Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA VIỆT NAM KHI TRỞ THÀNH NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 79 trang )

LIÊN HỢP QUỐC

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

LIÊN MINH CHÂU ÂU

TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ
CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CỦA VIỆT NAM KHI TRỞ THÀNH
NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH
TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CHO VIỆT NAM:
ĐÁP ỨNG CÁC THÁCH THỨC MỚI

Do các cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam, Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam
và Bộ Kế hoạch và Đầu tư ấn hành

Hà Nội, tháng 12 năm 2014


Ấn phẩm này được xuất bản bởi Chương trình Hỗ trợ Đối thoại Chiến lược Việt Nam – EU do Liên minh
châu Âu tài trợ.
Ấn phẩm này thể hiện quan điểm của các tác giả và dưới bất kỳ phương thức nào, những nội dung này
cũng không được xem là phản ánh quan điểm của Liên Hợp quốc và Phái đoàn Liên minh châu Âu tại
Việt Nam.


TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN PHỤC VỤ
CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
CỦA VIỆT NAM KHI TRỞ THÀNH
NƯỚC THU NHẬP TRUNG BÌNH
TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CHO VIỆT NAM:


ĐÁP ỨNG CÁC THÁCH THỨC MỚI



Lời tựa
Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu nghiên cứu
quan trọng về Tài chính phát triển phục vụ
các mục tiêu phát triển bền vững của Việt
Nam khi trở thành nước có thu nhập trung
bình. Nghiên cứu này là kết quả hợp tác chung
giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, Liên
hợp quốc (UN) và Liên minh châu Âu (EU),
được thực hiện trong giai đoạn 2013 - 2014 với
sự hỗ trợ từ Quỹ Hiệu quả Phát triển khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương của tổ chức UNDP
(AP-DEF) và từ Phái đoàn Liên minh châu Âu
tại Việt Nam thông qua Chương trình Hỗ trợ
Đối thoại Chiến lược Việt Nam - EU.
Trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực phát
triển kinh tế - xã hội và xoá đói, giảm nghèo.
Nguồn vốn ODA đáng kể dành cho Việt Nam
cùng sự hỗ trợ mạnh mẽ của cộng đồng quốc
tế đối với chính sách phát triển và cải cách ở
Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào những
thành tựu này. Nhờ phát triển bền vững và các
chính sách được thực hiện thành công, Việt
Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình
vào năm 2010 với bối cảnh phát triển chứng
kiến sự đổi thay nhanh chóng. Ngày nay, việc

huy động nguồn vốn ODA và các khoản vay
kém ưu đãi ở Việt Nam đóng một vai trò khác.
Để tránh cái bẫy thu nhập trung bình và tạo
ra những bước đột phá cần thiết nhằm phát
triển hơn nữa, Việt Nam đang theo đuổi những
cơ hội mới như các nguồn tài chính phát triển
khác từ khu vực tư nhân (đầu tư trực tiếp nước

ngoài và đầu tư trong nước), tăng cường hợp
tác Nam - Nam và hợp tác khu vực. Việt Nam
cũng đã nỗ lực để hiện đại hóa hệ thống quản
lý tài chính công, đặc biệt hệ thống thuế, để tối
ưu hóa khung khổ thu chi ngân sách nhà nước.
Nghiên cứu này góp phần nâng cao nhận
thức về vai trò của các nguồn tài chính phát
triển trong những năm gần đây. Nghiên cứu
cũng đưa ra những cơ hội và thách thức của
tài chính phát triển để hoàn thiện các chính
sách và định hướng chiến lược trong tương lai
của Việt Nam. Cụ thể hơn, những chính sách
và định hướng này sẽ được thể chế hóa thành
khuôn khổ pháp lý hiệu quả hơn, điển hình như
việc thông qua Luật Đầu tư công vào tháng 6
năm nay và hiện đang tiến hành sửa đổi, bổ
sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và Luật
Ngân sách Nhà nước.
Các kết quả nghiên cứu hy vọng sẽ cung cấp
các thông tin, dữ liệu, phân tích hữu ích, kịp thời
cùng những khuyến nghị có giá trị để hỗ trợ việc
chuẩn bị xây dựng Kế hoạch Phát triển kinh tế

- xã hội thời kỳ 2016 - 2020 và định hướng cho
việc thảo luận cách thức thực hiện các Mục tiêu
Phát triển Bền vững của thế giới ở cấp quốc
gia. Nghiên cứu này cũng sẽ đóng góp vào các
đối thoại chính sách hiện nay giữa Chính phủ
Việt Nam và các đối tác phát triển trong khuôn
khổ chương trình hợp tác phát triển tại Việt Nam
trong bối cảnh mới.
Hà Nội, ngày

tháng 11 năm 2014

Nguyễn Chí Dũng

Pratibha Mehta

Franz Jessen

Thứ trưởng
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Việt Nam

Điều phối viên thường trú
Liên Hợp Quốc
tại Việt Nam

Đại sứ/Trưởng Phái đoàn
Liên minh châu Âu
tại Việt Nam


Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

V


Lời cảm ơn
Nghiên cứu này là sản phẩm của sự hợp tác chung giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, Liên
hợp quốc và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam. Chúng tôi muốn bày tỏ sự cảm ơn sâu
sắc đến hai chuyên gia tư vấn là Ông Marcus Cox và Bà Trần Thị Hạnh về những nỗ lực của họ để
hoàn thành nghiên cứu này.
Nghiên cứu này được thực hiện nhờ sự đóng góp tài chính của Chính phủ Ôx-trây-li-a và Quỹ Hiệu
quả Phát triển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (AP-DEF). Chúng tôi cũng đánh giá cao sự tham
gia, đóng góp ý kiến của các cơ quan Chính phủ và các đối tác phát triển tại Việt Nam được tham
vấn trong quá trình thực hiện nghiên cứu này.

VI

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


Tóm tắt
Việt Nam đã bước vào một giai đoạn mới đầy thách thức trong quá trình phát triển
đất nước. Sau hai thập kỷ phát triển nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo đã chững lại. Chính phủ Việt Nam (CPVN) đã nhận rõ sự cần thiết phải
đưa ra các chiến lược mới để duy trì tốc độ tăng trưởng khi trở thành một nước
có thu nhập trung bình (MIC). Việt Nam cũng đang bước vào một giai đoạn mới
trong lĩnh vực hợp tác phát triển. Trong suốt thập kỷ qua, Việt Nam là một trong
những quốc gia nhận được nguồn vốn ODA nhiều nhất trên thế giới. Tuy nhiên,

các nguồn vốn khác đã tăng trưởng nhanh chóng hơn nhiều, trong đó bao gồm
các nguồn thu trong nước, vay nợ công và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khiến
cho vốn ODA ngày càng giữ vị trí khiêm tốn trong bức tranh tổng thể về tài chính
phát triển. Do hiện nay Việt Nam đã trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình,
các dòng vốn ODA sẽ giảm đi và các điều khoản trở nên kém ưu đãi hơn.
Báo cáo đánh giá về tài chính và hỗ trợ phát
triển (DFAA) này được thực hiện dưới sự chỉ đạo
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với sự hỗ trợ của
UNDP và Liên minh Châu Âu (EU). Báo cáo đã
đánh giá tổng quan các nguồn tài chính phát
triển khác nhau mà Việt Nam có thể tiếp cận,
xem xét xu hướng phát triển của các nguồn đó
trong những năm sắp tới và lộ trình có thể xảy
ra trong tương lai. Những hạn chế về mặt pháp
luật và thể chế được đánh giá trên phương diện
vận động và sử dụng hiệu quả nguồn tài chính.
Báo cáo đánh giá này đưa ra khuyến nghị cho
Chính phủ Việt Nam và các đối tác phát triển
về những phương án cải thiện tính bổ sung của
các nguồn tài chính phát triển khác nhau theo
đúng trọng tâm của chương trình Đối tác Busan
về Hợp tác Phát triển Hiệu quả và Văn kiện Đối
tác Việt Nam.

Một giai đoạn mới đầy thách thức trong
quá trình phát triển của Việt Nam
Trong giai đoạn giữa thời điểm bắt đầu thực
hiện cải cách kinh tế vào những năm 1980 và
thời điểm bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu vào năm 2007, Việt Nam là một trong

những nền kinh tế năng động nhất trong số
các quốc gia đang phát triển. Tỷ lệ tăng trưởng
trung bình được duy trì ở mức trên 7% trong
suốt 20 năm, giúp quy mô nền kinh tế tăng lên

tới 4 lần. Tỉ lệ nghèo giảm trung bình 2,9% mỗi
năm, từ 58% xuống chỉ còn 14,2% vào năm
2010 hay 20,7% sau khi điều chỉnh theo chuẩn
nghèo mới. Ở thời điểm giữa những năm 2000,
Việt Nam nhận được những nguồn lực kỷ lục từ
nước ngoài đổ vào dưới cả hai hình thức FDI và
ODA, tạo nguồn vốn cho hoạt động đầu tư với
mức tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Điều
này đã giúp Việt Nam mở rộng cơ sở hạ tầng và
dịch vụ tới đại đa số người dân.
Từ năm 2007, tỉ lệ tăng trưởng của Việt Nam
bị chững lại do hậu quả của khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Tuy nhiên, không giống như
một số quốc gia Châu Á khác, tỉ lệ tăng trưởng
của Việt Nam vẫn chưa quay trở lại được các
mức từ thời trước năm 2007. Có nhiều ý kiến
quan ngại rằng Việt Nam có thể đang chạm
đến giới hạn của mô hình tăng trưởng hiện tại.
Các thách thức trong việc chuyển sang một mô
hình tăng trưởng mới bao gồm:

ŸŸ Hoàn

thiện việc chuyển đổi nền kinh tế:
mặc dù có khoảng một nửa số doanh

nghiệp nhà nước của Việt Nam đã được tái
cơ cấu thông qua việc cổ phần hoá nhưng
những trụ cột quan trọng nhất của nền
kinh tế vẫn do các doanh nghiệp nhà nước
kiểm soát, đây là cách làm không hiệu quả
và không khuyến khích được sự phát triển
của khu vực tư nhân trong nước;

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

VII


ŸŸ Nâng cao chất lượng vốn FDI: mặc dù vốn

FDI vào Việt Nam đã tăng trưởng nhanh
chóng vào những năm 2000 nhưng chủ
yếu chỉ là những doanh nghiệp lắp ráp có
giá trị gia tăng thấp, dù tạo được việc làm
nhưng không mang lại nhiều lợi ích lớn.
Nếu không bắt đầu thu hút được các khoản
đầu tư hiệu quả hơn, Việt Nam có nguy cơ
sẽ bắt đầu phải chịu thua trước những nền
kinh tế có chi phí nhân công rẻ hơn;

ŸŸ Kiểm soát tình trạng bất bình đẳng: tăng

trưởng kinh tế của Việt Nam đang ít dần
định hướng vì người nghèo, hệ quả là sự

nghèo đói và bất bình đẳng trở nên khó
khắc phục hơn. Ngoài ra, quá trình ‘xã hội
hoá’ cũng đang chuyển nhiều gánh nặng
chi phí cho các dịch vụ công sang người
dân, ngày càng tạo thêm gánh nặng cho
những gia đình nghèo nhất;

ŸŸ Những hạn chế về kinh tế vĩ mô: sau cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu, Chính phủ
Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua các biện pháp kích thích
mạnh mẽ, trong đó có việc tăng vọt đầu tư
công, để rồi lại tạo ra một thời kỳ bất ổn
kinh tế vĩ mô.

Tổng quan các luồng tài chính phát triển
của Việt Nam
Các nguồn tài chính phát triển mà Chính phủ có
thể trực tiếp xây dựng chương trình được gồm:

ŸŸ Các

nguồn thu ngân sách nhà nước kể
từ 2006 đã tăng gần gấp ba lần lên mức
800,000 tỉ đồng (tương đương 39 tỉ đôla), tuy
nhiên, tính theo giá trị thực tế thì kể từ 2010
nguồn thu này đã giảm 9%. Tỉ lệ thu ngân
sách trên GDP đã giảm từ mức gần 30% vào
giữa những năm 2000 xuống mức 22.8% vào

năm 2012, do hệ quả của suy thoái kinh tế,
miễn giảm thuế cho doanh nghiệp và giảm
thu từ dầu mỏ. Chính phủ đã nhận ra rằng,
thuế doanh nghiệp cao đang ảnh hưởng đến
sức cạnh tranh và do đó đã có kế hoạch cắt
giảm. Vì vậy, trong tương lai các nguồn thu
từ thuế sẽ tăng trưởng rất khiêm tốn.

ŸŸ Vay nợ công kể từ 2006 đã tăng trung bình

30% mỗi năm, chủ yếu thông qua phát
hành trái phiếu trong nước để hỗ trợ các
biện pháp kích thích kinh tế. Theo tiêu
chuẩn quốc tế thì nợ của Việt Nam vẫn ở
mức khiêm tốn và vẫn còn dư địa để tăng
vay nợ lên mức giới hạn tổng nợ theo đề
xuất của Chính phủ là 65% GDP.

VIII

ŸŸ Vốn ODA đã tăng mạnh vào năm 2009 khi

các ngân hàng phát triển lớn tăng mức cho
vay để ứng phó trước cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu. Các mức cho vay này vẫn
được duy trì với mức giải ngân hàng năm
gần 4 tỉ đô-la. Dự kiến cho đến năm 2020
vốn ODA sẽ chưa suy giảm, mặc dù càng
ngày sẽ càng có ít các điều khoản ưu đãi
hơn. Việt Nam phải đối mặt với một số lựa

chọn về chính sách trong việc làm thế nào
để sử dụng nguồn tài chính không còn được
ưu đãi như trước, đồng thời phải thận trọng
nhằm tránh làm mất đi sự hỗ trợ cho các lĩnh
vực xã hội. Tỉ lệ giải ngân vốn ODA của Việt
Nam đã được cải thiện, từ mức chỉ 25% số
vốn cam kết vào năm 2010 lên mức 40%
năm 2012. Tuy nhiên, vẫn còn trên 20 tỉ đôla vốn ODA cam kết vẫn chưa được sử dụng,
chủ yếu do những nút thắt trong quá trình
thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng lớn.

Với những dòng tiền gia tăng nhanh chóng này
trong thập kỷ vừa qua, Chính phủ Việt Nam đã có
thể tăng mức chi tiêu công lên gấp 2,5 lần từ năm
2006 đến 2013 theo giá danh nghĩa. Mức chi cao
này đã giúp mở rộng các dịch vụ và cơ sở hạ tầng
đến đa số người dân. Tỉ lệ điện khí hoá nông thôn
từ 14% năm 1993 đã tăng lên gần 100% năm
2010, với số lượng các tuyến đường được quy
hoạch đã tăng gấp 4 lần trong thập kỷ vừa qua và
tỉ lệ hộ gia đình được sử dụng nước máy đã tăng
từ 12% năm 2002 lên 76% năm 2009.
Tuy nhiên, do một số khuyết điểm nghiêm trọng
trong quá trình lập kế hoạch và xây dựng ngân
sách, Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số thách
thức lớn trong việc sử dụng nguồn tài chính phát
triển một cách hiệu quả. Dự báo về ngân sách
còn yếu đã ảnh hưởng đến việc áp dụng khung
chi tiêu trung hạn. Với hơn một nửa ngân sách
được phân cấp cho các chính quyền địa phương

quản lý, nhưng nhiệm vụ thu, chi ngân sách giữa
ba cấp địa phương không rõ và nhiều trách nhiệm
chi chưa được cấp vốn đầy đủ. Trong khuôn khổ
ngân sách đầu tư, yêu cầu các dự án đầu tư phải
tuân thủ với kế hoạch phát triển KTXH không rõ.
Cạnh tranh giữa các tỉnh cộng với quy chế thẩm
định hiệu lực yếu đã dẫn đến đầu tư kém hiệu
quả cả về kinh tế và kỹ thuật. 63 tỉnh thành của
Việt Nam quá nhỏ để có thể quy hoạch hạ tầng
hiệu quả, dẫn tới việc xây dựng tràn lan các sân
bay, cảng nước sâu và các khu công nghiệp vượt
quá nhu cầu của địa phương. Có quá nhiều dự án
được khởi công thiếu nguồn vốn để hoàn thành.
Chính phủ Việt Nam đã nhận ra những thách thức
này và hiện đang chuẩn bị ban hành các luật mới
về ngân sách nhà nước và đầu tư công.

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


Bên ngoài khu vực nhà nước, các
luồng tài chính phát triển quan trọng
nhất gồm:

ŸŸ Các khoản cho vay từ khu vực ngân hàng

của Việt Nam từ 2006 đến 2012 đã tăng 5
lần, trong khi tổng tín dụng tăng từ mức 39%
GDP năm 2000 lên 115% năm 2010, nhưng

lại giảm xuống còn 84% năm 2013. Từ khi
Chính phủ thực hiện các giải pháp kiểm soát
lạm phát, tăng trưởng tín dụng đã sụt giảm
mạnh, gây tác động lớn đến khu vực tư nhân.
Các doanh nghiệp nhà nước được ưu đãi
tiếp cận vốn do họ có nhiều đất đai có thể
sử dụng làm thế chấp và các mạng lưới sở
hữu chéo phức tạp giữa các doanh nghiệp
nhà nước và các đơn vị tài chính. Các doanh
nghiệp tư nhân trong nước chủ yếu ở quy
mô vừa và nhỏ hoặc là doanh nghiệp một
chủ, bị hạn chế trong việc tiếp cận nguồn
vốn thương mại. Tuy vậy, tổng đầu tư của
các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đã tăng
nhanh hơn so với cả các doanh nghiệp trong
nước và các doanh nghiệp FDI.

ŸŸ Đầu

tư trực tiếp nước ngoài đã có những
biến động lớn trong thập kỷ qua, tăng vọt
vào năm 2008 trong thời kỳ bùng nổ bất
động sản của VN và sau đó chững lại tính
theo giá trị thực tế. Gần đây đã có những
dấu hiệu tích cực cho thấy vốn FDI đang
tăng trở lại, trong đó có một số khoản đầu
tư vào các ngành công nghệ cao. Tuy
nhiên, hầu hết vốn FDI vẫn chỉ rót vào các
hoạt động lắp ráp đơn giản, có tạo công ăn
việc làm không đòi hỏi tay nghề cao, nhưng

không mang lại nhiều cơ hội cho khu vực tư
nhân trong nước. Năm 2013, Chính phủ đã
thông qua chiến lược đầu tiên trong việc thu
hút nguồn vốn FDI chất lượng cao.

ŸŸ Các tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế

cũng là những tác nhân quan trọng trong
lĩnh vực phát triển ở VN, cung cấp viện trợ
khoảng 300 triệu đô-la mỗi năm.

ŸŸ Kiều hối gửi về từ người Việt ở nước ngoài

đạt trên 8 tỉ đô-la mỗi năm, gần bằng giá
trị vốn FDI và gấp đôi quy mô vốn ODA.

Tổng quan các nguồn tài chính phát triển của Việt Nam, 2006-2012, theo giá 2010
700,000

600,000

Thu ngân sách nhà nước
Vay chính phủ (trừ vốn vay
ODA và OOF)

500,000

ODA và OOF

400,000


Vốn đầu tư từ DNNN
Vốn đầu tư từ khu vực tư nhân

300,000
FDI
Kiều hối

200,000

Viện trợ từ các tổ chức phi chính phủ
quốc tế

100,000

0
2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012


Nguồn: Tự tính từ số liệu của Bộ TC, TCTK, NHNNVN, Trung tâm Nguồn Phi chính phủ, OECD

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

IX


Kết luận và khuyến nghị
Trước khủng hoảng tài chính toàn cầu, các
nguồn tài chính phát triển của Việt Nam đã gia
tăng nhanh chóng suốt một thời gian dài, giúp
cho Việt Nam duy trì được các mức đầu tư rất
cao và đạt được một thời kỳ kéo dài với mức
tăng trưởng và tỉ lệ giảm nghèo cao. Tuy nhiên,
đầu tư cao không còn tạo ra được tăng trưởng
ở mức độ tương xứng như trước nữa, và chính
phủ Việt Nam đã phải kiềm chế đầu tư để duy
trì ổn định kinh tế vĩ mô. Do đó, Việt Nam sẽ
bước sang giai đoạn khi mà các luồng tài chính
phát triển sẽ bị hạn chế nhiều so với trước đây.
Điều đó đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả đầu
tư thông qua áp dụng cách tiếp cận mang tính
chiến lược hơn trong sử dụng đầu tư công và
chú trọng hơn đến cách thức sử dụng đầu tư
công và các giải pháp chính sách để thu hút
các nguồn tài chính phát triển khác.
Đây là một chương trình nghị sự lớn, nhưng có
một số thách thức nổi bật như sau:
1. Nâng cao chất lượng chi tiêu và đầu tư

công: bao gồm áp dụng cách tiếp cận lập
kế hoạch ngân sách trung hạn, gắn chi
thường xuyên và chi đầu tư với các ưu tiên
phát triển của quốc gia; khắc phục những
nhược điểm của hệ thống phân cấp tài
chính hiện nay; chuyển việc quy hoạch đầu
tư hạ tầng chiến lược lên cấp quốc gia hoặc
khu vực; đồng thời áp dụng cách tiếp cận
lập kế hoạch phân bổ nguồn lực dựa trên
kết quả.
2. Duy trì tính bình đẳng trong cung cấp dịch
vụ xã hội: đánh giá lại quá trình ‘xã hội
hoá’ việc cung cấp dịch vụ thông qua xây
dựng kế hoạch tài chính cho toàn ngành,
quy định rõ ràng hơn về sự tham gia của
khu vực tư nhân và minh bạch hơn về các
khoản đóng góp của người dân.
3. Thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng
thông qua hoàn thiện khung pháp lý về đối
tác công – tư (PPP) và thành lập Bộ phận
PPP tại một cơ quan ở cấp quốc gia để hỗ
trợ kỹ thuật cho các chủ dự án về thiết kế và
đàm phán đối tác công – tư.
4. Nâng cao thu ngân sách từ FDI: Việt Nam
cần có đủ năng lực thiết kế các gói can thiệp
để hỗ trợ những ngành hoặc thị trường cụ
thể, như cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề và
miễn giảm thuế. Điều này đồng nghĩa với
việc thành lập các cơ quan nhà nước ở cấp


X

trung ương có khả năng tương tác với các
nhà đầu tư nước ngoài và điều phối các
cơ quan nhà nước và các cấp thẩm quyền
khác nhau.
5. Huy động tài chính để phát triển khu vực tư
nhân: Chính phủ Việt Nam cần quan tâm
nhiều hơn tới nhu cầu của khu vực tư nhân
trong nước, cụ thể là thông qua việc giúp đỡ
các doanh nghiệp quy mô vừa mở rộng quy
mô để tiết kiệm chi phí để có thể trở thành
nhà cung cấp cho các doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài và tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu. Điều này đồng nghĩa với việc phải
tăng khả năng tiếp cận đất đai và tài chính
của các doanh nghiệp đó.
Chúng tôi cũng đề xuất năm vai trò quan trọng
có thể của khu vực viện trợ phát triển nhằm góp
phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả phát triển
trong tài chính phát triển của Việt Nam.
1. Xúc tiến việc lập chính sách dựa trên bằng
chứng và quản lý theo kết quả thông qua
việc tạo lập bằng chứng, chia sẻ kiến thức,
tham gia đánh giá chung và đối thoại chính
sách, củng cố hệ thống thống kê quốc gia,
tổ chức nâng cao năng lực cho các cơ quan
nhà nước về hoạch định và lập chính sách,
đầu tư vào các hệ thống giám sát và tăng
cường phản hồi của cộng đồng về các dịch

vụ công;
2. Cải thiện chất lượng chi tiêu và đầu tư công
thông qua hỗ trợ cải cách quản lý tài chính
công và ngân sách nhà nước, đồng thời hỗ
trợ áp dụng cách tiếp cận phân bổ ngân
sách theo kết quả;
3. Hỗ trợ mô hình đối tác công – tư, trong đó
có việc hỗ trợ xây dựng khuôn khổ pháp
luật và các năng lực kỹ thuật cần thiết và
hỗ trợ tài chính;
4. Thúc đẩy tính bình đẳng trong cung cấp
dịch vụ xã hội bằng cách giúp Chính phủ
xây dựng các kế hoạch tài chính ngành bao
gồm ngân sách quốc gia, đầu tư của khu
vực tư nhân, đóng góp của người dân và
ODA;
5. Phát triển quan hệ đối tác về tri thức trong
các ngành và thị trường cụ thể bằng cách
kết nối các cơ quan nhà nước với các đối
tác ở quốc gia tài trợ và giúp Chính phủ xây
dựng các chiến lược phát triển công nghiệp
theo nhu cầu;

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


Cuối cùng, chúng tôi đưa ra một số đề xuất có
thể cải thiện các nguyên tắc và bộ máy quản lý
quan hệ đối tác phát triển của Việt Nam.

1. Xây dựng các chiến lược tài chính ngành:
Để sử dụng tốt nhất thời gian còn được tài
trợ ODA, các bộ ngành nên xây dựng chiến
lược tài trợ phát triển ngành xác định các
phương thức sử dụng tốt nhất nguồn vốn
ODA bên cạnh các nguồn phát triển khác.
2. Phân công lao động thay đổi: Nhiều nhà tài
trợ song phương ở Việt Nam sẽ không có
nhân sự và động cơ tham gia tích cực vào
các quá trình điều phối viện trợ hoặc các
sáng kiến chung với các nhà tài trợ khác
nữa. Các đối tác đa phương (các ngân hàng
phát triển, EU và các tổ chức UN) sẽ chủ trì
các đối thoại chính sách ở cấp quốc gia. Các
đối tác đa phương có thể nên thống nhất
phân công lao động tổng thể về đối thoại
chính sách và xây dựng các năng lực khác
nhau để tham gia vào các chủ đề cụ thể.

3. Hợp tác dựa trên quan hệ đối tác: Một số
nhà tài trợ song phương ở Việt Nam sẽ
chuyển từ hỗ trợ theo ngành, theo kiểu
truyển thống sang trọng tâm mới xây dựng
các quan hệ thương mại cùng có lợi. Điều
đó thường cũng gắn với việc chuyển từ hỗ
trợ tài chính sang các mô hình tài trợ mới
dựa trên quan hệ đối tác giữa các cơ quan
nhà nước, các tổ chức nghiên cứu, các tổ
chức phi chính phủ và các công ty ở Việt
Nam và nước tài trợ. Kiểu hợp tác dựa

trên quan hệ đối tác này còn mới và chưa
được thử nghiệm. Thay vì phải điều phối ở
cấp quốc gia, nó đòi hỏi phải có các luồng
thông tin tốt hơn để các cơ quan Việt Nam
có thể lựa chọn kiểu hỗ trợ nào phù hợp với
nhu cầu của họ nhất.

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

XI


Từ viết tắt
ADB

Ngân hàng Phát triển châu Á

BOO

Xây dựng- Vận hành- Sở hữu

BOT

Xây dựng- Vận hành- Chuyển giao

Bộ NNPTNT
Bộ KHĐT
Bộ TC
Bộ TNMT


Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ Tài chính
Bộ Tài nguyên và Môi trường

CPVN

Chính phủ Việt Nam

DFAA

Đánh giá Viện trợ và Tài chính phát triển

DFID
DNNN

Bộ Phát triển Quốc tế
Doanh nghiệp nhà nước

EU

Cộng đồng Châu Âu

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội


GoV

Chính phủ Việt Nam

HIV/AIDS
IBRD
INGOs
JAHR
JICA
KHPTKTXH
MIC
MTEF
MTIP

Triệu chứng thiếu khả năng đề khảng/nhiễm vi rút làm mất khả năng đề khác
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế
Các tổ chức phi chính phủ quốc tế
Đánh giá Y tế chung hàng năm
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
Nước có thu nhập trung bình
Khung chi tiêu trung hạn
Kế hoạch đầu tư trung hạn

NHNNVN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NTP


Chương trình mục tiêu quốc gia

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

OECD

Tổ chức Phát triển và Hợp tác Kinh tế

OOF

Các luồng vốn chính thức khác

OOP

Tiền túi

ORC

Vốn vay thông thường

PEPFAR
PIP
PPP
TCTK
VND
XII


Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn

Kế hoạch hỗ trợ khẩn cấp phòng chống AIDs của Hoa Kỳ
Kế hoạch đầu tư công
Quan hệ Đối tác Công- Tư
Tổng cục Thống kê
Đồng Việt Nam

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


Mục lục
Preface........................................................................................................................................V
Lời cảm ơn...................................................................................................................................VI
Tóm tắt.......................................................................................................................................VII
Từ viết tắt..................................................................................................................................XII
1. Giới thiệu.................................................................................................................................. 1
1.1. Mục đích........................................................................................................................... 1
1.2. Phạm vi và phương pháp................................................................................................. 2
2. Giai đoạn mới với nhiều thách thức trong phát triển của Việt Nam............... 3
2.1. Hoàn thành chuyển đối kinh tế......................................................................................... 4
2.2. Nâng cao chất lượng của nguồn vốn FDI......................................................................... 6
2.3. Kiểm soát tình trạng bất bình đẳng ................................................................................. 6
2.4. Những khó khăn về kinh tế vĩ mô:.................................................................................... 8
2.5. Những thử thách đối với sự phát triển trong tương lai của Việt Nam................................ 9
3. Mô tả các luồng tài chính phát triển của Việt Nam ........................................... 10
3.1. Các nguồn tài chính phát triển trong ngân sách nhà nước............................................. 10
3.2. Tài chính phát triển ngoài nhà nước .............................................................................. 27
4. Triển vọng ngành............................................................................................................... 33

4.1. Ngành y tế và việc ‘xã hội hóa’cung cấp dịch vụ .......................................................... 33
4.2. Quản lý quá trình chuyển đổi trong tài trợ cho phòng chống HIV/AIDS ........................ 36
4.3. Tài trợ cho cơ sở hạ tầng thông qua các quan hệ đối tác công - tư .............................. 38
5. Kết luận và khuyến nghị................................................................................................. 40
5.1. Phân tích luồng tài chính phát triển tại Việt Nam........................................................... 40
5.2. Hướng tới một chiến lược tài chính phát triển toàn diện ................................................ 44
5.3. Vai trò của hỗ trợ phát triển . ......................................................................................... 46
5.4. Tổ chức quan hệ đối tác phát triển................................................................................. 48
Phụ lục 1: Nghiên cứu tình huống về các phương án tài trợ
cho chương trình phòng chống HIV-AIDS .....................................................................51
Phụ lục 2: Tài chính phát triển tại tỉnh Quảng Nam . ............................................... 58

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

XIII



1. Giới thiệu
1.1. Mục đích
Việt Nam đang bước vào một giai đoạn thử thách mới trong tiến trình phát triển
của quốc gia. Sau hai thập kỷ với những tiến bộ đáng kể đã đưa Việt Nam vào
trong nhóm các nước có mức thu nhập trung bình, tốc độ tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo đã giảm đi. Để khôi phục lại động năng, Việt Nam cần phải chuyển
đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào chi phí lao động giá rẻ sang mô hình tăng
trưởng dựa trên đổi mới và tăng năng suất. Điều này đòi hỏi phải có một số
chuyển dịch cơ cấu quan trọng trong nền kinh tế cùng với việc tiếp tục đầu tư vào
nguồn nhân lực thông qua việc cải thiện cung cấp dịch vụ.
Việt Nam cũng đang bước vào một giai đoạn

mới của tiến trình hợp tác phát triển. Trải qua
hơn một thập kỷ, Việt Nam đã là một trong
những quốc gia đứng đầu trên thế giới về tiếp
nhận vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA)
với hơn 3 tỷ USD vốn giải ngân mỗi năm, nhờ
sự hưởng ứng nhiệt tình của các nhà tài trợ
trước kết quả phát triển đầy ấn tượng của Việt
Nam và các cam kết mạnh mẽ của Việt Nam
về hiệu quả của viện trợ. Ngoài ra, các nguồn
tài chính khác, bao gồm thu nhập trong nước,
các khoản vay mượn công và nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng đã tăng với tốc
độ còn cao hơn, khiến cho nguồn vốn ODA trở
thành một phần nhỏ hơn trong bức tranh toàn
cảnh về tài chính phát triển. Vấn đề này đặt ra
câu hỏi về vai trò của nguồn vốn ODA trong
việc trợ giúp cho quá trình chuyển đổi sang mô
hình tăng trưởng mới của Việt Nam.
Báo cáo Đánh giá tài chính và hỗ trợ phát triển
(DFAA) này được soạn thảo theo yêu cầu của
Bộ Kế hoạch và Đẩu tư Việt Nam với sự hỗ trợ
từ phía Chương trình Phát triển liên hợp quốc
(UNDP) và Liên minh Châu Âu (EU). Đánh giá
này nhằm mục đích tư vấn cho Chính phủ Việt
Nam và các đối tác phát triển của Chính phủ
về các phương án lựa chọn nhằm cải thiện và
bổ sung giá trị gia tăng của các nguồn vốn tài
chính phát triển khác nhau, trong đó có ODA.
Đánh giá này tiến hành thu thập dữ liệu từ một
loạt các nguồn thông tin về xu thế thay đổi các

mô hình tài trợ phát triển trong những năm gần
đây. Báo cáo này sẽ đánh giá những trở ngại

về mặt chính sách, pháp lý và thể chế đối với
hiệu quả huy động và sử dụng các nguồn tài
chính khác nhau. Qua đó, báo cáo sẽ đưa ra
kiến nghị cho Chính phủ Việt Nam về cách thức
sử dụng các nguồn vốn tài trợ phát triển khác
nhau để chúng có thể bổ sung cho nhau nhiều
hơn cũng như về cách các đối tác phát triển sử
dụng nguồn vốn ODA để tối đa hóa tác động
tổng thể của nguồn tài chính cho phát triển.
Một trong những mục đích của DFAA là hỗ trợ
Việt Nam trong việc thực hiện nguyên tắc cốt
lõi trong quan hệ đối tác vì sự Hợp tác phát
triển hiệu quả Busan, trong đó đòi hỏi phải phải
chuyển trọng tâm từ hiệu quả viện trợ sang một
khái niệm rộng hơn về hiệu quả phát triển. Văn
kiện Busan khuyến khích các nhà tài trợ và các
đối tác “tạo điều kiện, tận dụng và tăng cường
tác động của nhiều loại hình tài chính phát triển
và của các hoạt động phát triển đa dạng, nhằm
đảm bảo rằng những loại hình đa dạng của
hoạt động hợp tác có tác động xúc tác tới phát
triển.”1 Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu ý nghĩa của
nguyên tắc này trong bối cảnh của Việt Nam.

1

“Quan hệ đối tác vì sự Hợp tác phát triển hiệu quả

Busan”, Diễn đàn cấp cao lần thứ tư về Hiệu quả
viện trợ, Busan, Hàn Quốc, 29/11 - 1/12/2011,
đoạn 12.

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

1


1.2. Phạm vi và phương pháp
Nghiên cứu này đánh giá các nguồn tài trợ và
chi tiêu cho phát triển sau đây:

ŸŸ Thu

ngân sách, bao gồm thu từ thuế và
các khoản thu khác;

ŸŸ Các

khoản vay của chính phủ bao gồm
vay trong nước và vay quốc tế;

ŸŸ Nguồn vốn ODA và vay mượn từ các định
chế tài chính quốc tế;

ŸŸ Các dòng vốn tài chính Nam-Nam;
ŸŸ Chi


tiêu của các tổ chức phi chính phủ
nước ngoài (INGO)

ŸŸ Các dòng kiều hối;
ŸŸ Tài trợ đầu tư của khu vực tài chính;
ŸŸ Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nghiên cứu đánh giá này cũng khảo sát tới
mức có thể được về cách thức các dòng vốn
tài trợ phát triển đã thay đổi như thế nào trong
khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2012
và chỉ ra các xu hướng có thể xảy ra trong
tương lai. Nghiên cứu đánh giá sẽ tiến hành rà
soát khung pháp lý, các chính sách và thể chế
liên quan đến từng nguồn vốn tài trợ phát triển,
đồng thời chỉ ra những hạn chế đối với việc huy
động và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đó.
Nghiên cứu đánh giá này được thực hiện ở cấp
quốc gia với việc khảo sát chi tiết hơn tình hình

2

tài chính phát triển trong ngành y tế, việc ‘xã hội
hóa’ cung cấp dịch vụ, sự chuyển dịch theo kế
hoạch từ nguồn tài trợ của các nhà tài trợ cho
các chương trình phòng chống HIV/AIDS và sự
phát triển các quan hệ hợp tác công - tư trong
xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, các chuyên
gia đã phải thực hiện các chuyến công tác thực
địa tại tỉnh Quảng Nam để đánh giá các luồng
tài chính phát triển dưới góc nhìn của tỉnh.

Phương pháp nghiên cứu bao gồm các cuộc
tham vấn rộng rãi giữa các bên liên quan với
các cơ quan của chính phủ, các đối tác phát
triển và các quan sát viên độc lập. Các dữ liệu
chính thức được thu thập từ một loạt các cơ
quan khác nhau của chính phủ (Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước
Việt Nam, Tổng cục Thống kê và các bộ, ngành
khác). Các chính sách, chiến lược và các văn
bản pháp lý của Chính phủ Việt Nam đã được
đưa ra phân tích cùng với các báo cáo nghiên
cứu đã được công bố của các đối tác phát triển.
Từ đó, báo cáo đưa ra những so sánh với kinh
nghiệm của những quốc gia khác mới gần đây
đã bước vào nhóm nước có mức thu nhập trung
bình (MIC) như Inđônêxia, mặc dù kinh nghiệm
của các nước này chưa được tổng kết nhiều.
Cần lưu ý rằng, việc thiếu số liệu và chất lượng
của số liệu đang là vấn đề cố hữu tại Việt Nam.
Mặc dù có các số liệu tổng hợp về hầu hết các
nguồn tài trợ phát triển, nhưng thường thiếu
các số liệu phân theo ngành và vùng. Trong
những lĩnh vực thiếu số liệu, DFAA đưa ra các
đề xuất về cách thức khắc phục tình trạng đó
trong tương lai.

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình



2. Giai đoạn mới với nhiều thách thức
trong phát triển của Việt Nam
Trong giai đoạn kể từ khi khởi động các cuộc cải cách kinh tế vào đầu những năm
1980 cho đến khi bắt đầu cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu diễn ra vào năm 2007,
Việt Nam là một trong số những nền kinh tế phát triển năng động nhất. Nhờ tự do hóa
giá cả, mở cửa cho thông thương quốc tế và cho phép doanh nghiệp tư nhân cạnh
tranh với các doanh nghiệp nhà nước, Việt Nam đã đạt và duy trì được tốc độ tăng
trưởng bình quân trên 7% trong suốt 20 năm, khiến quy mô nền kinh tế tăng lên gấp
4 lần. Tốc độ tăng trưởng nhanh trong khu vực việc làm được trả lương đã làm thay
đổi cuộc sống của người dân Việt Nam. Tỷ lệ nghèo giảm trung bình 2,9% mỗi năm,
từ 58% xuống mức thấp hơn 14,2% trong năm 2010, tính theo chuẩn nghèo chính
thức, mặc dù theo chuẩn nghèo cập nhật của Tổng cục Thống kê – Ngân hàng Thế
giới, tỷ lệ này của năm 2010 là 20,7%.2 Vào giữa những năm 2000, Việt Nam đã tiếp
nhận được một lượng kỷ lục các dòng vốn nước ngoài chảy vào nền kinh tế, bao gồm
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và vốn ODA, theo đó tỷ lệ vốn tài trợ cho đầu tư đạt
trên mức 40% GDP – thuộc hàng cao nhất trên thế giới. Điều này đã cho phép Việt
Nam mở rộng hạ tầng cơ sở cơ bản và phát triển các ngành dịch vụ thiết yếu phục
vụ cho số đông dân cư và cũng đạt được những kết quả to lớn trong phát triển con
người.3 Điều này đã cho phép Việt Nam mở rộng hạ tầng cơ sở cơ bản và phát triển
các ngành dịch vụ thiết yếu phục vụ cho số đông dân cư và cũng đạt được những kết
quả to lớn trong phát triển con người.

Hình 1: So sánh tốc độ tăng trưởng GDP ở các nước châu Á chọn lọc

Nguồn: Cập nhật kinh tế khu vực châu Á và Thái Bình Dương (EAP), tháng 5/2012
2

Ngân hàng Thế giới, “Báo cáo đánh giá nghèo của Việt Nam năm 2012. Khởi đầu tốt nhưng chưa phải đã hoàn
thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam về giảm nghèo và những thách thức mới”, Hà Nội, năm 2012, trang 4.


3

Luân Đôn, D., “Đóng góp và hạn chế của ‘xã hội hóa’: Khía cạnh kinh tế chính trị về các dịch vụ thiết yếu ở Việt
Nam”, UNDP, tháng 5/2013, trang 10

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

3


Mối quan ngại này bắt nguồn từ một số yếu
tố. Tăng trưởng trong quá khứ chủ yếu là nhờ
lực lượng lao động liên tục tăng và quá trính
tái cân bằng của bản thân nền kinh tế từ nông
nghiệp sang các ngành dịch vụ và công nghiệp
với tốc độ tăng năng suất cao hơn so với trước
là 2 và 4 lần.4 Sự chuyển dịch cơ cấu như vậy
hiện đã hết tác dụng. Tăng trưởng trong tương
lai đòi hỏi phải xuất phát từ cải thiện năng suất.
Tuy nhiên, những năm gần đây, mức tăng năng
suất lao động bị chậm lại trong khi đó hiệu quả
sử dụng vốn lại liên tục giảm. Năng suất tổng
các yếu tố (thước đo mức thay đổi công nghệ
của nền kinh tế) đã giảm từ 19,9% vào giữa
thập niên 2000 xuống còn 12,5 % trong giai
đoạn 2007-2010 trong khi đó mức bình quân
của các nước đang phát triển đạt từ 20% đến
30%. Kết quả là, tỷ trọng của tăng trưởng GDP
bắt nguồn từ tăng năng suất đã giảm từ 56%

trong những năm 1991-1995 xuống còn có
8,9% trong những năm 2006-2008.5
Đây là yếu tố then chốt cho đánh giá về tài trợ
phát triển này. Nó hàm ý rằng những vấn đề
hiện nay của Việt Nam không phải là thiếu vốn
tài trợ phát triển mà là những thách thức đang
gia tăng trong cách sử dụng hiệu quả nguồn
vốn này. Thực vậy, Báo cáo Phát triển Việt
Nam 2012 đã đưa ra kết luận như sau: “Nếu
những năm đầu của quá trình chuyển đổi ở Việt
Nam được đánh dấu bằng ‘tăng trưởng với các
nguồn lực có hạn’ thì 5 năm cuối này có thể
được gọi là giai đoạn với ‘nguồn lực dồi dào,
nhưng mức tăng trưởng hạn chế’.”6
Trong chương này, chúng ta sẽ xem xét một số
thách thức mà Việt Nam phải đương đầu trong
quá trình chuyển đổi sang một mô hình tăng
trưởng mới và những tác động của chúng đối với
nhu cầu tài chính cho phát triển của Việt Nam.

4

McKinsey Global Institute, “Giữ nhip tăng trưởng
bền vững ở Việt Nam: thách thức về năng suất”,
tháng 2/2012.

5Ibid.
6

4


Ngân hàng Thế giới và các tổ chức khác, “Báo cáo
phát triển Việt Nam 2012: Kinh tế thị trường khi Việt
Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình”, Báo
cáo chung của các nhà tài trợ trình bày tại Hội nghị
nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, tháng
12/2011, trang 26.

2.1. Hoàn thành chuyển đối
kinh tế
Việt Nam đã bắt đầu chuyển đổi nền kinh tế trong
điều kiện hết sức căng thẳng về tài chính vào
những năm 1980. Sự sụp đổ của Liên bang Xô
Viết và tình trạng bị cô lập về kinh tế của Việt
Nam trên trường quốc tế đồng nghĩa với việc có
rất ít các nguồn vốn từ bên ngoài. Tỷ lệ đầu tư vào
phát triển của quốc gia khi đó rất thấp. Tại Đại hội
Đảng lần thứ sáu diễn ra vào năm 1986, Việt Nam
đã nhận ra sự cần thiết phải “huy động các nguồn
lực từ tất cả các thành phần kinh tế trong đó có
thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và
các nhà đầu tư nước ngoài… để tài trợ cho phát
triển của quốc gia”. Cải tổ công tác quản lý đất
đai và tự do hóa thị trường hàng hóa đã tạo điều
kiện cho Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu
gạo lớn. Từ năm 1987, Việt Nam đã mở cửa cho
đầu tư của nước ngoài. Trong những năm 1990,
Luật Doanh nghiệp Tư nhân được ban hành đã
tạo khung khổ pháp lý cho đầu tư của khu vực tư
nhân. Với việc tiếp tục cải cách trong những năm

2000, các khung pháp lý cho các doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam
và các doanh nghiệp nước ngoài đã được thống
nhất, từ đó cho phép họ chính thức cạnh tranh
bình đẳng. Việt Nam cũng đã tập trung nỗ lực để
chấm dứt tình trạng cô lập với quốc tế, phá bỏ
các rào cản đối với hàng xuất khẩu và hàng nhập
khẩu và thiết lập quan hệ thương mại với hơn 160
quốc gia và vùng lãnh thổ.
Việt Nam có nỗ lực lớn để vào năm 2007 đã trở
thành thành viên Tổ chức Thương mại Quốc tế
(WTO). Điều này đòi hỏi phải thực hiện nhiều
cuộc cải cách môi trường kinh doanh, bao gồm
cả hoàn thiện các luật về thương mại, các
nguyên tắc về sở hữu trí tuệ và bảo vệ người
tiêu dùng và chức năng của các thị trường vốn.
Khung pháp lý được đổi mới đã giúp Việt Nam
trở thành một trong những điểm đến phổ biến
nhất ở châu Á của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, CPVN vẫn đang xây dựng năng lực
thể chế ở cấp địa phương để các quy chế này
được thực hiện tốt ở địa phương.
Những cuộc cải cách đó đã làm thay đổi một
cách cơ bản cơ cấu sở hữu của nền kinh tế Việt
Nam. Tuy nhiên, nhịp độ chuyển đổi đã được
kiểm soát một cách thận trọng. Thời điểm năm
1992 với những bước đi đầu tiên trong việc phá
bỏ độc quyền nhà nước, hơn một nửa trong tổng
số các doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển


Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


đổi thông qua chuyển dịch cơ cấu và bán cổ
phần (‘cổ phần hóa’). Tuy nhiên, về nguyên
tắc, chỉ những doanh nghiệp nhà nước nhỏ
hơn và hoạt động yếu kém mới bị chuyển đổi,
khiến cho những bộ phận quan trọng của nền
kinh tế vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Các ngành
chiến lược, bao gồm phân bón, viễn thông, bảo
hiểm, xi măng và thậm chí cả đường, vẫn do
các doanh nghiệp nhà nước chi phối.
Các cấp lãnh đạo cao nhất đã tiếp tục đưa ra
các cam kết về đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước và về một số nỗ lực nhằm cải
thiện khung pháp lý nhưng tốc độ đã không
được duy trì, đặc biệt là kể từ năm 2007 và nền
kinh tế đã phát triển chậm lại (xem Hình 2).
Trong những năm gần đây, Việt Nam tập trung

vào việc tăng hiệu quả của khối doanh nghiệp
nhà nước thông qua việc sáp nhập và tái cơ
cấu mà không cổ phần hóa. Trong tổng số hơn
4.000 doanh nghiệp nhà nước được cổ phần
hóa, nhà nước vẫn tiếp tục sở hữu cổ phần tại
70% và có cổ phần chi phối tại 36% trong số
đó, mặc dù chính phủ đã phê duyệt kế hoạch
cổ phần hóa các DNNN, giai đoạn 2011- 2015
(Quyết định số 2219/TTg-ĐMDN) và Bộ Công

thương ban hành Quyết định số 1827/2012/
QD-BCT, về kế hoạch thực hiện cổ phần hóa
các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Luật
Doanh nghiệp mới đang trong quá trình soạn
thảo nhằm giải quyết các vấn đề về quản trị
doanh nghiệp, giám sát yếu kém và thiếu minh
bạch trong khu vực doanh nghiệp nhà nước.

Hình 2. Số lượng doanh nghiệp nhà nước ‘cổ phần hóa’, giai đoạn 1998-2013

Nguồn: Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Báo cáo Đề án “Sắp xếp, đổi mới các DNNN và nâng
cao hiệu quả DNNN”, 2013

Hình 3: Vốn đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam, theo thành phần kinh tế, 2006- 2013

Nguồn: Tổng cục Thống kê (GSO)

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

5


Sự chuyển đổi chưa trọn vẹn của khu vực doanh
nghiệp có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
khu vực doanh nghiệp trong nước của Việt Nam.
Mặc dù đây là khu vực lớn nhất trong nền kinh tế
và chiếm hai phần ba tổng vốn đầu tư, khu vực
này chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp quy mô
vừa và nhỏ và các doanh nghiệp một chủ. Các

doanh nghiệp tư nhân đang chịu tác động chèn
lấn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước vốn đang
được hưởng đặc quyền về khả năng tiếp cận
tới các yếu tố đầu vào thiết yếu, nhất là đất đai.
Tình trạng sở hữu chéo phức tạp giữa các doanh
nghiệp nhà nước và các định chế tài chính cũng
cho phép các doanh nghiệp nhà nước hưởng đặc
quyền về khả năng tiếp cận tài chính. Vì vậy,
nhiều quan sát viên nhìn nhận việc hoàn thành
quá trình chuyển đổi kinh tế là điều kiện thiết yếu
cho giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam,
để cho phép khu vực doanh nghiệp tư nhân hoạt
động hiệu quả có thể phát triển mạnh hơn.

Để tránh được “cái bẫy thu nhập trung bình”,
Việt Nam cần phải thu hút các nguồn vốn đầu
tư nước ngoài và trong nước có chất lượng cao
hơn vào các ngành có năng suất cao hơn, từ đó
cho phép xây dựng các chuỗi giá trị trong nước.
Hiện đã có một số dấu hiệu đáng khích lệ cho
thấy điểu này đang xảy ra ở các phân ngành
như điện thoại di động khi mà một số nhà đầu
tư nước ngoài lớn đã bắt đầu chuyển cơ sở sản
xuất vào Việt Nam. Tuy nhiên, các nhà phân
tích nói chung đang quan ngại về tình trạng tắc
nghẽn cơ sở hạ tầng, thiếu kỹ năng và các hạn
chế của môi trường kinh doanh vẫn đang là rào
cản trên con đường tăng trưởng mạnh mẽ hơn
của các ngành công nghệ cao.


2.2. Nâng cao chất lượng của
nguồn vốn FDI

Mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong hai
mươi năm qua về bản chất cơ bản là định
hướng giảm nghèo. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao đã tạo ra nhiều việc làm trong khu vực tư
nhân, làm chuyển đổi sinh kế của phần đông
người Việt Nam. Kết quả này có được là nhờ
hậu thuẫn của đầu tư công lớn vào phát triển
cơ sở hạ tầng cơ bản và vào các ngành dịch vụ
trên khắp cả nước song hành với hệ thống an
sinh xã hội tương đối hiệu quả. So với các nước
đang phát triển khác, Chính phủ Việt Nam đã
dành một tỷ lệ chi tiêu công cao hơn cho y tế và
giáo dục với mức khoảng 28% ngân sách. Việc
mở rộng các dịch vụ y tế và sự ra đời của bảo
hiểm y tế dành cho người nghèo đã góp phần
làm tăng tuổi thọ trung bình, qua đó đã cải thiện
đáng kể vị trí của Việt Nam tính theo chỉ số phát
triển con người.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài FDI
đã gia tăng nhanh chóng trong hầu hết các
năm của thập niên 2000 và tăng mạnh vào năm
2008 khi bùng nổ bất động sản và sau đó giảm
mạnh do Chính phủ Việt Nam đưa ra các biện
pháp nhằm hạn chế đầu cơ bất động sản. FDI
là một bộ phận rất quan trọng trong quá trình
phát triển của Việt Nam, góp phần quan trọng

vào tăng trưởng việc làm. Hiện nay, các tỉnh ở
Việt Nam đang cạnh tranh nhau để thu hút đầu
tư nước ngoài thông qua việc miễn trừ các loại
thuế cũng như đưa ra những lợi ích khác.
Tuy nhiên, hiện đang có nhiều quan ngại về
chất lượng của dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Các khoản đầu tư vào ngành dệt may với giá
trị gia tăng thấp và các hoạt động lắp rắp giản
đơn vẫn chiếm phần chi phối. Nhiều công ty
nước ngoài nhập các linh kiện của họ từ nước
ngoài vào và sau đó xuất khẩu sản phẩm của
họ đi, từ đó đưa lại những lợi ích lan tỏa nhỏ
nhoi dưới dạng hiệu quả theo quy mô hoặc theo
phương thức chuyển giao công nghệ cho các
doanh nghiệp bản địa. Mối nguy hiểm khi mức
tiền lương tăng là Việt Nam sẽ bắt đầu bị tuột
tay cho các nền kinh tế có mức tiền lương thấp
hơn trong khu vực như Myanmar. Dòng vốn FDI
đã đi ngang hoặc giảm nhẹ từ năm 2009, mặc
dù nó có thể đã tăng trở lại vào năm 2013.

6

2.3. Kiểm soát tình trạng bất
bình đẳng

Việt Nam hiện đang phải đối mặt với một
số thách thức trong việc duy trì tiến độ giảm
nghèo. Trước hết, tăng trưởng kinh tế đã đòi
hỏi nhiều vốn hơn, do đó tạo ra ít việc làm hơn.

Tăng trưởng kinh tế cũng tập trung nhiều hơn ở
các trung tâm kinh tế hiện hữu. Điều này khiến
cho nó ít có tính chất công bằng xã hội hơn và
ít vì người nghèo hơn. Khi quá trình chuyển đổi
kinh tế của Việt Nam vẫn tiếp tục thì tất yếu là
bất bình đẳng về thu nhập sẽ tiếp tục gia tăng.

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


Hình 4: Tăng trưởng GDP và giảm nghèo, giai đoạn 1993-2012

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2012)

Hình 5: Chỉ số phát triển con người của Việt Nam, giai đoạn 1995-2012

Nguồn: UNDP, giá trị HDI và thay đổi thứ hạng trong Báo cáo phát triển nhân lực 2013, Việt Nam, năm 2013

Thứ hai, khu vực còn nghèo lại tập trung ở
những vùng địa lý và những nhóm dân cư khó
tiếp cận hơn. Nghèo tập trung cao ở những
nhóm dân tộc thiểu số đang chỉ chiếm 15% dân
số nhưng chiếm tới 47% tổng số người nghèo
(trong năm 2010)7. Nhiều trong số người còn
nghèo lại đang sống ở các vùng núi và vùng
sâu vùng xa. Chính phủ đã ban hành hàng loạt
chính sách và chương trình riêng hướng tới các
nhóm đối tượng này. Tuy vậy, có những thách
thức liên quan đến việc giải quyết tình trạng

không hòa nhập về kinh tế và xã hội của các
nhóm dân tộc thiểu số và hiện cũng chưa thể
xác định chắc chắn những công cụ chính sách
nào là đúng đắn.
Thứ ba, Chính phủ Việt Nam đã và đang theo
đuổi chính sách ‘xã hội hoá’ trong ngành y tế
7

Ngân hàng Thế giới, “Báo cáo đánh giá nghèo của
Việt Nam năm 2012. Khởi đầu tốt nhưng chưa phải
đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam
về giảm nghèo và những thách thức mới”, Hà Nội,
năm 2012, trang 5.

và giáo dục nhằm thu hút các nguồn lực của
xã hội để bổ sung cho phần cung cấp dịch vụ
được nhà nước tài trợ. ‘Xã hội hoá’ là một thuật
ngữ chung cho việc đưa các nguyên tắc thị
trường vào cung cấp dịch vụ, mở cửa cho đầu
tư tư nhân và áp dụng thu phí đối với người sử
dụng. Trong thực tế, chính sách này sẽ chuyển
gánh nặng chi trả các dịch vụ từ phía nhà nước
sang cho xã hội mà chủ yếu là các hộ gia đình.
Chính sách thu phí đối với một số dịch vụ nhất
định được ban hành chính thức gắn với thực
tiễn đồng chi trả phi chính thức, mà người dân
thường khó có thể phân biệt rõ ràng giữa hai
hình thức này.8 Phương pháp tài trợ các dịch vụ
cơ bản này dường như thiếu hiệu quả và thiếu
công bằng. Vì vậy, cần phải có những nỗ lực

cần thiết để chuyển gánh nặng chi trả dịch vụ
ngược trở lại phía nhà nước để gánh nặng đó
có thể được chia sẻ một cách công bằng hơn.
8

London, D., “Đóng góp và hạn chế của ‘xã hội hóa’:
Khía cạnh kinh tế chính trị về các dịch vụ thiết yếu
ở Việt Nam”, UNDP, tháng 5/2013, trang 10.

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

7


2.4. Những khó khăn về kinh tế vĩ mô:
Hình 6: Lạm phát và thâm hụt ngân sách, giai đoạn, 1993-2012

Nguồn: ADB 2012, Tổng cục Thống kê 2012, Bộ Tài chính
* Thâm hụt ngân sách, chưa bao gồm trả nợ gốc
** Số liệu ước tính


Hình 7: Tăng trưởng GDP và lạm phát, giai đoạn 1993-2012

Nguồn: Tổng cục Thống kê (2012), ADB (2012)

Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu,
Việt Nam đã phải trải qua một thời kỳ bất ổn
định kinh tế vĩ mô. Chính phủ Việt Nam đã xử

lý cuộc khủng hoảng đó thông qua hai gói kích
thích kinh tế trong năm 2009 với tổng giá trị
hơn 9 tỷ USD, tương đương với 9% GDP. Các
biện pháp đó được thực hiện dưới dạng trợ cấp
lãi suất, giảm thuế, bảo lãnh vốn vay cho các

8

doanh nghiệp, tăng chi tiêu công vào cơ sở hạ
tầng mà nguồn vốn tài trợ được huy động thông
qua phát hành trái phiếu chính phủ.
Các biện pháp kích thích kinh tế chỉ tác động
một cách hạn chế tới mục tiêu khôi phục tăng
trưởng kinh tế khi mà tốc độ này lại không ngừng
giảm trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế
(xem hình 6). Khu vực doanh nghiệp chịu ảnh

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


hưởng mạnh với số lượng các doanh nghiệp giải
thể hoặc ngừng hoạt động trong 2 năm từ năm
2011 đến năm 2012 bằng tổng số doanh nghiệp
phá sản trong 20 năm gần đây.9 Đồng thời, các
biện pháp kích thích đó đã được đưa vào trong
giai đoạn kinh tế vĩ mô bất ổn. Thâm hụt ngân
sách tăng lên mức 6.9% GDP trong năm 2009
trong khi đó lạm phát tăng lên mức hai con số
năm 2010 và 2011 (xem hình 6). Tình trạng này

đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải ban hành hàng
loạt các biện pháp cứng rắn để kiểm chế lạm
phát và bình ổn nền kinh tế. Điều này có nghĩa
là phải cắt giảm chi tiêu cho phát triển hoặc cắt
giảm ngân sách cho đầu tư.
Thời kỳ kinh tế vĩ mô bất ổn này được nhiều
quan sát viên đưa ra như một minh chứng cho
những giới hạn của mô hình tăng trưởng sử dụng
nhiều vốn được thúc đẩy bởi mức đầu tư cao. Hệ
quả để lại của nó là nợ công tăng và những dự
án đầu tư dở dang, từ đó hạn chế cơ hội của Việt
Nam trong việc khởi động những dự án đầu tư
công mới trong những năm sắp tới.

2.5. Những thử thách đối với
sự phát triển trong tương lai
của Việt Nam
Việt Nam hiện đang ở một thời điểm quan trọng
trên con đường phát triển quốc gia. Từ khi đạt
được tiêu chí nước có mức thu nhập trung bình
trong năm 2009, Việt Nam đã bước sang giai
đoạn giảm đà tăng trưởng kinh tế, bất ổn định
kinh tế vĩ mô, tốc độ giảm nghèo chậm lại và bất
bình đẳng tăng lên. Hậu quả này của Việt Nam
một phần là do suy thoái kinh tế toàn cầu. Tuy
vậy, nhiều quan sát viên trong nước và quốc tế
đều quan ngại rằng thời kỳ tăng trưởng kinh tế
nhanh của Việt Nam có thể sắp kết thúc.
Các thách thức này được thể hiện ở một số khía
cạnh như sau. Thứ nhất, quá trình chuyển đổi

kinh tế của Việt Nam vẫn chưa hoàn tất và tốc
độ chuyển đổi đã giảm mạnh từ giữa những năm
2000. Mặc cho tình trạng thiếu hiệu quả vẫn
tồn tại, các doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục
được hưởng đặc quyền về khả năng tiếp cận tới
những yếu tố đầu vào thiết yếu như đất đai và
tài chính mà điều đó làm giới hạn không gian
9

dành cho khối doanh nghiệp tư nhân phát triển.
Với tình trạng suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam, mục tiêu hoàn thành quá trình
chuyển đổi kinh tế dường như càng trở nên cấp
bách hơn và càng khó để đạt được hơn.
Thứ hai, Việt Nam cần phải chuyển từ mô hình
tăng trưởng dựa trên trình độ lao động thấp và
các ngành tạo ra giá trị gia tăng thấp sang mô
hình tăng trưởng dựa vào công nghệ cao và tri
thức để hội nhập hiệu quả hơn vào chuỗi giá
trị toàn cầu. Việc này sẽ tạo điều kiện cho Việt
Nam thu hút những nguồn vốn FDI chất lượng
cao hơn với lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế quốc
dân. Điều đó đòi hỏi phải cải thiện về cấp độ và
chất lượng cơ sở hạ tầng, lực lượng lao động với
học thức cao hơn và không ngừng cải thiện môi
trường kinh doanh.
Thứ ba, Việt Nam cần phải đưa ra những biện
pháp để quản trị các rủi ro về bất bình đẳng tăng
lên và sự không hòa nhập về khía cạnh kinh
tế -xã hội có thể xảy ra cùng với mô hình tăng

trưởng đã thay đổi. Điều đó đòi hỏi Chính phủ
phải cải thiện định hướng chi tiêu vì người nghèo
của mình mà trọng tâm là các nhóm người nghèo
không hòa nhập và những vùng sâu vùng xa.
Chính phủ cũng cần phải đánh giá lại tác động
của việc ‘xã hội hoá’ tới khả năng tiếp cận và tới
sự công bằng của các thành phần xã hội này.
Vấn đề này cũng đòi hỏi việc đánh giá lại cách
thức tài trợ cho các dịch vụ cơ bản.
Ba quá trình chuyển đổi này cần phải được quản
lý trong một môi trường kinh tế vĩ mô, ở đó ít còn
cơ hội kích thích tăng trưởng thông qua tăng đầu
tư và nguồn lực tài chính phát triển bị hạn chế
hơn đáng kể so với trước đây Điều này đòi hỏi
phải nâng cao hiệu quả chi thường xuyên và chi
đầu tư để tăng tối đa tác động phát triển. Vì vậy,
để có thể vượt qua những thử thách mới đối với
sự phát triển, Việt Nam cần phải giải quyết được
những khó khăn đang cản trở việc sử dụng hiệu
quả nguồn vốn tài trợ cho phát triển.
Vì vậy, kết luận chính của nghiên cứu này là
thách thức mà Việt Nam đang đối mặt chủ yếu
không phải là tối đa hoá các dòng vốn tài trợ
phát triển. Trong một thập kỷ vừa qua, Việt
Nam đã từng có đủ các nguồn lực để duy trì tốc
độ đầu tư cao. Khi đã chạm tới điểm lợi nhuận
đầu tư giảm đi như hiện nay thì Việt Nam cần
phải cải thiện hiệu suất và hiệu quả của các
khoản đầu tư phát triển.


www.kinhdoanh.vnexpress.vn, 5/11/2012, số lượng
doanh nghiệp phá sản trước đây chưa bao giờ nhiều
như hiện nay

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

9


3. Mô tả các luồng tài chính phát triển
của Việt Nam
Chương này nêu rõ các nguồn tài chính phát triển khác nhau tại Việt Nam. Phần
thứ nhất đề cập đến các nguồn tài chính phát triển chủ yếu tài trợ cho các khoản
chi tiêu của chính phủ, bao gồm thu ngân sách nhà nước, vay nợ công và ODA.
Kết thúc phần một là đánh giá về tình hình chi tiêu của chính phủ. Phần hai đề
cập đến các luồng tài chính phát triển không do chính phủ kiểm soát, bao gồm
vốn vay từ khu vực tài chính- ngân hàng Việt Nam, đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, FDI, kiều hối và chi tiêu của các tổ chức phi
chính phủ quốc tế và xã hội dân sự Việt Nam. Trong từng trường hợp, chúng tôi
nêu ra một số yếu tố thể chế chủ yếu liên quan đến việc huy động và sử dụng có
hiệu quả nguồn lực nêu trên.

3.1. Các nguồn tài chính phát
triển trong ngân sách nhà nước
3.1.1. Nguồn thu ngân sách nhà nước
Cho đến nay thu ngân sách nhà nước là nguồn
tài chính phát triển lớn nhất tại Việt Nam.

Trong thập kỷ qua, nguồn thu này đã tăng lên

nhanh chóng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh
tế mạnh mẽ, từ dưới 300 nghìn tỷ đồng trong
năm 2006 lên gần 800 nghìn tỷ đồng, tương
đương 39 tỷ USD trong năm 2013 (ước tính
của Bộ Tài chính). Hình 8 mô tả tăng trưởng
tổng thu ngân sách nhà nước trong 6 năm qua
theo giá hiện hành.

Hình 8: Thu ngân sách nhà nước, 2006- 2013

* Ước thực hiện lần 2
** Ước thực hiện lần 1
Nguồn: Bộ Tài chính

10

Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình


Lưu ý là đây là giá hiện hành, với hai lần lạm
phát lên tới hai con số trong kỳ. Khi tính theo
giá cố định năm 2010, vào năm 2012 nguồn
thu giảm 9% do hoạt động kinh tế suy giảm. Bộ

Tài chính ước tính sự suy giảm này sẽ tiếp tục
diễn ra trong năm 2013 mặc dù đã có các biện
pháp thu bổ sung.

Hình 9: Tổng thu giai đoạn 2006-2012 theo giá cố định năm 2010 và theo %

trong GDP

Nguồn: Nhóm Tư vấn tự tính trên cơ sở dữ liệu về ngân sách nhà nước theo giá hiện hành và về GDP
theo giá hiện hành và giá 2010 của TCTK

Tính theo tỷ trọng trong GDP, nguồn thu
đã giảm mạnh. Việt Nam từng là một trong
những nước có tỷ lệ nguồn thu/GDP cao
nhất trong khu vực, lên tới gần 30% vào giữa
những năm 2000, nhưng sau đó đã giảm
xuống mức thấp là 22,8% trong năm 2012.10
Điều này là do nhiều yếu tố, trong đó có tăng
trưởng kinh tế chậm lại, miễn giảm thuế cho
doanh nghiệp và thu từ dầu thô giảm.
Đóng góp từ dầu thô vào thu ngân sách nhà
nước đã giảm từ 24% trong năm 2004 xuống
còn khoảng 14% trong những năm gần đây.11
Theo Bộ Tài chính, nguyên nhân là do sản
lượng dầu thô giảm và quyết định tăng khối

lượng lọc dầu trong nước. Tuy vậy, trữ lượng
dầu thô ước tính của Việt Nam lên tới 4,4 tỷ
thùng, lớn thứ 3 ở châu Á sau Trung Quốc và
Ấn Độ, và con số này có thể còn tăng lên do
các khu vực chưa khai thác còn lớn.
Hình 10 mô tả đóng góp của các loại thuế vào
tổng thu ngân sách, trong đó thuế thu nhập
doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng là hai loại
thuế quan trọng nhất.


10 Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ ngân
sách NN/ GDP cao nhất trong khu vực vì cách tính
ngân sách nhà nước khác với các nước. Ở Việt
Nam, NSNN bao gồm ngân sách của cả 4 cấp hành
chính. Ngoài ra, NSNN còn bao gồm cả thu từ dầu
mỏ, bán đất, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, trong
khi đó các khoản này ở các nước khác được đưa
vào dòng thu từ vốn.
11 />
Tài chính phát triển phục vụ các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam
khi trở thành nước thu nhập trung bình

11


×