trong cuộc chiến tranh vào sinh ra tử
cùng nhân dân, cùng đắp hầm, đào ụ, sẵn lòng hi sinh cả tính mạng, bước
vào thời bình trở thành người nắm quyền lực tập thể. Họ phải làm gì để
16


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

cân bằng trở lại, họ phải xử sự ra sao để những nguy cơ trả thù cá nhân
không bùng phát, trái với lương tri cách mạng giữa bộn bề hiện thực. Bản
thân nhà văn Nguyễn Minh Châu là một cây bút đầy tâm huyết và có
những trăn trở tìm tòi trong suốt sự nghiệp văn học của mình. Nhưng có
lẽ, ý thức về lẽ sống, về con người chính là điểm sáng khơi thức những
xúc cảm dạt dào trong ông, để dù viết về vấn đề người lính chiến tranh
thời chiến hay hậu chiến, Nguyễn Minh Châu vẫn thấm nhuần tư tưởng về
chủ nghĩa anh hùng của dân tộc sau ba mươi năm chiến tranh gian khổ;
văn học phải làm gì, nên làm gì để hòa mình với nhân loại, đó mãi mãi là
niềm trăn trở của cây bút có tâm, có tài này.
Thời kì 1975 - 1985 có thể là giai đoạn chưa có những bước nhảy về
chất cho sự chuyển mình, bứt phá mạnh mẽ của văn học Việt Nam nhưng
theo ý người viết, đây là công cuộc chuẩn bị cần thiết, có tính chất dự báo
cho những đổi thay ở giai đoạn tiếp sau. Cảm hứng sử thi mặc dù vẫn còn
ghi dấu mạnh mẽ trong nghệ thuật xây dựng nhân vật tiểu thuyết nhưng
không đơn thuần là hình ảnh của con người lớn lao, mang nhân cách lí
tưởng của thời đại như chị Sứ (Hòn đất), Mẫn (Mẫn và tôi), Hảo (Vùng

trời) là chính ủy Kinh, trung đội trưởng Khuê, Lữ, Thái… - những con
người “Đẹp như chân lí sinh ra” trong tiểu thuyết đồ sộ Dấu chân người
lính của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật trong tiểu thuyết mười năm đầu
sau chiến tranh là hình ảnh của những nhân cách con người xã hội chủ
nghĩa đang vươn lên khẳng định mình. Ở đó, con người chịu sự chi phối,
ràng buộc của nghĩa vụ Tổ quốc và bản lĩnh cá nhân. Đó là quá trình tự
nhận thức lương tri, là khát vọng ý chí mạnh mẽ, muốn trở thành con
người toàn diện như Vũ trong Biển gọi, Lợi trong Cửa gió…
17


Lê Thị Thu Thuỷ

Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng rất xác đáng khi chỉ rõ đặc điểm
nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam 1975 - 1985: “Tiểu thuyết viết về
chiến tranh sau 1975 có xu hướng xây dựng kiểu nhân vật tích cực, nghĩa
là nhân vật đó không phải là siêu nhân, nói như Nguyễn Khải, họ có tầm
vóc lớn hơn chúng ta, nhưng là con người đích thực, tuy nhiên sự so sánh
này không nhằm khẳng định dứt khoát tiểu thuyết sau 1975 đã thành công
hơn trong việc xây dựng nhân vật.” [84; 348]
Có thể thấy, mười năm đầu sau chiến tranh Việt Nam chưa phải là
con số quá dài để tạo ra một cuộc “cách mạng” trong văn chương nói
chung, đặc biệt là nền văn học hiện đại trong 30 năm chiến tranh tàn phá
mà dấu ấn sâu đậm của nó còn in hằn đến hôm nay. Do vậy, ở một mức
độ đánh giá khách quan nhất, 1975 - 1985 là một cuộc “dọn mình”, “sửa
sang” của các nhà văn để công cuộc Đổi mới giúp người viết tự tin đến
với tư duy tiểu thuyết với những khám phá, tìm tòi và thể nghiệm độc đáo.
Từ năm 1986 đến nay, đất nước bước vào công cuộc Đổi mới toàn
diện trên nhiều lĩnh vực: chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội… Nó không
chỉ là sự thay đổi căn bản hệ thống quốc dân mà quan trọng hơn, không

khí Đổi mới đem lại cuộc “lột xác” thực sự cho văn học. Cuộc biến thiên
ngoạn mục của văn chương trong gần hai thập niên cuối của thế kỉ XX và
mười năm đầu thiên niên kỉ mới đến hôm nay vẫn còn gợi ra nhiều suy
nghĩ. Tuy nhiên, có một sự thực hoàn toàn xác đáng rằng, công cuộc
Đổi mới đã đem lại một tư duy nghệ thuật mới mẻ cho nhà văn. Kể từ
năm 1986, văn xuôi nói chung và đặc biệt là thể tài tiểu thuyết nói riêng
trở thành mảnh đất màu mỡ cho nhiều cây bút và thực sự gặt hái được
nhiều thành công trên cả phương diện cảm hứng, đề tài, bút pháp. Sáng
tác tiểu thuyết đã phản ánh một cách rất chân thật những vấn đề bộn bề,

18


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

ngổn ngang, đa chiều của bức tranh xã hội và số phận con người. Hiện
thực cách mạng rộng lớn ở tầm vĩ mô với khuynh hướng sử thi đã dần dần
thay thế bởi những tìm tòi về bản ngã, những ẩn ức cá nhân trong công
cuộc vật lộn, mưu sinh giữa cuộc sống hằng ngày. Nhà nghiên cứu văn
học Bích Thu đã chỉ ra rất rõ sự thay đổi trong cảm hứng tiểu thuyết Đổi
mới: “Cảm hứng sáng tạo chuyển từ ngợi ca, tự hào, khâm phục đến
chiêm nghiệm, lắng đọng, suy tư. Thay vì cách nhìn đơn giản, rạch ròi
thiện ác, bạn thù, cao cả, thấp hèn là cách nhìn đa chiều, phức hợp về hiện
thực và số phận con người”. [48; 226]
Quả vậy, với xu hướng nhìn thẳng vào sự thật không né tránh, dân
chủ hóa nội dung phản ánh, khai thác những góc khuất của cuộc sống,
hàng loạt các tác phẩm tiểu thuyết ở thời kì này đã đánh dấu sự đột phá
của nhiều cây bút: Lê Lựu với Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông, Hai nhà;
Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma; Bảo Ninh với
Nỗi buồn chiến tranh; Ma Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Đám

cưới không có giấy giá thú; Chu Lai với Ăn mày dĩ vãng, Phố; Trung
Trung Đỉnh với Lạc rừng, Tiễn biệt những ngày buồn; Dương Hướng với
Bến không chồng, v.v... Những thay đổi cơ bản trong sáng tác của các cây
bút thời kì Đổi mới là cách đánh giá, nhìn nhận con người trong mối quan
hệ cá nhân, đi sâu vào bản thể với nhiều mối giằng xé nội tâm phức tạp,
quanh co, là những bi kịch, mâu thuẫn trong đời sống hằng ngày chứ
không phải là hiện thực rộng lớn với hình tượng con người tập thể, con
người mang trách nhiệm cộng đồng như giai đoạn trước. Văn học Việt
Nam những năm kháng chiến chống Pháp và mấy chục năm trường kì
chống Mĩ đã xây dựng chân dung nhân vật mang tính cách điển hình cho
số phận dân tộc, hi sinh hạnh phúc cá nhân cho vận mệnh đất nước vì:

19


Lê Thị Thu Thuỷ

“Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau” (Cuộc chia li màu đỏ - Nguyễn
Mĩ). Đó là Lượng trong Thư nhà của Hồ Phương, là chị Út Tịch trong
Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, là Mẫn trong Mẫn và tôi của Phan
Tứ, là anh hùng Núp trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên
Ngọc… Nhưng, khi chiến tranh lùi xa, kiểu văn chương nghiêng về cảm
hứng ngợi ca dần dần trở nên xa lạ với người đọc, và việc tác giả phải tự
“cởi trói” bứt mình ra khỏi bầu không khí quen nhàm, đơn điệu để đi sâu
vào ngõ ngách của cuộc sống đời thường, trần trụi với những lo toan, tính
toán, cả những suy đồi giá trị đạo đức, nhân cách con người.
Cảm hứng thế sự - đời tư trong sáng tác của các nhà văn thời kì Đổi
mới đã chạm đến những vấn đề bức xúc, nảy sinh trong cuộc sống gia
đình hằng ngày dưới sức ép của đồng tiền, địa vị, và đạo đức suy đồi.
Ngoài những tác phẩm viết về bi kịch con người trong các mối quan hệ

giằng xé, những thân phận khổ sở, đau đớn vì tình yêu, hạnh phúc, vì
nhân cách bào mòn… tiểu thuyết thời kì Đổi mới còn dụng công xây dựng
hình ảnh người lính trở về từ chiến trường với bao nỗi đau, mất mát và dư
âm kinh hoàng của một thời mưa bom bão đạn.
Giai đoạn văn học từ năm 1986 đến nay đã xác lập một lộ trình mới
trong nền văn xuôi đương đại. Ở đó, công cuộc cách tân, cải biến những
lối viết cũ, những tư duy cũ trở về với cuộc sống sôi động hằng ngày đã
được các nhà văn đào sâu khai thác, đặc biệt, văn học lúc này trở về với
đúng thiên chức của mình, phản ánh hiện thực đời sống như nó vốn có,
với tất cả những mặt sáng tối khác nhau: những cây bút trẻ có mảnh đất tự
do sáng tác đã đem lại cho văn đàn một bầu không khí tươi mới chưa từng
thấy, đa phong cách, đa giọng điệu, có sự hòa trộn của nhiều thi pháp.
Đúng như cách nói của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, thời của tiểu thuyết
20


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

lên ngôi, và người đọc không thể không nhắc đến hàng loạt cái tên xuất
hiện trên văn đàn khoảng hai thập niên trở lại đây, cả người đã từng quen
và nhiều cây bút thế hệ trẻ. Đó là Võ Thị Hảo với Giàn thiêu; Hồ Anh
Thái với Cõi người rung chuông tận thế, Đức phật, nàng Savitri và tôi,
Mười lẻ một đêm; rồi Cơ hội của chúa, Khải huyền muộn của Nguyễn
Việt Hà; Thoạt kì thủy, Ngồi của Nguyễn Bình Phương, Chuyện của thiên
tài của Nguyễn Thế Hoàng Linh; China Town, Paris 11 tháng 8 của
Thuận, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Và khi tro bụi, Mưa ở kiếp sau của
Đoàn Minh Phượng, v.v…
Một cái nhìn khái lược như trên về hai chặng đường văn học Việt
Nam sau năm 1975 đến nay có thể chưa hoàn toàn bao quát toàn bộ tiến
trình phát triển quanh co, phức tạp của đời sống văn học. Tuy nhiên, từ

những so sánh khách quan, chúng tôi có thể khẳng định, đó là hai giai
đoạn nối tiếp và bổ sung, bồi đắp cho nhau, cùng làm nên gương mặt văn
học nước nhà. Thời kì sáng tác từ 1986 đến nay có những nền tảng quan
trọng từ mười năm tiền Đổi mới (1975 - 1985); dấu hiệu ấy cho phép chúng
ta có thêm thái độ khách quan và thấu đáo để thấy rõ hơn thành tựu của tiẻu
thuyết sau 1986 mà chúng tôi sẽ trình bày kĩ hơn ở phần tiếp theo.
1.1.2. Thành tựu của tiểu thuyết Đổi mới sau 1986
Từ cái nhìn tổng quan về văn học sau chiến tranh 1975, chúng tôi thấy
rằng, đánh giá thành tựu của tiểu thuyết Đổi mới là một cử chỉ văn hóa ghi
nhận những đóng góp to lớn của các tác phẩm, các cây bút trên chặng đường
cách tân mới mẻ mà không ít thách thức. Và trên cái nền chung ây luận văn
khảo sát nhận diện dấu ấn của nhà văn Trung Trung Đỉnh giữa bộn bề các tiểu
thuyết gia đương đại ở Việt Nam.

21


Lê Thị Thu Thuỷ

Nói về thành tựu của tiểu thuyết Việt Nam thời kì Đổi mới trước hết phải
đặt trong bối cảnh quá trình Đổi mới đất nước nói chung. Từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, chủ trương đổi mới toàn diện các lĩnh vực trong
xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa… đã tạo nên một bước ngoặt lớn. Không
khí cởi mở, dân chủ đã ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn chương. Trước
hết, nó khuyến khích chủ thể sáng tạo, hướng họ đến sự thay đổi quan niệm
nghệ thuật về hiện thực và số phận con người. Hàng loạt các cây bút xuất
hiện, từ nhà văn lớp trước như Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Hữu Mai,
Ma Văn Kháng, Trung Trung Đỉnh đến thế hệ tác giả trẻ như: Nguyễn Thị
Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Ngọc Tư… họ là người
giàu hoài bão và khát vọng mới mẻ về sáng tạo văn học.

Có thể nói, quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam từ nửa cuối thập niên
80 cho đến thập niên đầu của thế kỉ XXI là một giai đoạn phát triển rất sôi
động, mạnh mẽ trên hầu khắp các thể loại. Tiểu thuyết trở thành lực lượng
xung kích đi đầu, vẫn với sứ mệnh là “máy cái của nền văn học”, tiểu thuyết
đã thực sự tạo nên “cú hích” lớn cho những thay đổi quan niệm của nhà văn
về hiện thực và con người. Hàng loạt các tác phẩm ra đời trong thời kì này
như: Thời xa vắng (Lê Lựu), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nỗi buồn chiến
tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng), Cõi người rung chuông
tận thế (Hồ Anh Thái), Cơn giông (Lê Văn Thảo), Cơ hội của chúa (Nguyễn
Việt Hà), Thoạt kì thủy (Nguyễn Bình Phương), Thiên thần sám hối (Tạ Duy
Anh)… đã thể hiện tính đa chiều trong phản ánh hiện thực cuộc sống với
những bộn bề phức tạp của nó. Đặc biệt, số phận con người trở thành vấn đề
nổi lên hàng đầu, được các nhà văn chuyên tâm khai thác và đào sâu với
những tìm tòi không phải mới mẻ nhưng trước nay chưa từng được văn
chương bộc lộ kĩ càng. Con người với tất cả những mặt tốt - xấu, cao thượng 22


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

thấp hèn, hạnh phúc - khổ đau… những gì thuộc bản năng sống của con người
đều được tiểu thuyết phản ánh trung thực, có chiều sâu. Nếu như văn học
chiến tranh cách mạng dụng tâm thể hiện hình ảnh của người lính, anh bộ đội
Cụ Hồ, những con người của thời đại “Sống đã vì cách mạng anh em ta/ Chết
cũng vì cách mạng chẳng phiền hà” với những phẩm chất cao quý nhất thì giờ
đây, con người trong tiểu thuyết đổi mới được soi rọi bằng con mắt hiện thực,
được đặt trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá nhân với cộng đồng, giữa con
người xã hội với con người tự nhiên. Con người đời tư hiện lên với mọi buồn
vui, yêu ghét, vừa có cái cao cả, vừa đan xen cái thấp hèn. Tiểu thuyết vì thế
trở thành những bức tranh hiện thực đời sống sinh động, muôn hình nhiều vẻ,
nhiều cảnh đời, nhiều bi kịch, nhiều số phận khác nhau… Độc giả tìm thấy ở

đó hình ảnh chân dung của chính mình ngoài đời thực, tiểu thuyết cũng nhờ
đó gần gũi và bám sát cuộc sống hơn.
Thành tựu của tiểu thuyết thời kì Đổi mới đến cùng sự thay đổi trong tư
duy nghệ thuật của nhà văn. Quan niệm về con người cá nhân đã tác động
mạnh mẽ đến mỗi người cầm bút, làm điểm tựa vững vàng để nhà văn đủ tài đủ tâm phơi bày những hiện trạng có thực của đời sống mà ở đó: “Cái cao cả
và cái thấp hèn trước sau diễn ra trong cùng một con người. Những tính cách
vô cùng lớn lao và những tội ác sống song hành trong cùng một thời.”
[84; 369]. Tinh thần đổi mới văn học kể từ sau năm 1986 đến nay gắn liền với
tư tưởng dân chủ hóa văn học, xây dựng những giá trị nhân văn mới trong
toàn bộ hệ thống đề tài, thi tứ, bút pháp… trong văn chương nghệ thuật. Sự
khẳng định ý thức con người cá nhân là một đặc điểm quan trọng ở tinh thần
nhân văn mới. Con người được nhìn nhận, đánh giá theo nhiều chiều, là con
người của lịch sử, con người của chiến tranh, con người trong sự hòa nhịp với
đời sống tự nhiên và các mối quan hệ xã hội, con người tha hóa, con người tự
vấn v.v… Đề tài chiến tranh vốn quen thuộc trong văn học giờ đây tiếp tục trở
23


Lê Thị Thu Thuỷ

thành mảnh đất màu mỡ để các tác giả khai thác với nhiều khía cạnh phức tạp,
có cả góc khuất hạn chế của lịch sử. Ngay những tác phẩm viết về chiến tranh
cũng đào sâu vào vấn đề nhân bản với mong muốn kiếm tìm bản ngã đích
thực của con người. Bên cạnh đó, tiểu thuyết đời tư - thế sự cũng chiếm được
sự quan tâm không nhỏ của người viết và sự đón nhận của đông đảo bạn đọc.
Từ Gặp gỡ cuối năm, Cha và con và… của Nguyễn Khải, Mùa lá rụng trong
vườn của Ma Văn Kháng, Bước qua lời nguyền của Tạ Duy Anh, Thiên sứ
của Phạm Thị Hoài… đến những tác phẩm gần đây như Gia đình bé mọn của
Dạ Ngân, Cõi mê của Triệu Xuân, Dòng sông mía của Đào Thắng, Tám ván
phóng dao của Mạc Can… đều nghiêng về xu hướng khai thác những cảnh

ngộ, số phận con người trong cái nhìn toàn diện, đa chiều, phức hợp, với
những ẩn ức tâm hồn và giằng xé mãnh liệt của nội cảm. Có thể nói rằng,
“tiểu thuyết hôm nay áp sát đời sống, xông thẳng vào các “mắt bão” của cuộc
đời để nêu lên những vấn đề cực kì quan thiết với con người thông qua những
số phận bi kịch”. [70; 11]
Đề tài tiểu thuyết lịch sử tiếp tục là một hướng đi thành công của nhiều
cây bút thời kì đổi mới, tiêu biểu như một số tác phẩm: Thăng Long kí sự của
Nguyễn Khắc Phục, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Hồ Quý Ly của Nguyễn
Xuân Khánh… Các nhân vật lịch sử nổi danh một thời không chỉ được khai
thác với tư cách chức năng, phận sự phục vụ lịch sử mà còn soi chiều từ nhiều
góc độ, có đời sống nội tâm với cung bậc tình cảm chân thực, sâu sắc hơn.
Văn học thời kì Đổi mới nằm trong xu thế hội nhập của đất nước ta với
năm châu quốc tế. Giao lưu văn hóa là nhu cầu tất yếu để văn chương Việt Nam
có cơ hội đem tiếng nói của mình hòa cùng dòng chảy của văn học nước ngoài.
Như chúng ta thấy, trong hơn 20 năm tiến hành Đổi mới đồng bộ trên nhiều
phương diện, nền văn học Việt Nam một mặt vừa phát triển theo quy luật nội
tại của bản thân, mặt khác, tiếp thu có chọn lọc những yếu tố ngoại sinh ảnh
24


Nhân vật của tiểu thuyết Trung Trung Đỉnh

hưởng đến phong cách, xu thế sáng tác của các nhà văn. Nếu trước năm 1975,
văn học Việt Nam gần như bị ảnh hưởng nguyên mẫu của các nước xã hội
chủ nghĩa, điển hình là Liên Xô và Trung Quốc, thì từ năm 1986 đến nay,
chính sách giao lưu, mở rộng quan hệ hợp tác của chính phủ ta với các nước
bạn đã đem lại luồng gió mới cho văn chương khởi sắc. Hoạt động dịch thuật
và giới thiệu văn học nước ngoài (Âu Mĩ, Nhật Bản, Trung Quốc…) không
những thay đổi thị hiếu của bạn đọc mà còn có những ảnh hưởng tích cực đến
lối viết, phong cách, bút pháp sáng tác của nhiều nghệ sĩ. Các khuynh hướng

mới như tượng trưng, siêu thực, huyền thoại, viễn tưởng, hậu hiện đại… tạo
ra nhiều giọng điệu hấp dẫn, mới mẻ trong tác phẩm của nhà tiểu thuyết.
Thành tựu văn học thời kì Đổi mới còn gắn liền với sự xuất hiện của
nguồn cảm hứng mới trong sáng tạo nghệ thuật. Nếu trước năm 1975, cảm
hứng sử thi và khuynh hướng lãng mạn chi phối hầu hết tác phẩm truyện
ngắn, tiểu thuyết, bởi lẽ lúc này văn chương mang sứ mệnh phụng sự Tổ
quốc, lấy phục vụ chính trị là phương châm hàng đầu thì đến giai đoạn này,
cảm hứng phê phán nổi lên như một giọng điệu chủ đạo của văn chương.
Cuộc sống phức tạp và đa dạng đòi hỏi nhà tiểu thuyết phải nhìn nó bằng ánh
mắt toàn diện, khách quan, lấy cảm hứng phê phán là nền tảng để nhận diện
vấn đề thấu đáo hơn. Bức tranh phản ánh hiện thực không chỉ là những mảng
màu sáng sủa, tươi vui mà nó còn rất nhiều những gam màu đen tối, xấu xa,
đê hèn lẫn lộn… Văn học không biệt lập với đời sống hiện thực mà cùng tham
gia trực tiếp với công cuộc đổi mới, văn học không chỉ là phương tiện phục
vụ sứ mệnh chính trị mà quan trọng hơn, tính chất “tự thân” của văn học được
phát huy hết mình, văn học trước hết và trên hết phải vì con người, tự nó tỏa
sáng vẻ đẹp của con người trong mọi cảnh huống.
25


×