Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Các biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội theo BLHS Việt Nam năm 1999

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.76 KB, 54 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta chủ
trương xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hơn
mười sáu năm thực hiện, chúng ta không thể phủ nhận những thành tựu mà
kinh tế thị trường mang lại đáng khả quan như tổng sản phẩm quốc nội tăng
nhanh, đời sống vật chất và tinh thần được cải thiện, trình độ dân trí nâng
cao… Tất cả những kết quả đáng mừng ấy đã tạo đà cho đất nước ta bước
đi vững chắc trong những năm tiếp theo. Bên cạnh những khả quan đó,
chúng ta cũng gặp không ít khó khăn do phải đối phó với những vấn đề
phức tạp mà “mặt trái” của nền kinh tế thị trường mang lại như nạn thất
nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo, các tệ nạn xã hội. Chính những ”mặt trái”
đó là mầm mồng cho sự phát sinh, tồn tại và gia tăng của các loại tội phạm,
trong đó có tội phạm người chưa thành niên.
Trong những năm gần đây, tình trạng phạm tội của người chưa thành
niên gia tăng về số lượng và ngày càng có chiều hướng phức tạp. Điều này
phần nào gây ra sự lo lắng cho bất cứ ai quan tâm đến thế hệ trẻ, quan tâm
đến tương lai của đất nước. Đã có nhiều bài viết nghiên cứu liên quan tới
việc phạm tội của người chưa thành niên (NCTN), và cũng đề xuất nhiều
giải pháp trong phòng chống loại tội phạm này. Tuy nhiên trên thực tế số
lượng người NCTN phạm tội vẫn chưa giảm. Một trong những nguyên
nhân của tình trạng gia tăng tội phạm chưa thành niên một phần do sự nắm
bắt các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam (BLHS) năm 1999, đặc biệt
là các quy định liên quan tới các biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng
đối với NCTN phạm tội. Mặt khác bản thân các quy định này cũng bộc lộ
những hạn chế.

1



Việc phân tích, nhân thức đúng các quy định của luật hình sự sẽ là cơ
sở của việc vận dụng đúng đắn các quy định này trong thực tiễn xét xử.
Làm được như vậy sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm do người chưa thành niên gây ra.
Với tinh thần đó, tôi chọn vấn đề “Các biện pháp tư pháp và hình
phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội theo BLHS Việt Nam năm 1999”
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cử nhân luật của mình, với hi vọng góp tiếng
nói của mình làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình liên quan đến
xử lý NCTN phạm tội, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng pháp
luật trong thực tiễn xét xử.
Phạm vi đề tài mà chúng tôi nghiên cứu là tìm hiểu một cách hệ
thống các quy định của BLHS về các biện páp tư pháp và hình phạt áp
dụng đối với NCTN phạm tội, phân biệt những quy định này với một số
quy định khác có liên quan. Đồng thời đề tài này cũng đề cập tới vấn đề
thực tiễn áp dụng để tìm ra những vướng mắc trong xét xử, qua đó đề xuất
những giải pháp nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn xét xử.
Để thể hiện được nội dung của đề tài, luận văn mà chúng tôi thực
hiện có sử dụng các phương pháp như: tổng hợp, phân tích, chứng minh,
thống kê, điều tra xã hội, lịch sử, so sánh và được tiến hành trên nền của lí
luận Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm làm cho luận văn
có tính lôgic và sức thuyết phục.
Về cơ cấu luận văn chúng tôi thực hiện bao gồm: ngoài các phần mở
đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung được chia
thành ba chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các biện pháp tư pháp và
hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội
- Chương 2: Nội dung các biện pháp tư pháp và hình phạt áp
dụng đối với NCTN phạm tội theo quy định của BLHS Việt Nam năm
1999
2



- Chương 3: Một số vấn đề thực tiễn trong việc áp dụng các biện
pháp tư pháp và hình phạt đối với NCTN phạm tội
Trong phạm vi kiến thức còn hạn hẹp và bước đầu làm quen với
công việc nghiên cứu khoa học độc lập nên nội dung luận văn không thể
tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả mong được sự tận tình giúp
đỡ và góp ý của các Thầy, Cô và các bạn sinh viên.

3


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP
TƯ PHÁP VÀ HÌNH PHẠT ÁP DỤNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực vì vậy Nhà nước đặt ra các
biện pháp hình sự để đấu tranh đối với hiện tượng tội phạm nhằm hạn chế
và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống cộng đồng. Tuy nhiên khi tội
phạm do NCTN thực hiện thì các cơ quan chức năng khi giải quyết trách
nhiệm pháp lý phải luôn đặt trong mối liên hệ với việc giáo dục, quản lý
của xã hội, của gia đình và nhà trường, thì việc xử lý này mới đạt hiệu quả
cao. Vì vậy trong BLHS Việt Nam năm 1999 đã có những quy định riêng
về trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội (tại chương X), trong đó có
những quy định về các biện pháp tư pháp và hình phạt riêng áp dụng đối
với lứa tuổi này. Để có thể hiểu rõ các quy định của BLHS về nội dung các
biện pháp tư pháp và hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội qua đó có
thể vận dụng đúng đắn vào thực tiễn xét xử, điều cần thiết là phải hiểu
được các khái niệm về NCTN phạm tội cũng như lí luận chung về các biện

pháp tư pháp và hình phạt trong luật hình sự.
1.1. KHÁI QUÁT CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP VÀ HÌNH PHẠT ĐỐI
VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm chung về tâm lý của lứa tuổi chưa thành
niên:
Về mặt lý thuyết khái niệm NCTN phạm tội có thể được hiểu một
cách đúng đắn trên cơ sở khái niệm NCTN. Trong BLHS Việt Nam không
có một quy định nào chính thức đề cập tới khái niệm NCTN mà chỉ có quy

4


định về NCTN phạm tội được quy định tại Điều 68 BLHS năm 1999
“NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định
khác của phần chung bộ luật không trái với những quy định của chương
này”(2).
Khái niệm NCTN được sử dụng trong một số văn bản của các ngành
luật khác và tất cả khái niệm đó đều xác định đối tượng NCTN là người
dưới 18 tuổi.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: “Trong phạm vi
của Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy định độ tuổi thành niên sớm
hơn”(5). Theo công ước này thì NCTN cũng chính là trẻ em.
Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Việt Nam ghi
nhận: “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16
tuổi”(7)
Điều 18 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 cũng có quy định riêng:
“Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là
NCTN”(3)

Như vậy từ những quy định trên có thể hiểu NCTN là người dưới 18
tuổi. Khái niệm này để phân biệt với người đã thành niên (là người đã đủ
18 tuổi trở lên). Tuy nhiên không phải tất cả NCTN khi có hành vi gây thiệt
hại cho xã hội đều bị coi là NCTN phạm tội. Theo quy định của Điều 68
BLHS đã nêu trên NCTN phạm tội được hiểu là những người ở độ tuổi từ
đủ 14 đến dưới 18 tuổi có hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS.
Như vậy, chỉ có người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi
phạm tội theo quy định của BLHS mới bị coi là NCTN phạm tội, người

5


dưới 14 tuổi dù có thực hiện hành vi phạm tội cũng không bị coi là NCTN
phạm tội . Quy định này xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lí của độ tuổi từ 14
tuổi đến dưới 18 tuổi. Độ tuổi này các em bắt đầu có tính độc lập và tự
hoàn thiện, nên suy nghĩ của các em có phần chín chắn hơn so với các em ở
độ tuổi dưới 14 tuổi. Tuy nhiên so với người đã thành niên các em vẫn
chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý, nhân thức vẫn còn non kém. Vì vậy
người ở độ tuổi này phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự giảm nhẹ hơn
so với người đã thành niên.
Từ các nhận định trên có thể rút ra khái niệm khoa học về NCTN
phạm tội như sau: “NCTN phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi, có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các
đặc điểm về tâm, sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm”.(21)
1.1.2 Khái niệm biện pháp tư pháp:
“Biện pháp tư pháp” là thuật ngữ trong khoa học pháp luật hình sự,
được hiểu “là các biện pháp hình sự được BLHS quy định, do các cơ quan
tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác

dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt”(13). Như vậy, biện pháp tư pháp không
phải là hình phạt mà chỉ là các biện pháp hình sự nhằm hỗ trợ hoặc thay thế
cho hình phạt trong những trường hợp nhất định. Các biện pháp này cũng
nhằm áp dụng cho những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại
đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của tập thể hoặc của công dân nhưng ít
nghiêm khắc hơn so với hình phạt.
Biện pháp tư pháp là một chế định độc lập nên cũng có những đặc
điểm riêng:
- Biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế hình sự ít nghiêm khắc
hơn hình phạt mà hậu quá pháp lý của việc áp dụng biện pháp này là người
phạm tội không bị án tích.
6


- Biện pháp tư pháp nhằm hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt.
- Biện pháp tư pháp không chỉ do tòa án áp dụng mà trong một số
trường hợp Viện kiểm sát cũng có thể áp dụng.
- Biện pháp tư pháp không chỉ áp dụng đối với người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm, mà còn áp dụng với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không bị coi là tội phạm.
Biện pháp tư pháp được pháp luật hình sự đặt ra nhằm 2 mục đích cơ
bản là :
- Hỗ trợ cho hình phạt trong trường hợp cần thiết phải xử lí cơ bản,
toàn diện người phạm tội về hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ.
- Trong trường hợp người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự
hoặc miễn hình phạt, hoặc là NCTN thì biện pháp tư pháp được áp dụng
nhằm thay thế cho hình phạt, với mục đích giáo dục, cải tạo và ngăn ngừa
khả năng gây thiệt hại đến các lợi ích chung trong tương lai.
Ngoài ra, trong trường hợp đặc biệt như trường hợp người phạm tội
mắc bệnh tâm thần, mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi thì biện

pháp tư pháp thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước là tạo điều kiện cho họ
chữa bệnh, điều này nhằm loại bỏ nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi
nguy hiểm cho xã hội.
Các biện pháp tư pháp theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999
bao gồm
- Tịch thu tang vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.
- Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai
xin lỗi.
- Bắt buộc chữa bệnh.

7


Đối với NCTN phạm tội bộ luật hình sự Việt Nam có những quy
định riêng về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với họ. Theo đó NCTN
phạm tội bị áp dụng một trong hai biện pháp tư pháp là đưa vào trường
giáo dưỡng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Biện pháp tư pháp áp
dụng đối với NCTN phạm tội không giống với biện pháp tư pháp áp dụng
với người đã thành niên. Đối với NCTN phạm tội thì các biện pháp này đặt
ra nhằm thay thế cho hình phạt, mang tính giáo dục, phòng ngừa, tạo điều
kiện thực tế để NCTN rèn luyện, cải tạo sớm trở về với cộng đồng để làm
lại cuộc đời.
1.1.3 Khái niệm hình phạt:
Trong các chế độ xã hội có nhà nước, hình phạt luôn được sử dụng là
công cụ hữu hiệu nhất để giữ gìn trật tự xã hội. Mỗi nhà nước khác nhau thì
có hệ thống hình phạt không giống nhau, tuy nhiên điểm chung là hình phạt
luôn là biện pháp nghiêm khắc nhất để trừng phạt đối với những người gây
hại cho xã hội, cho tập thể hay cho cá nhân. Trong lịch sử cũng như trong
lý luận của Luật hình sự có nhiều quan điểm khác nhau về bản chất, nội
dung và mục đích của hình phạt. Dựa trên quan niệm coi hình phạt là công

cụ để đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, nhà nước Việt Nam đã xây dựng
hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm mục đích
giáo dục, cải tạo, ngăn ngừa tội phạm.
Trong pháp luật hình sự Việt Nam, trước khi BLHS năm 1999 ra đời,
khái niệm về hình phạt mới chỉ dừng lại ở các khái niệm khoa học do các
nhà nghiên cứu đưa ra trong quá trình giảng dạy hay các công trình nghiên
cứu của mình. BLHS Việt Nam 1999 ra đời lần đầu tiên đã quy định một
cách chính thức khái niện hình phạt trong một điều luật, là cơ sở phân biệt
hình phạt với các biện pháp cưỡng chế khác của Nhà nước. Điều 26 ghi rõ:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.

8


Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết
định”.
Qua khái niệm này, có thể thấy, nội dung pháp lý của hình phạt
nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội, đó có thể là
quyền, lợi ích về thể chất và tinh thần hay tài sản hoặc các quyền và lợi ích
khác của người phạm tội, qua đó thể hiện thái độ của nhà nước là nhằm
trừng trị, lên án người phạm tội, ngoài ra cũng nhằm mục đích giáo dục,
răn đe và phòng ngừa chung.
Hình phạt có những đặc điểm riêng để phân biệt với những biện
pháp cưỡng chế khác như sau:
- Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước.
Nhà nước có rất nhiều các biện pháp khác nhau nhằm đấu tranh với
tội phạm, song hình phạt là biện pháp cưỡng chế khiêm khắc nhất. Tính
nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người bị áp dụng hình phạt có
thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế những quyền và lợi ích cơ bản nhất như

quyền tự do (hình phạt tù), quyền về tài sản (hình phạt tiền), quyền về
chính trị, thậm chí cả quyền sống (hình phạt tử hình). Người bị kết án cũng
sẽ phải chịu hậu quả pháp lý là án tích trong một thời gian nhất định theo
quy định của pháp luật.
- Hình phạt được luật hình sự quy định và do tòa án áp dụng.
BLHS Việt Nam là văn bản duy nhất quy định hình phạt đối với
người phạm tội, chúng được quy định ở cả phần chung và phần các tội
phạm gồm 344 điều. Hình phạt để áp dụng đối với người phạm tội phải
được quy định trong bộ luật hình sự (BLHS) và phải tuân theo mọi dấu
hiệu mà luật quy định. Không ai có quyền áp dụng các hình phạt ngoài
những hình phạt mà BLHS đã quy định. Và trong mọi trường hợp không

9


được áp dụng hình phạt đối với hành vi không được BLHS quy định là tội
phạm.
Cơ quan duy nhất được nhà nước trao quyền, thay mặt cho nhà nước
áp dụng hình phạt đối với người phạm tội là tòa án. Điều này được Hiến
pháp quy định rất cụ thể : “Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân
địa phương, các tòa quân sự và các toàn án khác do luật định là những cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” (6). Ngoài Tòa án không
có cơ quan nào khác được quyền quyết định hình phạt, Điều 72 Hiến pháp
1992 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa
có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
- Hình phạt chỉ có thể áp dụng với người có hành vi phạm tội.
Trong luật hình sự phong kiến Việt Nam và Trung Quốc trước đây,
hình phạt có thể không chỉ áp dụng với người phạm tội mà còn áp dụng cả
với những người thân thích của họ, điển hình như các hình phạt: “chu di
tam tộc”, “chu di cửu tộc”. Ngày nay hình phạt chỉ được áp dụng đối với cá

nhân người phạm tội, với bản thân người đã gây ra hành vi nguy hiểm cho
xã hội. Hình phạt không đặt ra với người thân của người phạm tội. Điều
này khẳng định Luật hình sự Việt Nam không chấp nhận việc chấp hành
hình phạt thay cho người phạm tội dù điều đó hoàn toàn tự nguyện.
Việc đặt ra hình phạt của Nhà nước có những mục đích rất cụ thể
được quy định tại Điều 27 BLHS năm 1999 : “Hình phạt không chỉ nhằm
trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã
hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”
Như vậy hình phạt có hai mục đích chủ yếu là trừng trị và giáo dục
người phạm tội để cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Đây được
gọi là mục đích phòng ngừa riêng đặt ra đối với bản thân người phạm tội.
10


Bên cạnh đó hình phạt cũng có mục đích phòng ngừa chung cho xã hội là
giáo dục những người khác có ý thức tuân thủ pháp luật, giữ vững trật tự an
toàn xã hội.
Hình phạt đối với NCTN phạm tội được quy định tại một chương
riêng (chương X trong BLHS Việt Nam năm 1999). So với hình phạt áp
dụng với người đã thành niên phạm tội thì hình phạt áp dụng đối với
NCTN phạm tội có phần nhẹ hơn. Hình phạt được quy định cho NCTN
phạm tội bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có
thời hạn.
Như vậy trong bảy hình phạt chính mà BLHS Việt Nam năm 1999
quy định, không áp dụng hình phạt trục xuất, tù chung thân, tử hình đối với
người chưa thành niên phạm tội. Hình phạt tù chung thân là hình phạt có
tính nghiêm khắc cao hơn rất nhiều so với hình phạt tù có thời hạn, nên
mục đích áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội không phải là giáo

dục, cải tạo mà chủ yếu nhằm trừng trị người phạm tội và hướng tới mục
đích phòng ngừa người đó tiếp tục phạm tội, cũng như phòng ngừa chung.
Bởi vậy, hình phạt này không đáp ứng nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội là
chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh
và trở thành công dân có ích cho xã hội. Chính vì lẽ đó, Nhà nước ta tỏ rõ
thái độ dứt khoát không áp dụng hình phạt tù chung thân với NCTN phạm
tội. Cũng với lý lẽ trên, hình phạt tử hình cũng không được áp dụng đối với
NCTN phạm tội. Điều này thể hiện tính nhân đạo cao trong Luật hình sự
nước ta, không lấy trừng trị làm mục đích của hình phạt áp dụng đối với
người phạm tội ở lứa tuổi chưa thành niên.
Ngoài ra, NCTN phạm tội cũng không bị áp dụng các hình phạt bổ
sung.
Xuất phát từ chính sách về hình sự của Nhà nước ta chủ yếu là giáo
dục, giúp đỡ NCTN phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở

11


thành công dân có ích cho xã hội. Trên cơ sở được đối xử theo cách thức
phù hợp lứa tuổi, trên tinh thần được tôn trọng về phẩm cách, phẩm giá, tôn
trọng quyền con người, các quyền tự do cơ bản và lợi ích hợp pháp khác
của công dân. Do NCTN phạm tội là người chưa phát triển đầy đủ về phẩm
chất lẫn tinh thần, năng lực hành vi, năng lực pháp lý còn hạn chế, nhân
thức, lý trí, tư duy, tâm sinh lý chưa ổn định, chưa đủ khả năng để cân nhắc
hành động bản thân. Do còn bồng bột thiếu kinh nghiệm xã hội nên dễ bị
ảnh hưởng tác động của môi trường xung quanh. Vì vậy, việc xử lý NCTN
phạm tội cần phải có chính sách riêng, không thể xử lý giống như đối với
người đã thành niên phạm tội.

1.2. Các nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội:

Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu, khái niệm nguyên tắc xử lý
NCTN phạm tội được hiểu như sau: “Nguyên tắc xử lý về hình sự đối với
NCTN là tổng hợp các quy phạm của pháp luật hình sự thực định thể hiện
tính nhân đạo của chính sách hình sự của Nhà nước để giải quyết vấn đề
trách nhiệm hình sự của NCTN phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn so với
mức độ trách nhiệm hình sự của người thành niên”(21).
Trước khi Nhà nước ta ban hành BLHS, chưa có sự ghi nhận chính
thức nào về các nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội. Chỉ đến khi
BLHS Việt Nam năm 1985 ra đời, các nguyên tắc này mới chính thức được
quy định tại Điều 59 và đến nay theo BLHS năm 1999, các nguyên tắc xử
lý NCTN phạm tội cũng đã được quy định tại Điều 69.
Từ quy định của Điều 69 BLHS, chúng ta có thể rút ra một số đặc
điểm cơ bản của các nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội như sau:

12


”1-Việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho
xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của
NCTN, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận
thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”.
Nguyên tắc trên cho thấy về cơ bản, Nhà nước không nhằm mục đích
xử lý NCTN phạm tội về hình sự mà chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
tích cực sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân có
ích. Ngoài ra khi xem xét để quyết định hình phạt các cơ quan có thẩm
quyền cần nhìn nhận tổng quát mọi yếu tố tác động đến khả năng nhận thức
của đối tượng chưa thành niên dẫn đến việc họ gây ra tội phạm. Sự hình

thành và phát triển nhân cách cũng như đặc điểm nhân thân cảu NCTN chịu
sự chi phối và bị quy định bởi sự giáo dục của gia đình, nhà trường và xã
hội. Đôi khi NCTN phạm tội không chỉ là chủ thể của hành vi phạm tội mà
còn là sản phẩm của xã hội. Đối với NCTN thì những thiếu sót của việc
giáo dục trong gia đình, nhà trường… nhiều khi lại là nguyên nhân trực tiếp
đẩy họ vào con đường phạm tội. Do đó nguyên tắc này cũng quy định các
cơ quan tiến hành tố tụng không những phải xác định khả năng nhận thức
của NCTN về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do
mình gây ra, mà còn phải xác định họ có bị người khác xúi giục không,
những nguyên nhân, điều kiện nào dẫn họ đến việc thực hiện tội phạm, từ
đó đưa ra hình phạt thích hợp nhằm làm phát huy tác dụng của việc giáo
dục họ.
”2-NCTN phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người
đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có

13


nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát, giáo dục.”
Trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự, các cơ quan có thẩm quyền
tương ứng đều có thể miến trách nhiệm hình sự cho NCTN phạm tội khi họ
có đầy đủ những điều kiện do pháp luật hình sự quy định đó là: phạm tội ít
nghiêm trọng hoặc nghiêm trong nhưng gây hại không lớn; có nhiều tình
tiết giảm nhẹ; được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
”3-Việc truy cứu trách nhiệm hình sự NCTN phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải
căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân
thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”
Theo nguyên tắc này thì không phải mọi trường hợp NCTN phạm tội

đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự, việc truy cứu trách nhiệm hình sự và
áp dụng hình phạt đối với họ chỉ được đặt ra trong trường hợp người đó
phạm tội ở mức độ nghiêm trọng nhất định, nhân thân xấu và xét thấy các
biện pháp giáo dục, tác động khác của xã hội không đủ hiệu lực để giáo
dục, cải tạo riêng và phòng ngừa chung.
”4-Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối
với NCTN phạm tội, thì toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp
được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này”
Tòa án xem xét, căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án, các đặc
điểm nhân thân của người phạm tội, yêu cầu của việc phòng ngừa chung
nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì tòa án có thể áp dụng
một trong các biện pháp tư pháp giành riêng cho NCTN phạm tội. Đây là
sự thay thế cho hình phạt.
”5-Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với NCTN phạm
tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho NCTN phạm tội được hưởng

14


mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội
tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với NCTN phạm tội ở độ tuổi từ
đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với NCTN phạm tội.”
Nguyên tắc này mang tính thống nhất với các nguyên tắc nêu trên,
hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội chỉ mang tính chất giáo dục và
phòng ngừa mà không nhằm mục đích trừng trị người phạm tội. Hình phạt
tù chung thân và tử hình có mục đích trừng trị nghiêm khắc, tước đoạt
quyền tự do và quyền sống của người phạm tội. Vì lẽ đó, hai hình phạt này
không được áp dụng đối với NCTN phạm tội. Ngoài ra, khi áp dụng hình

phạt tù có thời hạn, Tòa án cho NCTN phạm tội được hưởng mức án nhẹ
hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Hình phạt tiền với người chưa thành niên mới được quy định trong
BLHS năm 1999 là hình phạt chính, tuy nhiên hình phạt này chỉ được áp
dụng với NCTN phạm tội ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và có
thu nhập hoặc tài sản riêng. Như vậy Luật không cho phép áp dụng hình
phạt tiền đối với NCTN phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
”6-Án đã tuyên đối với NCTN phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì
không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.”
Đối với tội phạm mà NCTN phạm phải khi chưa đủ 16 tuổi sẽ không
để lại án tích cho họ. Đây là điều quan trọng trong việc tạo điều kiện cho
họ làm lại cuộc đời mà không chịu những mặc cảm xã hội, giúp họ rất
nhiều để trở thành người có ích. Những sai phạm mà người phạm tội thực
hiện ở độ tuổi chưa thành niên không bị coi là tái phạm.

15


Tóm lại những nguyên tắc xử lý NCTN quy định tại Điều 69 BLHS
Việt Nam năm 1999 là nguyên tắc cơ bản của toàn bộ quá trình xử lý
NCTN phạm tội, có tính định hướng cho mọi giai đoạn xử lý.
1.3. VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHẾ ĐỊNH CÁC BIỆN
PHÁP TƯ PHÁP VÀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985.
Sau khi cách mạng tháng 8 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985,
nước ta trải qua một thời kì lịch sử đầy biến động, xã hội còn nhiều khó
khăn nên công tác xây dựng pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, đặc
biệt là các quy phạm quy định trách nhiệm hình sự của NCTN còn nhiều
hạn chế. Qua tìm hiểu riêng về các chế định liện quan đến trách nhiệm hình

sự của NCTN phạm tội đã cho thấy những nét nổi bật của pháp luật thời kì
này như sau:
Pháp luật thời kì này phân biệt NCTN với người đã thành niên ở độ
tuổi, theo đó “Người vị thành niên được hiểu là con trai hay con gái chưa
đủ 18 tuổi”(16). Điều này cho thấy pháp luật thời kì này cũng định nghĩa
NCTN là người dưới 18 tuổi. Đây là cơ sở để dựa vào đó các cơ quan có
thẩm quyền giải quyết những vấn đề liên quan đến NCTN.
Pháp luật thời kì này cũng đã có sự quy định rõ ràng độ tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự, nghĩa là không phải mọi trường hợp người phạm
tội dưới 18 đều phải chịu trách nhiệm hình sự với mọi tội mà có quy định
rõ ràng độ tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và loại tội phải chịu, cụ thể
là “Nói chung, đối với trẻ em hư dưới 14 tuổi thì không đưa ra tòa án xét
xử; từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần thiết phải
đưa ra xét xử thì có châm chước đến tuổi còn non trẻ của chún; riêng đối
với loại từ 14 đến 16 tuổi, chỉ nên xét xử những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng”(20).
16


- Theo quy định trên, các nhà làm luật cũng đã có sự tách bạch độ
tuổi và những trường hợp sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, tuy chưa rõ
ràng nhưng có thể thấy giới hạn là từ 14 đến dưới 18 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự trong trường hợp cần thiết, nhưng có được xem xét đến tuổi
còn non trẻ: còn ở độ tuổi từ 14 đến 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Tuy vậy, không phải mọi
trường hợp người từ đủ 14 tuổi trở lên phạm tội đều bị đưa ra xét xử, Tòa
án nhân dân tối cao đã đưa ra quy định: “Đối với những người từ 14 tuổi
trở lên đến 16 tuổi chỉ nên truy tố trong những trường hợp phạm tội
nghiêm trọng như giết người, cướp của, hiếp dâm…Riêng về hiếp dâm nói
chung vẫn chủ yếu là giáo dục và cũng chỉ nên truy tố, xét xử trong trường

hợp nghiêm trọng”(20). Qua quy định trên, các nhà làm luật đã xem xét trách
nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội không chỉ qua hành vi phạm tội họ
đã thực hiện mà còn dựa trên sự đánh giá về mức độ nhận thức của bản
thân NCTN phạm tội về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ
thực hiện. Trong một số trường hợp cá biệt pháp luật thời kì này cân nhắc
xem có đưa ra xét xử người phạm tội dưới 14 tuổi không, nhưng đường lối
xử lý chung vẫn là “đưa vào trường trẻ em hư” .
- Đối với những trẻ em hư chưa đến mức độ phải chịu hình phạt, các
nhà làm luật đã đặt ra các biện pháp tư pháp nhằm giáo dục họ. Theo quyết
định số 217_TTg ngày 18-12-1967 của Thủ tướng Chính phủ: “Những
thiếu niên hư được đưa vào trường phổ thông công nông nghiệp là những
thiếu niên hư từ 9 đến 17 tuổi đi lang thang trộm cắp nhiều lần, có lối sống
sa đọa, trụy lạc đã được gia đình, đoàn thể, nhà trường và chính quyền tận
tình giúo đỡ nhiều lần nhưng không sửa chữa” (17). Những đối tượng này sẽ
bị đưa vào giáo dục tại trường phổ thông công nông nghiệp trong thời gian
là hai năm. Thời gian này sẽ được rút ngắn tùy thuộc vào mức độ tiến bộ
của họ. Đây có thể coi là biện pháp nhằm tạo điều kiện cho những NCTN
phạm tội sớm được trở về với cuộc sống bình thường.
17


- Theo Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao số 329-HS2 ngày 11
tháng 2 năm 1967, hình phạt đặt ra với NCTN phạm tội ở thời kì này cũng
được xem xét giảm nhẹ hơn so với người thành niên, “chỉ vào khoảng một
phần hai mức án đối với người lớn”
Như vậy, tuy còn nhiều hạn chế nhưng có thể thấy pháp luật thời kì
này đã quy định khá cụ thể lứa tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự và hình
phạt, bên cạnh đó việc xem xét trách nhiệm hình sự của NCTN phạm tội
phải dựa trên nguyên tắc giảm nhẹ và mang tính giáo dục, phòng ngừa là
chủ yếu.

1.3.2. Giai đoạn từ khi có BLHS năm 1985 đến trước khi ban hành BLHS
năm 1999:
BLHS năm 1985 được Quốc hội chính thức thông qua tại kì họp thứ
IX Quốc hội khóa 6 là một bước tiến vượt bậc trong công tác lập pháp. Lần
đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự ở nước ta, trách nhiệm hình sự của
NCTN phạm tội được quy định ở một chương riêng, hoàn chỉnh (Chương
VII) với tên gọi: “Những quy định đối với người chưa thành niên phạm
tội”, đã quy định khá đầy đủ các vấn đề liên quan đến trách nhiệm hình sự
của NCTN phạm tội.
Theo quy định của BLHS năm 1985 thì “Người từ đủ 14 tuổi trở lên
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm
nghiêm trọng do cố ý, và người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về mọi tội phạm”.
Như vậy, các nhà làm luật đã quy định rất cụ thể độ tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự cũng như loại tội mà họ phải chịu. So với trước đây thì
đây là một bước tiến vượt bậc của pháp luật hình sự thời kì này. Theo
khoản 2 điều 8 BLHS năm 1985 thì “Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm
gây nguy hại lớn cho xã hội mà mắc cao nhất của khung hình phạt đối với
tội ấy là trên 5 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Những tội phạm khác
18


là tội phạm ít nghiêm trọng”, quy định này cho thấy, NCTN phạm tội ở độ
tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi tội mà
họ thực hiện là tội nghiêm trọng với lỗi cố ý, còn nếu tội đó là tội ít nghiêm
trọng, hoặc nghiêm trọng nhưng lại thực hiện với lỗi vô ý thì sẽ không phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Lần đầu tiên luật hình sự Việt nam quy định cụ thể những nguyên tắc
xử lý đối với NCTN phạm tội, Điều 59 BLHS năm 1985 qui định rõ ràng
năm nguyên tắc cơ bản để chỉ ra đường lối xử lý cụ thể đối với NCTN

phạm tội. Năm nguyên tắc này cho thấy đường lối xử lý của Nhà nước ta
đối NCTN phạm tội hết sức nhân đạo, mọi biện pháp đều chủ yếu nhằm
giáo dục, ngăn ngừa, giúp đỡ họ sửa chữa lỗi lầm, trong trường hợp cần
đưa ra hình phạt thì hình phạt cũng ở mức độ nhẹ hơn so với người thành
niên, và chỉ trong trường hợp thật cần thiết trên cơ sở xem xét tổng hợp các
yêu tố về đặc điểm nhân thân và khả năng nhận thức của họ về tính chất
nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi mà họ gây ra.
Bên cạnh việc quy định hình phạt đối với NCTN phạm tội, BLHS
năm 1985 còn quy định các biện pháp tư pháp nhằm thay thế cho các hình
phạt trong những trường hợp NCTN phạm tội chưa đến mức phải chịu hình
phạt. Các nhà làm luật đã đưa ra 2 biện pháp là “buộc phải chịu thử thách”
và “đưa vào trường giáo dưỡng” (Điều 60). Biện pháp buộc phải chịu thử
thách sẽ được áp dụng trong trường hợp NCTN phạm tội ít nghiêm trọng,
thời gian thử thách là từ 1 đến 2 năm, thời gian này có thể rút ngắnphụ
thuộc vào sự tiến bộ của họ. Còn biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng sẽ
được áp dụng với NCTN phạm tội có nhân thân và môi trường đặc biệt,
đồng thời do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà xem xét.
Thời hạn chấp hành là từ 1 đến 3 năm, thời gian này cũng có thể được rút
ngắn tùy theo mức độ tiến bộ của họ. Hai biện pháp này có tính chất thay
thế hình phạt nhằm mục đích cải tạo, giáo dục là chính.

19


Ngoài ra BLHS năm 1985 cũng quy định các hình phạt chính áp
dụng với NCTN phạm tội tại Điều 60, khoản 2 bao gồm:
-Cảnh cáo;
-Cải tạo không giam giữ;
-Tù có thời hạn.
Như vậy, pháp luật hình sự không quy định hình phạt phạt tiền,

chung thân và tử hình đối với NCTN phạm tội. Hình phạt tiền không được
áp dụng do nguyên nhân NCTN phạm tội là những người hầu hết chưa có
khả năng tự lập về kinh tế, đồng thời không khấu trừ thu nhập của họ khi
họ chịu hình phạt cải tạo không giam giữ (Điều 63). Hai hình phạt nghiêm
khắc nhất là tù chung thân và tử hình không được áp dụng đối với NCTN,
điều này cho thấy Nhà nước luôn luôn tạo điều kiện cho NCTN phạm tội
có cơ hội trở lại với cuộc sống. Đây được coi là nguyên tắc mang tính chất
nhân đạo sâu sắc, nên trong các lần sửa đổi sau, nguyên tắc này vẫn còn
được ghi nhận (và vẫn được giữ nguyên trong BLHS năm 1999).
Đối với hình phạt tù có thời hạn Điều 64 BLHS năm 1985 quy định:
“1.Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử
hình, thì mức hình phạt cáo nhất áp dụng đối với người chưa thành niên từ
đủ 16 tuổi trở lên khi phạm tội là hai mươi năm tù và đối với người từ đủ
14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi khi phạm tội là mười lăm năm tù”
“2.Nếu điều luật quy định hình phạt cao nhất là hai mươi năm tù thì
mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là
không quá hai mươi năm tù”
Đây là nguyên tắc áp dụng hình phạt tù đối với NCTN phạm tội.
Điều luật quy định sự khác biệt về mức cao nhất của khung hình phạt có
thể áp dụng đối với NCTN phạm tội.

20


Điều 67 quy định về việc xóa án tích đối với NCTN phạm tội, theo
đó thì NCTN phạm tội nếu được áp dụng các biện pháp tư pháp thì không
bị coi là có án tích, và thời hạn xóa án cũng chỉ bằng một nửa thời hạn quy
định đối với người thành niên.
Qua phân tích ở trên, có thể thấy BLHS năm 1985 đã qui định một
cách có hệ thống và đầy đủ các vấn đề liên quan đến NCTN phạm tội, từ độ

tuổi để xác định trách nhiệm hình sự đến các nguyên tắc, các biện pháp tư
pháp, hình phạt, giảm hình phạt và xóa án tích. Tuy còn nhiều hạn chế
nhưng các quy định đó đã thể hiện mục đích lấy giáo dục phòng ngừa là
chính khi áp dụng trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội.
Sau mười lăm năm áp dụng với bốn lần sửa đổi bổ sung, BLHS năm
1985 đã bộc lộ những hạn chế đòi hỏi phải có sự thay thế bằng một bộ luật
mới phù hợp hơn với tình hình mới. Với tinh thần đó, ngày 21 tháng 12
năm 1999, Quốc hội khóa X, kì họp thứ 6 đã thông qua BLHS mới (gọi tắt
là BLHS năm 1999) để thay thế cho BLHS năm 1985. Theo sự thay đổi đó
thì các qui định liên quan đến NCTN phạm tội cũng được sửa đổi cho phù
hợp hơn.
BLHS năm 1999 vẫn giữ nguyên việc xác định độ tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự, tuy nhiên về các biện pháp tư pháp và hình phạt thì có
một số thay đổi.Theo Điều 60 BLHS 1985 các biện pháp tư pháp áp dụng
đối với NCTN phạm tội bao gồm:
- Buộc phải chịu thử thách
- Đưa vào trường giáo dưỡng
Điều 70 BLHS năm 1999 quy định các biện pháp tư pháp áp dụng đối với
NCTN phạm tội là:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
- Đưa vào trường giáo dưỡng

21


Như vậy, BLHS năm 1999 đã thay thế biện pháp tư pháp “Buộc phải
chịu thử thách” bằng biện pháp “Giáo dục tại xã phường thị trấn”. Việc
thay đổi này không chỉ về mặt tên gọi mà sau đó là cả một cơ chế thực hiện
chặt chẽ. Và các hình phạt cũng có sự thay đổi, Theo BLHS năm 1985 các
hình phạt đối với NCTN phạm tội gồm:

- Cảnh cáo
- Cải tạo không giam gữ
- Tù có thời hạn
BLHS năm 1999 đã bổ sung thêm hình phạt tiền áp dụng đối với NCTN
phạm tội từ đủ 16 đến dưới 18 nếu như người đó có thu nhập hoặc có tài
sản riêng. Như vậy các hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội theo
BLHS năm 1999 là:
- Cảnh cáo
- Phạt tiền
- Cải tạo không giam giữ
- Tù có thời hạn
Nhìn chung, tinh thần của BLHS năm 1985 vẫn hầu như được giữ
nguyên, việc thay đổi tên gọi biện pháp tư pháp và bổ sung thêm hình phạt
nhằm tăng sự phù hợp với những thay đổi của cuộc sống. Tính nhân đạo
trong các quy định vẫn được giữ nguyên và mục đích của trách nhiệm hình
sự đối với NCTN phạm tội vẫn chủ yếu là nhằm giáo dục, phòng ngừa,
giúp cho họ làm lại cuộc đời.
Để thấy được rõ hơn sự phù hợp của những quy định mới trong
BLHS năm 1999, chúng ta cần tìm hiểu rõ hơn về các biện pháp tư pháp và
hình phạt đối với NCTN phạm tội được quy định trong BLHS năm 1999.

22


Chương 2
NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP VÀ HÌNH PHẠT ÁP DỤNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999

2.1 CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NCTN PHẠM TỘI THEO

BLHS NĂM 1999:
Một trong các nguyên tắc xử lý NCTN phạm tội là việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với họ là biện pháp cần thiết cuối cùng. Trong
trường hợp buộc phải đưa ra xét xử, Tòa án phải dựa trên sự đánh giá tổng
hợp các căn cứ: tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội cũng
như nhân thân của người phạm tội, để lựa chọn biện pháp xử lý thích hợp,
có thể là biện pháp tư pháp hay hình phạt do BLHS quy định áp dụng với
NCTN phạm tội. Theo Điều 70 BLHS, các biện pháp tư pháp bao gồm:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
- Đưa vào trường giáo dưỡng.
Đồng thời theo Điều 71 BLHS, hình phạt được áp dụng với NCTN phạm
tội là:
- Cảnh cáo
- Phạt tiền
- Cải tạo không giam giữ
- Tù có thời hạn.
Như vậy, việc làm rõ nội dung của các biện pháp tư pháp cũng như hình
phạt quy định đối với NCTN phạm tội có ý nghĩa quan trọng cho việc áp
dụng trong thực tiễn.

23


2.1.1. Biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn:
Điều 70 khoản 2 BLHS năm 1999 quy định như sau: “Tòa án có thể
áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai
năm đối với NCTN phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ
những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát,
giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Tòa

án giao trách nhiệm.”
Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp do Tòa án
quyết định đối với NCTN phạm tội nhằm tạo điều kiện cho người đó lao
động, học tập ngay trong môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát
giúp đỡ của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tổ chức xã hội và gia
đình. Với quy định trên đây, biện pháp tư pháp này chỉ được áp dụng đối
với NCTN phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng. Tội ít nghiêm
trọng là tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đến ba năm tù và tội nghiêm trọng là tội có mức cao nhất của
khung hình phạt đến bảy năm tù (Điều 8 khoản 3 BLHS năm 1999). Đồng
thời căn cứ vào những điều kiện khác như các tình tiết giảm nhẹ, nhân thân
tốt, người phạm tội đã có thái độ ăn năn, hối cải sau khi phạm tội, có nơi
thường trú ổn định và môi trường sống của họ thuận lợi cho việc giáo dục
và cải tạo, xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với họ.
Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mang tính giáo dục,
phòng ngừa và có thể thay thế hình phạt, nhằm tạo cơ hội cho NCTN phạm
tội được lao động, học tập trong môi trường xã hội. Biện pháp này được
các nhà làm luật đánh giá là đạt hiệu quả cao trong việc giáo dục NCTN
phạm tội nên trước đây trong BLHS năm 1985 đã quy định biện pháp này
với tên gọi “Buộc phải chịu thử thách”, đến BLHS năm 1999, biện pháp
này tiếp tục được quy định dưới một tên gọi khác “giáo dục tại xã, phường,

24


thị trấn”. Về cơ bản, hai biện pháp này là giống nhau, việc đổi tên biện
pháp nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đồng thời so với biện pháp
“Buộc phải chịu thử thách”, biện pháp “giáo dục tại xã, phường, thị trấn”
có phần giảm nhẹ, áp dụng đối với cả trường hợp phạm tội nghiêm trọng.
Như vậy, đối tượng áp dụng biện pháp này đã được mở rộng hơn so với

BLHS năm 1985. Theo chúng tôi, việc thay đổi tên gọi như vậy là hoàn
toàn hợp lý, phản ánh được cơ chế thực hiện của biện pháp này trong thực
tiễn.
Theo Nghị định số 59/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ
quy định chi tiết việc thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn
đối với NCTN phạm tội. Điều 1 Nghị định này ghi rõ: “biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn do Tòa án quyết định đối với NCTN phạm tội nhằm
tạo điều kiện cho người đó lao động, học tập tại cộng đồng và chứng tỏ sự
hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám
sát, giúp đỡ của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, tổ chức xã hội và
gia đình”.(9)
Như vậy, giáo dục tại xã, phường, thị trấn giúp cho NCTN phạm tội
không phải chịu mặc cảm về tội lỗi của mình, khuyến khích họ nhanh
chóng hối cải và tự giác tu dưỡng, rèn luyện để sửa chữa sai lầm. Điều này
là phù hợp với các quy định của Quy tắc Riyadh về phòng ngừa NCTN
phạm tội coi “việc phòng ngừa tội phạm ở NCTN là một bộ phận chính yếu
của phòng ngừa tội phạm trong xã hội” và “cần tránh kết tội và xử phạt
trẻ em về một hành vi không gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho sự phát
triển của các em hay làm nguy hại cho người khác”.(18)
Trong thời gian được giáo dục, người phạm tội phải chấp hành các
nghĩa vụ đặt riêng cho biện pháp này về học tập, lao động tuân theo pháp
luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ
chức xã hội được Tòa án giao trách nhiệm. Các nghĩa vụ này được cụ thể

25


×