Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Chủ chương của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.31 KB, 12 trang )

I.
MỞ ĐẦU
Thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc cũng như quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đều khẳng định
tầm vóc chiến lược của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Chính vì
vậy, Ðảng ta luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược
quan trọng, coi đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái. Những quan điểm này
được nêu ra ngay từ những năm đầu của thời thì đổi mới, từ Hội nghị lần thứ
bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa VII( tháng 1 – 1994) và được phát triển
, bổ sung qua các Đại hội VIII, IX, X, XI…..cho tới tận ngày nay.
Và để hiểu thêm vấn đề này, thấy được tầm quan trọng của chiến lược
phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn, sau đây em xin trình bày một
số hiểu biết của mình về “ Chủ chương của Đảng về phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nông dân hiện nay.”
II.
NỘI DUNG.
1.
Khái quát chung về chủ chương phát triển nông nghiệp, nông
thôn và nông dân của Đảng.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá
trình công nghiệp hóa đới với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên
thế giới, bởi vì công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp,
nông thôn và gia tăng khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị.
Nông nghiệp là nơi cung cấp lương thực, nguyên liệu và lao động cho công
nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông
thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy,
quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một vấn đề có tầm quan
trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, với nhận thức sâu sắc về đặc điểm


của nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền nông nghiệp lạc hậu, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp, nông
dân, nông thôn. Sự đột phá đầu tiên về chính sách của Đảng trong thời kỳ đổi
1


mới cũng được khởi đầu từ lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tiếp
sau đó, nhiều nghị quyết của Đảng đã bàn tới vấn đề này, qua đó góp phần bổ
sung hoàn thiện hơn quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước.Cụ thể:
Mốc son khởi đầu thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước được xác định là
Ðại hội VI của Ðảng (tháng 12-1986). Nhưng những bước đi đầu tiên trong
cải tiến cơ chế quản lý đã cho thấy sự xuất hiện sớm hơn của tư duy mới, cách
làm mới trong lĩnh vực kinh tế, trong đó có Chỉ thị 100 (tháng 10-1981) của
Ban Bí thư T.Ư Ðảng về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về thay đổi cách
chỉ đạo, tổ chức sản xuất, quản lý hợp tác xã nông nghiệp, đã đem lại niềm
phấn khởi và khí thế mới ở nông thôn, giải phóng sức sản xuất cho hàng triệu
nông dân.
Trên cơ sở thắng lợi của cơ chế Khoán 100 (khoán đến nhóm và người
lao động), ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về Ðổi mới cơ chế
quản lý kinh tế trong nông nghiệp, trong đó xác định rõ vai trò của kinh tế hộ,
coi hộ gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ, được
giao quyền sử dụng ruộng đất...
Các văn kiện tiếp theo của Ðại hội lần thứ VII(tháng 6/1991),VIII,IX
(tháng 4/2001) của Ðảng và nhiều chỉ thị, nghị quyết hội nghị trung ương
trong các nhiệm kỳ đó đều thể hiện rõ chủ trương chiến lược nhất quán đối
với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, từng bước xác định ý nghĩa và tầm
quan trọng của việc phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông
thôn mới, tiến đến khẳng định thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới, đưa nông nghiệp và kinh tế

nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trong trước mắt
và lâu dài.
Ðại hội X của Ðảng đã nhấn mạnh "Hiện nay và trong nhiều năm tới,
vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng"; "Ðẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân".
2


Quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối và các
nghị quyết nêu trên cũng phản ánh rõ tiến trình liên tục phát triển và hoàn
thiện của Ðảng, Nhà nước và toàn xã hội cả về tư duy, nhận thức, cơ chế,
chính sách và các giải pháp đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn.
Quá trình đó cũng góp phần khẳng định rằng: Phát triển nông
nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần nông dân là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó có chính nông
dân - lực lượng hợp thành hùng hậu với truyền thống yêu nước, cần cù, sáng
tạo, trung thành, với sức mạnh dời non, lấp biển dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của Ðảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
2.
Tình hình phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân
trong thời gian vừa qua.
2.1
Những thành tựu đạt được
Trên cơ sở nhìn lại hơn 20 năm đổi mới của đất nước vừa qua (19862006) đã đạt được nhiều thành tựu phát triển khả quan và phân tích thực trạng
nông nghiệp, nông dân, nông thôn từ năm , Hội nghị T.Ư 7 vừa qua đã tập
trung trí tuệ, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ và nhất trí thông qua Nghị
quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" với những nội dung cơ bản như

sau:
Về đánh giá thực trạng, Nghị quyết khẳng định kết quả đạt được trong
phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của
nông dân nước ta trong những năm vừa qua là khá toàn diện và to lớn, khái
quát thành năm thành tựu:
Một là, nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng
tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương
thực quốc gia; xuất khẩu nông, lâm thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học công nghệ được nâng cao hơn. Ðáng chú ý là giá trị xuất khẩu nông lâm thủy
sản tăng bình quân 16,8%/năm, năm 2007 chiếm 26% kim ngạch xuất khẩu
3


của cả nước, một số sản phẩm có vị thế cao trên thị trường thế giới, như gạo,
cao-su, cà-phê, hồ tiêu, hạt điều, đồ gỗ, thủy sản. Từ một nước thường xuyên
thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng triệu tấn lương thực của nước ngoài,
hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba trên thế giới
(sau Thái Lan và Mỹ).
Nhờ có những thành tựu, kết quả đó, nông nghiệp không chỉ đã góp
phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã hội nông thôn và nâng cao đời
sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà nông nghiệp đã ngày càng tạo ra
nhiều hơn nữa những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần tích cực vào sự đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước trong những
năm qua.
Hai là, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường,
nhất là thủy lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước
làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Nổi bật là sự quan tâm đầu tư phát triển thủy
lợi theo hướng đa mục tiêu; từ năm 2000 đến nay đã tăng nhanh cả năng lực
tưới và năng lực tiêu, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho 83% diện tích gieo
trồng lúa, một số cây trồng khác và cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch
vụ. Hệ thống đê sông, đê biển được củng cố, nâng cấp một bước, nhiều công

trình tiêu thoát lũ và trên 1.100 cụm tuyến dân cư ở đồng bằng sông Cửu
Long được xây dựng và phát huy tác dụng...
Ba là, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi
mới; kinh tế nông thôn phát triển theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ,
ngành nghề góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
Bốn là, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn
ngày càng được cải thiện; xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. GDP
trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 3,3%; thu nhập và đời
sống nhân dân ngày càng cải thiện hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình
quân 1,5% năm; bộ mặt nông thôn thay đổi theo hướng văn minh; trình độ
4


văn hoá, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân được nâng lên cao hơn trước.
Năm 2007 thu nhập bình quân đầu người ở khu vực này tăng 2,7 lần so với
năm 2000, đặc biệt là về cơ bản đã xóa được đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn
18%, thành tựu này được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Ðồng thời, các
công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hóa,
thông tin, thể thao cũng được quan tâm và đẩy mạnh hơn.
Năm là, hệ thống chính trị ở nông thôn do Ðảng lãnh đạo được tăng
cường; dân chủ cơ sở được phát huy; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao;
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Ðến nay, 89% số thôn,
bản có tổ chức đảng, 56% cán bộ công chức xã được đào tạo về chuyên môn
nghiệp vụ và quản lý.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng với các đoàn thể quần chúng góp
phần tích cực giải quyết nhiều vấn đề ở nông thôn... Nông dân chiếm 54%
tổng số lao động cả nước, là lực lượng lớn mạnh với trình độ giác ngộ chính
trị và kiến thức kinh tế, kỹ thuật đã được nâng lên, cho nên vẫn luôn tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Ðảng, xây dựng xã hội nông thôn ổn định dù có lúc khó
khăn, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp.

2.2 Những hạn chế cần khắc phục.
Đảng cũng chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm:
Thứ nhất, các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn đổi mới chậm,
chưa đủ sức phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Nông thôn phát triển thiếu
quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi trường ngày
càng ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai thấp. Ðời sống vật
chất và tinh thần của cư dân nông thôn còn thấp, chênh lệch giàu nghèo giữa
thành thị và nông thôn, giữa các vùng còn lớn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; phát
sinh một số vấn đề xã hội bức xúc.
Thứ hai, việc đầu tư về kết cấu hạ tầng nông thôn tuy đã được chú
trọng giải quyết song chưa đều giữa các vùng, các địa phương. Điển hình là
về điện khí hóa, mặc dù số thôn sử dụng điện tăng rất nhanh ở miền núi,
nhưng cho đến nay vẫn còn một số tỉnh miền núi phía Bắc tỷ lệ thôn chưa có

5


điện còn khá cao như Lai Châu là 29,2%. Tỷ lệ này ở Điện Biên là 24,9%,
Cao Bằng là 22,3% và Hà Giang là 19,2%,…
Thứ ba, về giao thông nông thôn, ở nhiều địa phương hệ thống đường
đến thôn còn nhiều khó khăn, nhất là các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu
Long và các tỉnh miền núi phía Bắc, còn nhiều tỉnh có gần 1/3 số thôn ô tô
không thể đến được thôn (như Cà Mau, Bạc Liêu, TP Cần Thơ, Lai Châu,
Hậu Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng). Việc phát triển thư viện xã
diễn ra rất chậm: Năm 2011 chỉ có 10% số xã có thư viện, tăng 3% trong 10
năm gần đây và 0,5% trong 5 năm trở lại đây. Việc phát triển, mở rộng hệ
thống nhà trẻ, lớp mẫu giáo, hệ thống dịch vụ y tế tư nhân đến cấp thôn vẫn
còn hạn chế và phát triển không đồng đều giữa các vùng, các địa phương,...
Thứ tư, cơ cấu ngành nghề của hộ nông thôn đã có sự chuyển dịch rõ
nét song vẫn không đều giữa các vùng. Cùng với đó, tốc độ chuyển dịch

ngành nghề từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp còn rất chênh lệch giữa các
vùng. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc và Tây Nguyên là những vùng
chuyển dịch rất chậm trong 5 năm qua. Tỷ trọng các hộ công nghiệp, xây
dựng và dịch vụ ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc chỉ tăng từ 11,3% lên
16,6%, vùng Tây Nguyên từ 10,2% lên 12,3%. Điểm đáng lưu ý là ở vùng
Tây Nguyên tỷ trọng hộ công nghiệp và hộ thương nghiệp hầu như không
thay đổi. Đây cũng là những vùng mà các hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản
chiếm đa số (trên 80%).
Những hạn chế trên đây đã cho thấy một bức tranh toàn cảnh về thực
trạng cũng như những vấn đề đặt ra trong nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
hiện nay ở nước ta. Để khắc phục những tồn tại này, đòi hỏi hơn nữa sự vào
cuộc quyết liệt của các cấp, các ngành và của toàn xã hội trong việc chung tay
xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống của cư dân nông thôn trong giai
đoạn tới, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền sản xuất nông
nghiệp Việt Nam.
Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị và toàn xã hội
6


3.

Chủ chương của Đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn

và nông dân trong giai đoạn hiện nay.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục đưa ra
những quan điểm chỉ đạo đối với vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Đại hội XI đã khẳng định những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, những kết quả đạt được của nông nghiệp, nông dân, nông thôn nói
riêng và nhấn mạnh: “Sự phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là

sản xuất lương thực đã đảm bảo an ninh lương thực quốc gia. Kinh tế nông
thôn và đời sống nông dân được cải thiện hơn trước. Việc tập trung đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đầu tư, phát triển giống mới có năng
suất, chất lượng cao, phát triển các cụm công nghiệp, làng nghề, tiểu thủ
công nghiệp... đã có tác động tích cực đến việc sản xuất, tạo việc làm và xóa
đói, giảm nghèo”. Có thể khẳng định rằng, thành tựu trong nông nghiệp, nông
dân, nông thôn không chỉ góp phần quan trọng vào việc ổn định chính trị-xã
hội nông thôn và nâng cao đời sống nông dân trên phạm vi cả nước, mà còn
ngày càng tạo thêm những tiền đề vật chất cần thiết, góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, nông nghiệp, nông dân,
nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và
yếu kém (như đã trình bày ở trên). Nhằm khắc phục những hạn chế và yếu
kém, đồng thời để từng bước hiện thực hóa mục tiêu phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đến năm 2020 được xác định tại Nghị quyết Trung ương
7 (khóa X), Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đặt chỉ tiêu trong 5 năm (giai
đoạn 2011-2015): “Phấn đấu giá trị gia tăng nông nghiệp bình quân 5 năm
đạt 2,6 – 3%/năm. Tỉ trọng lao động nông nghiệp năm 2015 chiếm 40 – 41%
lao động xã hội. Thu nhập của người dân nông thôn tăng 1,8 – 2 lần so với
năm 2010”
Quan điểm chỉ đạo thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông
dân, nông thôn trong giai đoạn này cũng được Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng xác định rõ trên những nội dung chính sau:
7


Thứ nhất, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu
quả, bền vững trên cơ sở phát huy những lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt
đới gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông dân, nông thôn.
Trong điều kiện hiện nay, “phát triển nông nghiệp toàn diện theo

hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững” theo quan điểm của Đảng cần được hiểu
đó là nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh cao; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm
quốc gia cả trước mắt và lâu dài; sản xuất một số sản phẩm nông nghiệp hàng
hóa ứng dụng công nghệ cao, có năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cao;
đồng thời, phát triển nông nghiệp cũng tính tới những yếu tố bảo vệ môi
trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đảm bảo sự hài hòa về kết cấu hạ
tầng kinh tế-xã hội nông thôn. Sản xuất các mặt hàng nông sản nhiệt đới từ
trước tới nay vẫn là một thế mạnh của Việt Nam. Nghị quyết của Đảng chỉ rõ:
“Khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới để phát triển sản xuất hàng
hóa lớn với năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao”.
Theo đó, việc tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp phải theo các quy
hoạch, các chương trình, đề án được phê duyệt; tập trung phát triển vùng sản
xuất hàng hóa cho từng cây, con, từng vùng, nhằm mục tiêu nâng tỷ trọng sản
phẩm hàng hóa, nhất là hàng hóa xuất khẩu.
Muốn đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, hiện đại và sản xuất
hàng hóa lớn, đất đai là yếu tố quyết định và quan trọng hàng đầu, do đó quan
điểm của Đảng là “khuyến khích tập trung ruộng đất, phát triển trang trại,
doanh nghiệp nông nghiệp phù hợp về quy mô và điều kiện của từng vùng”.
Một yếu tố quan trọng khác đối với sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiện đại
và sản xuất hàng hóa lớn là sự hỗ trợ và đầu tư đối với nông nghiệp, Đảng ta
xác định: “Thực hiện gắn kết chặt chẽ nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh
nghiệp, nhà nước; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ ở khu
vực nông thôn; phát triển các hiệp hội nông dân; tiếp tục đổi mới, xây dựng
mô hình tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ chế thị trường;
8


phát triển các hình thức bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp; đẩy nhanh áp
dụng tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại trong tất cả các khâu của quá

trình sản xuất”.
Thứ hai, xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của
quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Trong toàn bộ quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn hiện nay,
nông dân giữ vị trí là “chủ thể”, đây là sự khẳng định đúng đắn, cần thiết
nhằm khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của nông dân trong sự nghiệp xây
dựng nông thôn mới trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; đồng thời
nhằm bảo đảm những quyền lợi chính đáng của nông dân. Vai trò chủ thể của
nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn thể hiện ở chỗ:
trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; chủ động và sáng tạo trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn; tích cực tham gia vào quá
trình xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới;
xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá-xã hội, môi trường ở nông thôn; đảm
bảo an ninh trật tự xã hội ở nông thôn, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.
Để phát huy vai trò của nông dân hiện nay, Nghị quyết Đại hội XI của
Đảng nêu rõ: “Nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp nông dân, tạo điều
kiện để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hỗ trợ, khuyến khích nông dân học
nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học,
công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp
và dịch vụ. Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện
có hiệu quả bền vững công cuộc xóa đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp”.
Quan điểm đó của Đảng thực sự là những giải pháp quan trọng để khơi dậy và
phát huy vai trò chủ thể của người nông dân trong phát triển nông nghiệp, xây
dựng nông thôn mới ở nước ta.
Thứ ba, xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.
9



Nhằm khắc phục những hạn chế và bất cập trong phát triển nông thôn
nước ta hiện nay, Đảng ta xác định: “Xây dựng nông thôn mới theo hướng
văn minh, giàu đẹp, đi đôi với nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nông dân”; đồng thời nêu rõ: “Quy hoạch phát triển nông thôn và phát triển
đô thị và bố trí các điểm dân cư. Phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và
làng nghề gắn với bảo vệ môi trường”.
Khi triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, Đảng ta nhấn
mạnh: đảm bảo sự phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể,
vững chắc trong từng giai đoạn; giữ gìn và phát huy những truyền thống văn
hoá tốt đẹp của nông thôn Việt Nam; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng
nông thôn; tạo môi trường thuận lợi để khai thác mọi khả năng đầu tư vào
nông nghiệp và nông thôn, nhất là đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa,
thu hút nhiều lao động. Mặt khác, xây dựng nông thôn mới văn minh, giàu
đẹp phải gắn với việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nông dân. Trong giai đoạn hiện nay cần tập trung triển khai có hiệu quả
chương trình đào tạo nghề cho 1 triệu lao động nông thôn mỗi năm; thực hiện
tốt các chương trình hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và các đối tượng chính
sách, chương trình nhà ở cho đồng bào vùng bão, lũ; bố trí hợp lý dân cư, bảo
đảm an toàn ở những vùng ngập lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển.
Tóm lại, những quan điểm về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
hiện nay trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng là sự khẳng định, bổ
sung và tiếp tục phát triển chủ trương, đường lối lãnh đạo đối với nông
nghiệp, nông dân, nông thôn được đặt ra từ Nghị quyết Trung ương 7 khóa X
của Đảng. Quán triệt sâu sắc và vận dụng hiệu quả những quan điểm chỉ đạo
trên của Đảng là cơ sở vững chắc để nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước
ta có những bước phát triển mới.
III. KẾT LUẬN.
Trên đây là một số hiểu biết của em về chủ chương phát triển nông
nghiệp, nông thôn và nông của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Thông qua những báo cáo, cũng như những chủ chương, chính sách mà Đảng
10


ta đề ra cho những giai đoạn sau này một lần nữa giúp ta khẳng định được
tầm quan trọng chiến lược của vấn đề này, như lời Bác Hồ nói : “Dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”, và câu nói ngắn gọn
của nguyên Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Dân là gốc” và phương châm
của Đảng: “Dân biết, dân, bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Những lời nói ấy và
phương châm của Đảng được thực hiện đúng phương pháp sẽ là một tư tưởng
chủ đạo có tầm quyết định, một động lực mạnh mẽ và là một cơ chế hoàn hảo
cho chiến lược phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn .

11


MỤC LỤC

12



×