Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.44 KB, 18 trang )

Mục lục

trang

Lời mở đầu
Nội dung chính
I. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự………………………………………………………………………1
1. Khái

niệm

thẩm

quyền

xét

xử



thẩm

vụ

án

hình

sự…………………………….1


2. Phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo
quy định của pháp luật…………………………………………………………………..2
2.1, Thẩm quyền xét xử theo sự việc……………………………………………..2
2.2, Thẩm quyền xét xử theo đối tượng…………………………………………..5
2.3, Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ……………………………………………6
3. Chuyển

thẩm

quyền

xét

xử

vụ

án

hình

sự………………………………………...8
II. Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự…………………………………………………………….9
1. Thực trạng về việc thực hiện quy định của pháp luật về thẩm quyền
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án……………………………………………9
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định về thẩm quyền xét
xử




thẩm

vụ

án

hình

sự…………………………………………………………...12
Lời kết…………………………………………………………………………………..14


Lời mở đầu
Nếu như chức năng, nhiệm vụ của cơ quan an ninh là điều tra, phòng chống tội
phạm thì chức năng, nhiệm vụ của Tòa án là xem xét, quyết định mức độ trừng trị đối
với các loại tội phạm đó. Để có được hiệu quả trong hoạt động tiến hành tố tụng nói
chung và trong công tác xét xử nói riêng thì một yêu cầu đặt ra đó là phải có sự phân
định thẩm quyền xét xử sơ thẩm các loại tội phạm khác nhau. Bộ luật tố tụng hình sự đã
có những quy định khá cụ thể về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và trong quá
trình áp dụng đã thấy được nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công thì
còn khá nhiều hạn chế trong các quy định pháp luật này.

Nội dung chính
I. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự.
1. Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn có ý nghĩa rất quan trọng và là cơ sở để xác định
thẩm quyền xét xử của Tòa án trong giai doạn tiếp theo. Thẩm quyền của Tòa án theo
nghĩa chung nhất được hiểu là quyền xem xét và giải quyết vụ án theo quy định của

pháp luật
Trong tố tụng hình sự thẩm quyền xét xử của Tòa án theo nghĩa rông bao gồm quyền
xem xét và quyền giải quyết vụ án, ra bản án hoặc quyết định khác như đình chỉ vụ án,
tạm đình chỉ vụ án…Như vậy thẩm quyền của Tòa án bao gồm thẩm quyền về hình thức
(quyền xem xét) và thẩm quyền nội dung (quyền hạn giải quyết). Tuy nhiên, trong bài
viết này chỉ đề cập đến thẩm quyền hình thức.

2


Nói một cách khái quát nhất, thẩm quyền xét xử sơ thẩm (thẩm quyền về hình thức)
là quyền mà pháp luật quy định cho phép tòa án được xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn
cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; đối tượng phạm tội; nơi
phạm tội…
2. Phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án theo quy
định của pháp luật.
2.1, Thẩm quyền xét xử theo sự việc.
Sự phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo sự việc dựa vào tính
chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Do Tòa án nhân dân tối cao không có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm được phân định giữa hai cấp Tòa
án cấp huyện và tỉnh.
Thứ nhất, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
quân sự khu vực.
Khoản 1 Điều 170 BLTTHS quy định: “Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án
quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm
trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây
:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224,

225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.”
Như vậy, vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân
huyện và Tòa án quân sự là những vụ án về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Đó là những tội phạm có mức định khung
hình phạt cao nhất là 15 năm tù. Mặc dù vậy nhưng quy định này không được áp dụng
đối với mọi Tòa án nhân dân huyện và Tòa án quân sự khu vực mà tùy theo Tòa án đó

3


đã được giao thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ việc hay chưa. Quyết định số
24/2003/QH11 về việc thi hành bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chỉ rõ chậm nhất đến
ngày 1/7/2009 phải thống nhất thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định tại khoản 1
Điều 170 BLTTHS. Tuy nhiên, cho đến hiện nay thì tinh thần này vẫn chưa được đáp
ứng.
Trong trường hợp, một điều có nhiều khoản thì Tòa án nhân dân cấp huyện và
Tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử những khoản có khung hình phạt cao
nhất thuộc thẩm quyền của mình. Cấp tòa án này có thẩm quyền xét xử cùng một lần
một người phạm nhiều tội nếu các tội phạm đó đều thuộc thẩm quyền xét xử của các tòa
án này. Trường hợp, một người đang chấp hành hình phạt mà lại bị truy tố về tội phạm
thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án này thì cũng có thẩm quyền xét xử; trừ trường hợp
người bị kết án đã bị tuyên hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà chưa được giảm
thời hạn chấp hành hình phạt tù.
Tuy nhiên, không phải mọi tội phạm có mức hình phạt cao nhất là 15 năm tù đều
thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án này mà những tội xâm phạm an ninh quốc
gia; phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; tội giết người; giết người
trong trạng thái thần kinh bị kích động mạnh… quy định tại điểm a, b, c của khoản 1 Điều
170 BLTTHS dù là tội phạm ít nghiêm trọng đi chăng nữa thì Tòa án nhân dân huyện và
Tòa án quân sự đều không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm. Sở dĩ, để xét xử sơ thẩm một vụ
án hình sự thì một điều rất quan trọng là cơ quan xét xử có đủ năng lực, trình độ chuyên

môn hay không và cơ sở vật chất, các cơ quan liên quan có đủ điều kiện cho hoạt động tố
tụng hình sự nói chung và công tác xét xử nói riêng hay không. Mặc dù một tội phạm
thuộc tội ít nghiêm trọng. nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng nhưng trong vụ án có nhiều
tình tiết phức tạp, khó xác định, khó chứng minh hay liên quan đến nhiều người, nhiều
cấp, nhiều ngành thì cần một trình độ chuyên môn cao hơn và cơ sở vật chất phục vụ cho
hoạt động điều tra, xét xử cao hơn nhằm nhanh chóng, kịp thời xử lí vụ án, tránh hiện
tượng tồn đọng án, bỏ lọt tôi phạm, xử oan, xử sai dẫn đến giảm niềm tin vào cơ quan xét
xử của nhân dân. Ví dụ, khi một vụ án giết người có tình tiết “thần kinh bị kích động

4


mạnh” thì rất dễ nhầm lẫn trong việc định tội danh theo Điều 93 khoản 2 có tình tiết định
khung tăng nặng với tội giết người trong trạng thái thần kinh bị kích động mạnh (Điều 95).
So với Điều 145 BLTTHS năm 1988 thì Điều 170 BLTTHS năm 2003 đã mở
rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện và Tòa án quân sự khu vực.
Đây là một quy định mang ý nghĩa rất lớn nhằm chuyên môn hóa hoạt động của các cấp
tòa án và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình cải cách tư pháp. Quy định này được áp
dụng góp phần giảm lượng án tồn đọng ở Tòa án cấp trên, phù hợp với tình hình ngành
tòa án hiện nay khi trình độ chuyên môn của Tòa án cấp huyện đang ngày được nâng
cao, cơ sở vật chất cũng đã đáp ứng được với những vụ án phức tạp hơn.
Thứ hai, thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án quân sự
quân khu.
Khoản 2 Điều 170 BLTTHS quy định: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án
quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc
những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử”.
Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án quân sự quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm
những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện và Tòa
án quân sự khu vực. Đó là những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc những tội phạm

ít nghiêm trọng, đặc, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng nhưng thuộc các tội được liệt kê tại
điểm a, b, c khoản 1 Điều 170 và những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp
dưới nhưng được Tòa án tỉnh và Tòa án quân sự quân khu lấy lên xét xử. Hiện nay,
BLTTHS 2003 không có điều nào quy định cụ thể về một vụ án như thế nào thì được
Tòa án tỉnh lấy lên xét xử và cũng chưa có văn bản nào hướng dẫn về vấn đề này. Vì
vậy, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng cơ quan
điều tra căn cứ vào tình hình thực tế của các vụ án và năng lực của điều tra viên, kiểm
sát viên, thẩm phán cấp huyện để quyết định vụ án nào cần lấy lên điều tra, truy tố, xét
xử ở cấp tỉnh. Thực tế, các tòa án vẫn dựa theo hướng dẫn của thông tư liên ngành số
02/TTLN ngày 12/1/1989 của TANDTC để đưa ra quyết định lấy vụ án lên xét xử.
5


Theo đó, Tòa án cấp tỉnh thường lấy lên xét xử những vụ án phức tạp khó chứng minh
hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm
sát viên, sĩ quan công an…
Điều 173 BLTTHS quy định: “Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên, thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.”

2.2, Thẩm quyền xét xử theo đối tượng.
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng chính là sự phân định thẩm quyền xét xử sơ
thẩm giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào chủ thể của tội phạm và đối
tượng bị thiệt hại do tội phạm gây ra.
Thứ nhất, đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án quân sự.
BLTTHS năm 2003 không có điều nào quy định cụ thể về các đối tượng thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự nhưng các đối tượng này lại được quy định chi tiết tại
Điều 3 Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự 2002 và Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BQP-BCA hướng dẫn về thẩm quyền xét xử Tòa án quân sự. Đó
là những người phạm tội là quân nhân, những người có nghề nghiệp hoặc nghĩa vụ quân
sự như quân nhân tại ngũ, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng, quân nhân dự
bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động

viên, sẵn sàng chiến đấu; dân quân tự vệ trong thời gian phối thuộc với quân đội trong
chiến đấu, phục vụ chiến đấu; những người được tập trung làm nghĩa vụa quân sự do
các đơn vị quân đội trực tiếp quản lí. Những người thuộc đối tượng trên khi bị truy tố về
vụ án hình sự sẽ do Tòa án quân sự xét xử mà không phụ thuộc vào họ phạm tội gì hay
địa điểm họ phạm tội.
Ngoài ra, còn có những đối tượng không thuộc các trường hợp trên cũng do Tòa
án quân sự xét xử đó là những trường hợp phạm tội liên quan đến bí mật quân sự hoặc
gây thiệt hại cho quân đội. Bí mật quân sự là bí mật của quân sự, bí mật về an ninh quốc
phòng được quy định trong các văn bản pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

6


ban hành. Gây thiệt hại cho quân đội là gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng. tự do, danh
dự, nhân phẩm của những đối tượng trên hoặc tài sản của họ được quân đội cấp phát để
thực hiện nghĩa vụ quân sự; gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của quân đội (quy
định tại điểm 2 mục 1 Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BQPBCA).
Trong trường hợp một vụ án có cả bị can và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự và có bị can và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ trừ trường hợp tách được vụ án. Đối với những
người không còn phục vụ trong quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được
thực hiện trong thời gian phục vụ trong quân đội hoặc những người đang phục vụ trong
quân đội mà phát hiện hành vi phạm tội của họ đã được thực hiện trước khi vào quân
đội, thì Toà án quân sự xét xử những tội phạm có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây
thiệt hại cho quân đội; những tội phạm khác do Tòa án nhân dân xét xử.
Thứ hai, thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân. Tòa án nhân dân có thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình có đối tượng không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án nhân dân rộng hơn
Tòa án quân sự vì đối tượng phạm tội lớn hơn và mức độ đa dạng, phức tạp của vụ án
cao hơn..

2.3, Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.
Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ được phân định căn cứ vào nơi tội phạm được
thực hiện và nơi kết thúc điều tra vụ án.
Khoản 1 Điều 171 BLTTHS quy định: “Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình
sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện
tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có
thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra”. Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ
án hình sự là Tòa án nơi có tội phạm xẩy ra. Đối với các tội phạm kéo dài hoặc tội phạm
liên tục, khi hành vi phạm tội trong khoảng thời gian khác nhau và địa điểm khác nhau

7


thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc hành vi phạm tội. Trong trường
hợp không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa
án nơi kết thúc việc điều tra.
Khoản 2 Điều 171 quy định: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt
Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét
xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy
trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do
Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân
sự trung ương”.
Theo quy định trên thì bất kì loại tội phạm nào được thực hiện ở nước ngoài mà
xác định được nơi cư trú cuối cùng thì đều do Tòa án nhân dân tỉnh đó xét xử, Tòa án
cấp huyện không có thẩm quyền xét xử. Sở dĩ, chỉ cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh
mới đủ chuyên môn, cơ sở vật chất đáp ứng giải quyết các vụ án có yếu tố nước ngoài,
đảm bảo cho các hoạt động tố tụng ở nước ngoài, các quan hệ với các cơ quan tố tụng ở
nước ngoài trong ủy thác hoạt động tư pháp, trong tương trợ hoạt động tư pháp, trong

dẫn độ tội phạm…
Ngoài những quy định trên Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BQP-BCA còn có quy định cụ thể việc xác định thẩm quyền xét xử những
vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự: các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử
của Tòa án quân sự khu vực thuộc quân khu được xét xử theo quy định tại Điều 171
BLTTHS, còn các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân chủng hải quân và
các Tòa án quân sự khu vực quân chủng hải quân thì không áp dụng nguyên tắc lãnh
thổ.
Có nhiều trường hợp tội phạm xẩy ra trên tàu bay hoặc tàu biển đang hoạt động
ngoài không phận hoặc lãnh hải của Việt Nam thì vấn đề xác định thẩm quyền xét xử

8


như thế nào? Như chúng ta đã biết, tàu bay hoặc tàu biển của nước ta là một phần lãnh
thổ của nước ta (lãnh thổ di động); vì vậy, mọi tội phạm xảy ra ở đó thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu
bay, tàu biển được đăng kí (theo quy định tại Điều 172 BLTTHS). Tùy thuộc vào loại tội
phạm là loại tội gì để xác định cấp Tòa án xét xử.

3. Chuyển thẩm quyền xét xử vụ án hình sự.
Theo quy định tại Điều 174 BLTTHS, khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền
của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án
cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi
quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định. Trong
thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho
Viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ án. Việc
chuyển thẩm quyền xét xử vụ án hình sự được thực hiện trong hai trường hợp trước khi
mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa.
Trước khi mở phiên tòa, nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì
Tòa án phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền bất kể đó là vụ việc gì. Việc chuyển vụ

án phải do chánh án tòa án quyết định.
Trong khi phiên tòa đang diễn ra mới phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án đang xét xử thì Tòa án đó tiếp tục xét xử vụ án trừ hai trường hợp: vụ
án đang xét xử thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên hoặc vụ án thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự; và việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định.
Như vậy, pháp luật cho phép vi phạm thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ nhưng không
cho phép Tòa án cấp dưới vi phạm thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên và Tòa án
nhân dân vi phạm thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Quy định này đảm bảo cho
việc xét xử diễn ra hiệu quả hơn, linh hoạt trong việc khắc phục sai sót của Tòa án, nếu
vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án này mà việc xét xử lại được tiến hành bởi một Tòa

9


án ngang cấp khác và việc xét xử đó không làm ảnh hưởng gì đến kết quả khách quan
của vụ việc thì việc cứ để cho Tòa án đó xét xử sẽ tránh được những lãng phí, thủ tục
không cần thiết, đảm bảo vụ án được nhanh chóng, kịp thời xét xử từ đó nâng cao hiệu
quả của công tác xét xử cũng như tránh những khó khăn đối với bị can, bị cáo và những
người có liên quan.

II. Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1. Thực trạng về việc thực hiện quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án.
1.1, Tình hình chung.
Từ khi quy định mới về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được ban hành
ngành Tòa án nước ta đã thu được những thành công nhất định trong hoạt động tố tụng
hình sự nói chung và trong công tác xét xử nói riêng.
Tính từ khi được giao thẩm quyền xét xử mới về hình sự đến ngày 31/12/2007,
các Tòa án được giao thẩm quyền mới này thụ lí được 71.618 vụ hình sự với 112.203 bị

cáo trong đó số vụ thụ lí theo thẩm quyền mới là 16.057 vụ án và 25.212 bị cáo; giải
quyết được 69.706 vụ án và 107.314 bị cáo trong đó số vụ giải quyết theo thẩm quyền
mới là 14.932 vụ án với 23.034 bị cáo.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, năm 2010 toàn ngành Tòa án giải
quyết được 201.400/258.800 vụ án hình sự; nếu tính cả số vụ án được giải quyết trong
tháng 8, 9 thì tỉ lệ đạt 91,4%.
(theo nguồn: http:/www.toaan.gov.vn)
Việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án cấp huyện đã làm giảm số
lượng vụ án xét xử sơ thẩm ở Tòa án cấp tỉnh kéo theo giảm số lượng án tồn đọng, số
lượng án phúc thẩm của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao. Từ năm 2005 tới

10


nay ba tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao không còn án tồn đọng, quá hạn luật định.
Điều này cũng làm cho Tòa án nhân dân tối cao có điều kiện tập trung hơn vào chức
năng giám đốc thẩm, tái thẩm; tổng kết kinh nghiệm xét xử và hướng dẫn áp dụng pháp
luật.
Quyết định số 24/2003/QH11 về việc thi hành bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
chỉ rõ chậm nhất đến ngày 1/7/2009 phải thống nhất thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo
quy định tại khoản 1 Điều 170 BLTTHS nhưng tới nay thì vẫn chưa có sự thống nhất
này. Trên thực tiễn, số lượng các vụ án theo thẩm quyền mới tăng lên không đồng đều ở
các địa phương mà chỉ tập trung ở các tỉnh, thành phố lớn. Do đó, các Tòa án ở vùng
sâu, vùng xa số lượng các vụ án phải thụ lí, giải quyết không nhiều. Trong khi đó có
nhiều Tòa án có đủ năng lực chuyên môn để thụ lí những vụ án được quy định theo
thẩm quyền mới. Vì vậy, còn nhiều lãng phí trong việc sử dụng nhân lực, cơ sở vật chất
cho hoạt động tố tụng hình sự.
1.2, Một số hạn chế.
Bên cạnh những điểm đạt được thì còn một số hạn chế nhất định trong các quy
định pháp luật về vấn đề này. Các quy định của BLTTHS và các văn bản hướng dẫn thi

hành còn chưa đầy đủ, nhiều vấn đề còn chưa được đề cập tới, thiếu tính logic, tính hợp
lí, nhiều quy định không rõ ràng dẫn đến có nhiều cách áp dụng và gây lúng túng trong
công tác xét xử; tạo ra nhiều lỗ hổng làm cho pháp luật không theo kịp những đổi mới
của đời sống xã hội và giảm hiệu quả trong công tác phòng chống tham nhũng, hiện
tượng lách luật thường xuyên diễn ra.
Thứ nhất, khoản 2 Điều 170 quy định Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án quân sự
quân khu có thẩm quyền xét xử: “…những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp
dưới mà mình lấy lên để xét xử.” Khi đọc những từ diễn đạt một điều luật mà có cảm
giác như là văn nói, từ “mình” được sử dụng có thể nói là không hợp lí, nó dễ gây cho
người đọc có cảm giác quy định mang tính chủ quan hơn chứ không phải là khách quan.
Hơn nữa, quy định này không chỉ cụ thể những vụ án như thế nào thì Tòa án cấp trên có
quyền lấy lại từ Tòa án cấp huyện để xét xử và cũng không có văn bản nào hướng dẫn
11


thi hành. Trên thực tế, các Tòa án thường căn cứ vào Thông tư liên ngành số 02/TTLN
ngày 12/1/1989 của TANDTC; nhưng văn bản này đã hết hiệu lực. Đây là một lỗ hổng
trong quy định pháp luật dẫn đến những khó khăn, vướng mắc, thiếu thống nhất giữa
các cơ quan tiến hành tố tụng, nhiều Tòa án áp dụng tùy tiện, thiếu tính khách quan.
Thứ hai, Điều 171 quy định về việc phân định thẩm quyền theo lãnh thổ. Hiện
nay, các cơ quan tiến hành tố tụng đang rất lúng túng trong việc xác định thẩm quyền
xét xử vụ án có yếu tố nước ngoài. Khoản 2 Điều 171 chỉ quy định về vụ án xẩy ra ở
nước ngoài mà không quy định những vụ án khác có yếu tố liên quan đến nước ngoài
như bị can, bị cáo, người bị hại là người nước ngoài; trường hợp tội phạm vừa phạm tội
ở nước ngoài vừa phạm tội ở trong nước…
Đoạn 2 khoản 2 Điều 171 quy định: “Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét
xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương”. Từ “trở lên” trong câu
này không được sử dụng chính xác; nếu xét kĩ chúng ta sẽ thấy có một mâu thuẫn trong
quy định này với quy định chung về cấp xét xử sơ thẩm. Theo quy định của pháp luật

TTHS nước ta thì cấp xét xử sơ thẩm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối
cao và Tòa án quân sự trung ương. Mặt khác, cấp Tòa án cao hơn Tòa án quân sự quân
khu là Tòa án quân sự trung ương. Vậy, cấp “trở lên” này là cấp nào?
Thứ ba, Điều 174 quy định về việc chuyển vụ án có câu: “chỉ được chuyển vụ
án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử” và ở đoạn dưới lại có câu: “nếu vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra
xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền”. Với cách diễn đạt như thế này sẽ
tạo mâu thuẫn trong điều luật, làm cho người sử dụng dễ bị nhầm lẫn, hiểu sai tư tưởng
của điều luật dẫn đến áp dụng không chính xác gây hậu quả bất lợi.
Hơn nữa, không có quy định trong BLTTHS và văn bản hướng dẫn nào hướng
dẫn về trình tự, thủ tục chuyển vụ án hình sự dẫn đến việc thực hiện quy định này thiếu
thống nhất. Có trường hợp Tòa án trả về cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát chuyển

12


cho cấp có thẩm quyền truy tố; có trường hợp Tòa án chuyển thẳng cho Tòa án có thẩm
quyền.
Thứ tư, BLTTHS không phân định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân
và Tòa án quân sự. Trong pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự có quy định về thẩm quyền
của Tòa án quân sự
Ngoài những bất cập trong việc áp dụng những quy định của pháp luật về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thì còn khá nhiều vướng mắc trong công tác tổ
chức và cơ sở vật chất như: nguồn cán bộ có trình độ chuyên môn vẫn còn thiếu ở khá
nhiều Tòa án nhân dân huyện; cơ sở vật chất còn chưa đáp ứng được cho công tác tiến
hành tố tụng hình sự…
2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định về thẩm quyền xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự.
Thứ nhất, Điều 170 nên có hướng dẫn những vụ án có tính chất như thế nào thì
Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án quân sự khu vực được lấy từ Tòa án cấp dưới lên để xét

xử tránh xẩy ra sự tùy tiện trong công tác xét xử, không đánh giá được hết tính chất của
một vụ án mà việc lấy lên xét xử là cần thiết; thiếu đồng nhất trong việc áp dụng điều
luật giữa các Tòa án. Nên để cho Tòa án cấp huyện có quyền tự quyết vụ việc nào thì
cần đến sự xét xử của Tòa án cấp trên, vì chỉ có chính Tòa án cấp huyện khi nghiên cứu
vụ việc mới thấy hết được tính chất phức tạp của vụ việc và khi thấy mình không đủ
điều kiện để giải quyết thì được yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét lấy lên xét xử. Từ
“mình” trong cụm từ: “…những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình
lấy lên để xét xử.” quy định tại khoản 2 Điều 170 nên được bỏ đi để giọng điệu của điều
luật mang tính chất khách quan hơn. Góp ý sửa như sau: “…những vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp dưới mà Tòa án lấy lên để xét xử”.
Thứ hai, phải xác định lại các cấp Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự trong hệ thống Tòa án. Quy định tại khoản 1 Điều 170 đã hạn chế thẩm quyền
xét xử của Tòa án cấp huyện, không còn phù hợp với trình độ, cơ sở vật chất của đa số

13


Tòa án cấp huyện hiện nay nữa. Nhiều Tòa án cấp huyện có khả năng xét xử tốt các tội
phạm quy định ở Điều luật này như tội xâm phạm an ninh quốc gia thuộc tội ít nghiêm
trọng, tội nghiêm trọng hoặc các tội tại Điều 93, 95, 96, 222, 224, 225, 226, 293, 294,
295, 296, 322 và 323. Nếu mở rộng hơn phạm vi thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án
cấp huyện thì sẽ tận dụng, phát huy được nguồn nhân lực và cơ sở vật chất; tránh lãng
phí, tồn đọng án ở Tòa án cấp tỉnh.
Thứ ba, nên quy định riêng giữa thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân
dân với Tòa án quân sự để tránh mâu thuẫn trong cách phân định giữa BLTTHS với
Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng xét xử; hạn chế
các hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, tranh chấp về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự; hơn nữa, ảnh hưởng tới lợi ích của bị can, bị cáo và những người liên quan.
Thứ tư, Điều 171 cần quy định đầy đủ, chi tiết hơn các trường hợp vụ việc có
yếu tố nước ngoài, quy định rõ thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án đó tránh tình trạng

lúng túng trong việc xác định thẩm quyền xét xử gây ra những hậu quả xấu cho công tác
tố tụng hạn chế sự lúng túng, đùn đẩy trách nhiệm khi có vụ án có yếu tố nước ngoài.
Đồng thời nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án Việt Nam trong thời kì hội nhập như
hiện nay, đảm bảo xây dựng, phát triển pháp luật Việt Nam nói chung và công tác xét xử
nói riêng phù hợp hơn với pháp luật thế giới.
Thứ năm, nên bỏ từ “trở lên” trong đoạn 2 khoản 2 Điều 171: “Bị cáo phạm tội
ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự
cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương”.
Từ đó có những sửa đổi cho phù hợp và có sự thống nhất hơn với các quy định khác của
BLTTHS.
Thứ sáu, nên thống nhất Tòa án nhân dân hoặc Tòa án quân sự có thẩm quyền
xét xử toàn bộ vụ án hình sự nếu vụ án hình sự đó vừa có tội phạm, bị can, bị cáo thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân vừa có tội phạm, bị can, bị cáo thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án quân sự. Vì khi tách vụ án ra để xét xử thì không đảm bảo
được tính thống nhất của một cụ việc. Cho dù có sự tách bạch rõ ràng giữa hành vi
14


phạm tội và tội danh của các bị can, bị cáo thì tính chất của một vụ việc vẫn có sự thống
nhất và liên quan nhất định của nó. Quy định tách ra để xét xử theo thẩm quyền vô hình
chung làm phức tạp vụ việc lên, gây tốn kém và cũng gây nhiều khó khăn cho bị can, bị
cáo và những người liên quan. Nên để cho Tòa án nhân dân xét xử vụ án loại này và có
sự tham gia cùng xét xử của thẩm phán Tòa án quân sự ngang cấp.
Thứ bảy, Điều 174 nên được chỉnh sửa lại ngôn từ rõ ràng hơn tránh gây sự
nhầm lẫn như Điều luật hiện hành. : “chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án
chưa được xét xử” và ở đoạn dưới lại có câu: “nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án
quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa
án có thẩm quyền”. Đoạn 2 Điều 174 nên được sửa như sau: “Được chuyển vụ án cho
Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do
Chánh án Tòa án quyết định. Vụ án đã được đưa ra xét xử mới phát hiện thuộc thẩm

quyền của Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới thì không phải chuyển. Nếu vụ án thuộc thẩm
quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn
phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do
Hội đồng xét xử quyết định.”
Thứ tám, cần phải có một quy định cụ thể về trình tự, thủ tục chuyển vụ án hình
sự tránh sự tùy tiện, thiếu thống nhất trong việc chuyển vụ án ở các Tòa án khác nhau.
Nên quy định khi Tòa án nhận thấy vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền xét xử của
mình thì trả lại cho Viện kiểm sát để Viện kiểm sát chuyển cho Viện kiểm sát đúng thẩm
quyền tránh tình trạng “chuyển” “trả” lẫn lộn không theo một trình tự, thủ tục chung
nào.
Ngoài ra, để có hiệu quả hơn trong công tác xét xử thì ngoài việc phải có những
quy định phù hợp về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn phải hoàn thiện toàn
bộ hệ thống cơ quan tố tụng hình sự. Đồng thời nâng cao trình độ năng lực của đội ngũ
cán bộ hoạt động trong các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan xét xử nói
riêng; củng cố, nâng cấp chất lượng cơ sở vật chất; ứng dụng các khoa học tiên tiến vào

15


công tác điều tra, xét xử vụ án hình sự. Mặt khác, để đạt được kết quả cao nhất cũng cần
đến việc hoàn thiện các luật liên quan.

Lời kết
Những quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 có nhiều điểm tiến bộ hơn, mở rộng hơn Bộ luật tố tụng hình sự
năn1988. Từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực ngành Tòa án đã có
những thành công đáng kể, giảm tỉ lệ án tồn đọng đáng kể, số lượng vụ án xét xử phúc
thẩm, số lượng vụ án sử oan sử sai cũng giảm đi rõ rệt. Các cấp xét xử có điều kiện
phát huy khả năng của mình, sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và cơ sở vật chất kĩ
thuật. Tuy nhiên, còn khá nhiều hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung trong các quy định

này để phù hợp hơn với những thay đổi trong mọi lĩnh vực nói chung và ngành Tòa án
nói chung như hiện nay. Hi vọng Bộ luật tố tụng hình sự tiến tới sẽ được hoàn thiện
hơn.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam. Trường đại học Luật Hà Nội. NXB CAND, Hà
Nội, 2008.
2. Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam. Khoa luật- Trường đại học Quốc gia Hà Nội,
2001.
3. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003. NXB Lao động, Hà Nội, 2010.
4. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự. NXB CAND, Hà Nội, 2004.
5. Hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân các
cấp. Trần Thị Lê Na. Luận văn thạc sĩ, 2009.

17


18



×