Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Phân tích bài mộ chiều tối của hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (82.08 KB, 3 trang )

Phân tích bài Mộ Chiều tối của Hồ Chí Minh
Tháng Mười Một 15, 2014 - Category: Lớp 11 - Author: admin

Phan tich bai tho Chieu toi cua Ho Chi Minh – Đề bài: Mộ hay Chiều tối là bài thơ rất hay
trong tập Nhật kí trong tù. Em hãy viết bài văn phân tích bài Mộ của Hồ Chí Minh.
Triết gia Quách Mạt Nhược đã ca ngợi: “Tập thơ Nhật kí trong tù có những bài thơ hay hơn cả thơ
Đường, thơ Tống ngày xưa” và bài thơ Mộ (Chiều tối) là một bài thơ như thế. Bài thơ được sáng tác
trong hoàn cảnh Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam và đầy đọa vô cùng cực khổ, bài
thơ Mộ là một trong những bài thơ tuyệt tác được Người sáng tác trong thời gian đầu mới bị bắt
giam.
Bài thơ thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, cả bài thơ gồm bốn câu với hai mươi tám chữ nhưng rất cô
đọng và hàm xúc qua đó thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh trong những ngày tháng tù đày.
Hai câu thơ đầu là cảm hứng của thi sĩ về bức tranh thiên nhiên núi rừng lúc chiều tối tại Quảng Tây
– Trung Quốc. Hai câu thơ sau miêu tả cảnh sinh hoạt của những người dân lao động nơi núi rừng.


Mặc dù phải chịu cảnh chuyển lao suốt một ngày trời, bị đày đọa trong mưa nắng, đói khổ và tương
lai phía trước lại là một nhà giam mới đầy những cực khổ nhưng tâm hồn thi sĩ vẫn giao hòa với
thiên nhiên tức cảnh sinh tình:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
(“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”)
Mở đầu bài thơ là hình ảnh cánh chim chiều đang bay chậm vì “mỏi” để về rừng tìm chốn ngủ sau
mọt ngày kiếm ăn vất vả. Trước hết đây là câu thơ tả cảnh trời chiều, có lẽ phải rất cao rộng trong
xanh lồng lộng thì ánh mắt của nhà thơ mới có thể nhìn rõ cánh chim như vậy. Với phép tu từ nhân
hóa thi sĩ đã thổi hồn mình vào cánh chim chiều qua đó tả được cảnh bầu trời êm đềm và tư thế ung
dung thanh thản ngẩng cao đầu vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã để hòa tâm hồn vào thiên nhiên.
Không những vậy, nó còn cho thấy tình yêu thiên nhiên say đắm của người thi sĩ như có sự đồng
cảm với cánh chim nhỏ bé và khát vọng tự do gửi theo cánh chim chiều bay lượn mênh mông trên
bầu trời cùng ước nguyện được trở về mái ấm của mình là đất nước Việt Nam thân yêu nơi có đồng


bào, đồng chí thân yêu. Khi cánh chim chiều bay về tổ ánh mắt nhà thơ tiếp tục dâng cao và thích
thú ngắm áng mây lững lờ trôi nhẹ điểm tô cho bầu trời chiều thêm đẹp và sinh động. Hình ảnh này
đậm chất cổ điển bởi là hình ảnh truyền thống trong thơ xưa. Lí Bạch có câu thơ: “Cô vân độc khứ
nhàn” còn Thôi Hiệu thì có: “Ngàn năm mấy trắng bay chơi vơi”. Người xưa thường mượn hình ảnh
“mây” để gửi quan niệm sống ẩn dật nhàn tản, nhưng ở bài thơ này có lẽ Bác Hồ chỉ dùng mây để
tả cảnh. Trong nguyên tác người nhân hóa mây biết cô đơn chứng tỏ tâm hồn con người với thiên
nhiên lại giao hòa, giao cảm. Một lần nữa lại tô đậm vẻ đẹp hiện đại của câu thơ thể hiện chất thép
của người chiến sĩ cách mạng – luôn ung dung thanh thản, đồng thời tô đậm thêm tình yêu thiên
nhiên say đắm và khát vọng tự do.
Nếu hai câu thơ đầu kín đáo thể hiện thời gian trôi theo cánh chim bay và chòm mây lơ lửng đi từ
chiều đến tối, thì ở hai câu thơ cuối ánh mắt thi sĩ trở lại tầng thấp nơi rừng núi, ngỡ ngàng gặp bức
tranh sinh hoạt của con người:
“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng”
(“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”)
Câu thơ giản dị như một thông báo, đồng thời lại dùng một từ địa phương “bao túc” nhưng vẫn ánh
lên vẻ đẹp bởi từ thiếu nữ gợi sự trẻ trung, hồn nhiên, trong sáng và khỏe khoắn của người con gái
lao động nơi xóm núi. Phần dịch thơ dịch là “cô em” chưa thực sự sát với nguyên tác của bài thơ.
Phép điệp ngữ và câu thơ vắt dòng “ma bao túc – bao túc ma hoàn” làm nổi bật âm hưởng nhịp
điệu câu thơ nhanh, mạnh, hài hòa đồng thời tô đậm sự trẻ trung khỏe khoắn, duyên dáng uyển


chuyển trong công việc của người thiếu nữ, gợi người đọc liên tưởng đến thời gian nối tiếp trôi theo
cánh chim chiều, áng mây trời và trôi theo vòng quay của cối xay. Khi xay hết ngô thì hình ảnh “lò
than” bỗng “rực rỡ” tỏa sáng rực rỡ. Thế mà câu thơ dịch lại đưa từ “tối” vào câu thơ thứ ba, như là
một sự thừa thãi vừa làm lộ ý thơ, vừa không thấy hết được tài năng thơ của tác giả. Trong thơ của
Hồ Chí Minh hình tượng thơ luôn đi theo một quy luật từ tối đến sáng, từ lãnh lẽo đến ấm áp, từ cô
đơn đến quây quần vui vẻ, qua đó làm nổi bật tư tưởng lạc quan cách mạng luôn vượt lên hoàn
cảnh nghiệt ngã để hướng tới tương lai tươi sáng.

Hình ảnh “lò than hồng” làm sáng rực khuôn mặt người thiếu nữ xay ngô làm ấm áp trái tim người
chiến sĩ, và có lẽ làm rạng rỡ muôn đời tâm hồn người đọc để mãi mãi cảm phục vị lãnh tụ vĩ đại
kính yêu trong hoàn cảnh chuyển lao vô cùng nghiệt ngã ấy vẫn mở rộng trái tim để chia sẻ nỗi vất
vả với những kiếp người lao động và niềm vui của họ quay quần bên bữa ăn chiều bên lò than rực
hồng ấm áp, sự ấm áp ấy có lẽ sẽ theo bước chân Người trên hành trình gian khổ làm vơi hết sự tối
tăm lãnh lẽo cô đơn. Từ “hồng” ở đây có lẽ không lặp lại lần thứ hai trong thơ ca – một từ thôi mà đủ
sức cân lại hai mươi bẩy từ còn lại, màu hồng đó như ẩn dụ để chỉ màu hồng của những chiến
thắng cách mạng. Trong thơ xưa có rất nhiều bài thơ có cảnh chuyển lao như thế và người bị
chuyển lao thường có tâm trạng cô đơn, tủi thân, chạnh lòng vậy mà trong cả bốn câu thơ không có
một từ nào than thân mà chỉ thấy một bức tranh tả cảnh thiên nhiên thoáng đãng, êm ả và một bức
tranh tả cảnh sinh hoạt bình dị mà ấm áp.
Bài thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên đồng thời là khát vọng tự do của Hồ Chí Minh, Bác phải có một
tâm hồn chất thép và mênh mông chất tình, tâm hồn chiến sĩ hòa hợp vào tâm hồn thi sĩ, chất cổ
điển hòa vào chất hiện đại thì mới có thể cho ra đời một thi phẩm tuyệt tác như thế.
Theo: Ngọ Thị Quỳnh



×