Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Điều chỉnh pháp luật đối hoạt động mua, bán nợ tổ chức tín dụng Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.95 KB, 49 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Mai

1

Tô Thị Thanh

Lời mở đầu
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu và là đòi hỏi
khách quan của quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Xu thế này
đang dần bao trùm lên hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có
lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Cũng nh các hiện tợng khác, xu thế toàn cầu
hoá cũng có tính hai mặt. Một mặt, nó có tác dụng thúc đẩy quá trình hợp tác
và phụ thuộc lẫn nhau giữa các lĩnh vực của các nền kinh tế. Mặt khác, nó
cũng làm gia tăng cạnh tranh và đặt ra những thách thức đối với năng lực và
trình độ của mỗi quốc gia. Chính điều này đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những
chủ trơng, chính sách phù hợp để tham gia vào quá trình này.
Không để lỡ cơ hội tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, Việt Nam đã liên
tiếp ban hành các văn bản pháp luật trong tất cả các lĩnh vực với nỗ lực cải
thiện môi trờng pháp lý cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế theo hớng
thị trờng. Sự ra đời của Luật các tổ chức tín dụng và Quy chế mua bán nợ của
các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 140/QĐ-NHNN14 là
một nỗ lực đáng kể của chính quyền trong việc đa các hình thức tín dụng mới
vào phục vụ nhu cầu phát triển nền kinh tế quốc dân.
Với tính cách là một hình thức tín dụng mới đợc du nhập vào Việt Nam,
vấn đề mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng rất cần đợc quan tâm nghiên cứu
để trên cơ sở đó góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật đối với hoạt động
mua, bán nợ. Nhằm góp phần làm rõ cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với hoạt
động mua bán nợ, tôi mạnh dạn chọn vấn đề: Điều chỉnh bằng pháp luật đối
hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam làm đề tài


cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Trong khuôn khổ hạn chế của một khoá luận tốt nghiệp, công trình này
chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động mua, bán
nợ; nội dung các quy định của pháp luật về hoạt động mua, bán nợ; thực tiễn
áp dụng hoạt động mua, bán nợ để trên cơ sở đó đa ra một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ trong thời gian tới.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, khoá luận đợc bố cục gồm 3 chơng:
Chơng 1: Tổng quan về hoạt động mua bán nợ và vai trò của pháp
luật
Chơng 2: Điều chỉnh bằng pháp luật đối hoạt động mua bán nợ của
các tổ chức tín dụng
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

2

Tô Thị Thanh

Chơng 3: Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ của
các tổ chức tín dụng
Khi nghiên cứu đề tài này, khoá luận đã vận dụng các phơng pháp duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử và các phơng pháp nghiên cứu khoa học cụ thể nh
phơng pháp so sánh, phơng pháp thống kê, phơng pháp phân tích, phơng pháp
tổng hợp, phơng pháp quy nạp nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên
cứu của đề tài.

Do tính chất phức tạp của đề tài, sự hạn chế về thời gian, t liệu cũng nh
điều kiện mới làm quen với công tác nghiên cứu, chắc chắn rằng khoá luận sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất mong muốn nhận đợc
sự đóng góp chân thành và thiện chí của các quý Thầy, cô giáo và các bạn
quan tâm tới đề tài này để tác giả có điều hoàn thiện trong những lần nghiên
cứu tiếp theo.

Chơng 1
Tổng quan về hoạt động mua bán nợ
và vai trò của pháp luật
1.1. tổng quan về hoạt động mua, bán nợ
1.1.1. Bối cảnh ra đời của hoạt động mua, bán nợ
Trong những năm gần đây, các chủ thể tham gia thị trờng tài chính quốc tế
đang sử dụng rộng rãi một nghiệp vụ mới là mua, bán nợ. Nghiệp vụ này có
công dụng chính là làm tăng tính thanh khoản và tính hiệu quả trong việc đầu
t vốn trên thị trờng của các nhà đầu t. Ngoài ra, nghiệp vụ mua, bán nợ còn đợc xem là công cụ để Nhà nớc tiến hành điều tiết, kiểm soát các hoạt động tài
chính, tiền tệ trong nền kinh tế nhằm hớng tới một nền kinh tế cờng thịnh và
phát triển ổn định1. Lý do chính cho sự tồn tại của nghiệp vụ mua, bán nợ
trong điều kiện hiện nay chính là nhu cầu đa dạng hoá các hoạt động kinh
TS Nguyễn Nh Minh Mua, bán nợ một sản phẩm tất yếu của kinh tế thị trờng. Tạp chí ngân hàng số
3/2000
1

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai


3

Tô Thị Thanh

doanh, xử lý những thua lỗ, yếu kém một cách tích cực bằng cách dịch chuyển
nhanh chóng vốn đầu t vào lĩnh vực vừa an toàn, vừa mang lại lợi nhuận cao.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của các hoạt động kinh tế, việc mua,
bán nợ nói chung và nghiệp vụ mua, bán các khoản nợ thơng mại nói riêng
cũng ngày càng gia tăng ở nhiều nớc trên thế giới, với sự tham gia của các
định chế trung gian tài chính mà điển hình là các ngân hàng. Nghiệp vụ này
không chỉ có sự tham gia tích cực của các định chế tài chính trung gian mà
trên thực tế, chính quyền cũng tỏ ra rất quan tâm đến hoạt động này, đặc biệt
là các cơ quan có chức năng quản lý tài chính và tiền tệ của đất nớc nh Bộ Tài
Chính và Ngân hàng Trung ơng. Ban đầu, hoạt động mua bán nợ xuất hiện nh
là sự cần thiết phải giải quyết các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn nhằm xử ký
hậu quả kinh doanh yếu kém và từng bớc lành mạnh hoá hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Tuy nhiên,
cùng với thời gian, do nhu cầu luân chuyển vốn trong nền kinh tế, dần dần
những khoản nợ nh tài sản có của các doanh nghiệp và ngân hàng đợc đem ra
bán trở thành rộng rãi hơn trên thị trờng, trong đó bao gồm các khoản nợ có
mức độ rủi ro cao và thậm chí là cả những khoản nợ lành mạnh.
Thực tiễn mua, bán nợ trên thế giới cho thấy rằng các khoản nợ đợc giao
dịch trên thị trờng rất đa dạng, bao gồm các khoản nợ của Chính phủ dới dạng
trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nớc; các khoản nợ của doanh nghiệp và cá
nhân phát sinh trong đời sống dân sự và thơng mại; những khoản nợ của các
định chế tài chính trung gian; những khoản nợ bằng ngoại tệ có liên quan đến
chủ nợ là các tổ chức và cá nhân nớc ngoài nh nợ Tổ chức quốc tế, nợ Chính
phủ nớc ngoài và nợ các tổ chức kinh tế, cá nhân nớc ngoài. Có thể nhận thấy
rằng sự gia tăng hoạt động mua, bán nợ trên thị trờng tài chính lâu nay là do

sự gặp gỡ tự nhiên của nguồn cung các khoản nợ cần bán từ phía các doanh
nghiệp và nhu cầu mua nợ nh là một cơ hội kinh doanh của các tổ chức kinh
doanh dịch vụ tài chính chuyên nghiệp nh các ngân hàng. Mặt khác, kinh
nghiệm điều hành nền kinh tế thị trờng đã làm thay đổi cách nhìn nhận của
Chính phủ đối với việc xử lý các khoản nợ có vấn đề theo xu hớng nới rộng
khả năng linh hoạt trong hoạt động đầu t của các doanh nghiệp và những định
chế tài chính2. Ngày nay, việc mua, bán nợ càng lúc càng thay đổi tuỳ theo
nhu cầu phát triển của thị trờng và có thể chứa đựng những tính chất khác hẳn
so với các giao dịch ban đầu của thị trờng mua, bán nợ.
TS Nguyễn Nh Minh Mua, bán nợ một sản phẩm tất yếu của kinh tế thị trờng. Tạp chí ngân hàng số
3/2000
2

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

4

Tô Thị Thanh

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ của tổ chức
tín dụng
Trên thị trờng mua, bán nợ ở nớc ta hiện nay, nghiệp vụ mua, bán nợ có
thể đợc thực hiện bởi các tổ chức tín dụng và một số chủ thể khác nh công ty
mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp; công ty quản lý nợ và khai

thác tài sản trực thuộc các ngân hàng thơng mại; các tổ chức, cá nhân nớc
ngoài... Tuy nhiên, do khuôn khổ hạn chế của luận văn này, ngời viết chỉ đề
cập đến khái niệm, đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín
dụng để thông qua đó làm rõ bản chất của giao dịch này trong hoạt động kinh
doanh ngân hàng.
1.1.2.1. Khái niệm mua, bán nợ của tổ chức tín dụng
Trên thực tế, các đạo luật quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng nh Luật
ngân hàng nhà nớc năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
ngân hàng nhà nớc (năm 2003), Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng (năm 2004) và những
văn bản hớng dẫn thi hành các đạo luật này cũng cha có một định nghĩa chính
thức nào về hoạt động mua, bán nợ. Tuy nhiên, thuật ngữ mua, bán nợ cuối
cùng cũng đã đợc đề cập nh một định nghĩa chính thức tại Quy chế mua, bán
nợ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định 140/1999/QĐNHNN14, trong đó mua, bán nợ là hoạt động mua, bán theo đó bên bán
chuyển giao khoản nợ mà bên nợ hiện đang nợ bên bán nợ (bao gồm nợ gốc,
lãi, lãi phạt) cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán, bên mua nợ có nghĩa vụ
trả tiền cho bên bán nợ và tiếp nhận các quyền của chủ nợ đối với khoản nợ
theo thoả thuận của hai bên.
Nhìn góc độ kinh tế, có thể quan niệm hoạt động mua, bán nợ của tổ chức
tín dụng nh là một phần của hoạt động kinh doanh tiền tệ, trong đó tổ chức tín
dụng đóng vai trò là ngời huy động vốn (khi tổ chức này tiến hành bán những
món nợ mình đang sở hữu cho các tổ chức, cá nhân khác) hoặc đóng vai trò là
ngời cấp tín dụng (trong trờng hợp tổ chức tín dụng tiến hành mua nợ của các
tổ chức, cá nhân khác trong nền kinh tế). Suy cho cùng, bản chất kinh tế của
hoạt động mua, bán nợ nói chung và mua, bán nợ của tổ chức tín dụng nói
riêng thực chất là những hoạt động tín dụng với đầy đủ ý nghĩa đích thực của
nó, cả về nội dung và công dụng. Điều này đã đợc các nhà làm luật gián tiếp
thừa nhận trong Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm
theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19 tháng 4 năm 1999 của
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức

tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

5

Tô Thị Thanh

Ngân hàng nhà nớc3.
Xét từ góc độ pháp lý, quan hệ mua, bán nợ của tổ chức tín dụng với
khách hàng có thể đợc quan niệm nh là một giao dịch hợp đồng mua, bán mà
đối tợng mua, bán chính là quyền đòi nợ, với t cách là một loại quyền tài sản.
Trong giao dịch này, bên bán thoả thuận với bên mua về việc mua bán các
khoản nợ mà hệ quả cuối cùng của việc mua, bán này là có sự chuyển giao
quyền sở hữu các khoản nợ từ bên bán sang cho bên mua và bên mua có nghĩa
vụ trả tiền mua nợ cho bên bán.
1.1.2.2. Đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ của tổ chức tín dụng
Về lý thuyết, hoạt động mua, bán nợ của tổ chức tín dụng có những điểm
giống nhau cơ bản so với hoạt động mua, bán nợ nói chung, chẳng hạn nh chủ
thể là bên mua nợ và bên bán nợ; đối tợng mua bán là các khoản nợ quyền
tài sản; hình thức pháp lý của quan hệ mua, bán nợ là hợp đồng mua bán nợ
Tuy nhiên, ngoài những điểm giống cơ bản nêu trên, hoạt động mua, bán nợ
của tổ chức tín dụng còn có những đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, mua, bán nợ của tổ chức tín dụng là một hình thức, một cơ chế
xử lý tài chính của tổ chức tín dụng trong quá trình kinh doanh. Thực vậy, khi
tổ chức tín dụng cần thu hồi các khoản vốn đã cho vay để tiếp tục đầu t cho
các dự án cho vay mới nhng không thể đòi tiền ngay từ phía khách hàng vay

thì việc bán những khoản nợ này cho tổ chức, cá nhân khác chính là giải pháp
rất hiệu quả để lu hoạt hoá các nguồn tín dụng đã cung cấp cho khách hàng.
Mặt khác, khi nguồn vốn huy động của tổ chức tín dụng từ các tổ chức cá
nhân là khá dồi dào nhng không thể cho vay đợc vì gặp phải chính sách tiền tệ
thắt chặt của Ngân hàng Trung ơng thì việc tổ chức tín dụng đứng ra mua lại
các khoản nợ của tổ chức, cá nhân khác trong nền kinh tế cũng đợc xem là
giải pháp tốt để xử lý vấn đề cân đối tài chính của tổ chức tín dụng.
Thứ hai, mua, bán nợ của tổ chức tín dụng có đối tợng là các khoản nợ
phát sinh từ hoạt động cho vay và hoạt động kinh doanh khác của tổ chức tín
dụng. Các khoản nợ này có thể là nợ trong hạn, nợ quá hạn và có thể có tài sản
bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm. Thực tiễn giao dịch mua, bán nợ trên
thế giới cho thấy rằng việc phân tích một cách khách quan về tình trạng thực
tế của các khoản nợ đợc mua bán là yếu tố vô cùng quan trọng, có ảnh hởng
trực tiếp đến quyết định mua nợ của bên mua và khả năng bán nợ của bên bán.
3

Điều 1 Quy chế nói trên khẳng định: quy chế này quy định những nội dung liên quan đến hoạt động mua,
bán nợ của các tổ chức tín dụng nhằm đa dạng hoá các hoạt động tín dụng, mở rộng khả năng cho vay của
các tổ chức tín dụng đối với khách hàng.

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

6


Tô Thị Thanh

Đôi khi, vì quyền lợi của bên mua nợ, pháp luật có thể quy định rằng các bên
không đợc phép đa vào giao dịch những khoản nợ có vấn đề hoặc những
khoản nợ không có khả năng thanh toán.
Thứ ba, giao dịch mua, bán nợ của tổ chức tín dụng chỉ có thể đợc xác lập
dựa trên một giao dịch cơ sở đã đợc thực hiện (đó chính là hợp đồng cho vay
hoặc hợp đồng cấp tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng). Các giao
dịch cơ sở này có hệ quả xác lập quyền đòi nợ của tổ chức tín dụng đối với
bên nợ và do đó giao dịch này đợc xem là nhân tố tạo ra hàng hoá (các khoản
nợ) cho thị trờng mua, bán nợ. Thực tế cho thấy các giao dịch cơ sở này rất đa
dạng, có thể là giao dịch mua bán hàng hóa, giao dịch cho vay, giao dịch cho
thuê tài chính, giao dịch bảo lãnh. Tuy nhiên, theo Quy chế mua, bán nợ của
các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐ NHNN14 thì đối tợng đợc mua bán (các khoản nợ) hẹp hơn rất nhiều, chỉ bao
gồm những khoản nợ do các tổ chức tín dụng cho các tổ chức kinh tế, tổ chức
tài chính, cá nhân vay hoặc những khoản nợ giữa các tổ chức tín dụng với
nhau. Do quyền đòi nợ phát sinh từ một giao dịch trớc đó nên khi thực hiện
hoạt động mua, bán nợ, bên mua nợ phải tiến hành kiểm tra phân tích toàn
diện về giao dịch cơ sở đã làm phát sinh quyền đòi nợ để đánh giá tính hợp
pháp của giao dịch này, trên cơ sở đó xác định tính hợp pháp của khoản nợ đ ợc mua bán.
Thứ t, giao dịch mua, bán nợ là một giao dịch chứa đựng rủi ro rất cao.
Khi bên bán nợ bán khoản nợ phải thu của mình cho bên mua nợ, họ sẽ
chuyển giao quyền sở hữu cùng toàn bộ các giấy tờ tài liệu có liên quan tới
khoản nợ sang cho bên mua nợ và điều này cũng có nghĩa là các rủi ro từ
khoản nợ đó cũng đợc chuyển giao sang cho bên mua nợ. Bên mua nợ phải
chịu tất cả các rủi ro phát sinh từ khoản nợ đó. Hơn nữa các khoản nợ đuợc
mua, bán rất đa dạng mà không phải bao giờ cũng là các khoản nợ lành mạnh
mà nó còn bao gồm cả các khoản nợ có vấn đề. Nhng vì mục tiêu lợi nhuận
mà bên mua nợ vẫn chấp nhận rủi ro. Đây cũng là đặc điểm của hoạt động
kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động cấp tín dụng nói riêng trong đó

có mua, bán nợ.
1.1.2.3. So sánh hoạt động mua, bán nợ và hoạt động bao thanh toán
Bao thanh toán và mua, bán nợ đều là hai loại hình hoạt động tín dụng
mới đợc thực hiện ở Việt Nam trong vài năm gần đây. Hoạt động mua, bán nợ
của các tổ chức tín dụng đợc thực hiện theo Quy chế mua, bán nợ của các tổ
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

7

Tô Thị Thanh

chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14. Còn
hoạt động bao thanh toán đợc thực hiện theo Quy chế hoạt động bao thanh
toán ban hành kèm theo Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN. Hai hoạt động
này có nhiều điểm tơng đồng và khác biệt và luôn tồn tại độc lập với nhau nh
là hai hình thức cấp tín dụng độc lập. Vì thế, để nhận diện đúng bản chất của
hoạt động mua, bán nợ, thiết nghĩ cần phải xem xét những điểm tơng đồng và
khác biệt cơ bản giữa hai loại hình hoạt động tín dụng này.
- Sự giống nhau.
Thứ nhất, cả hai hoạt động này đều đợc xác lập trên cơ sở một giao dịch
đã xác lập từ trớc (còn gọi là giao dịch cơ sở). Trong hoạt động bao thanh toán
đợc xác lập sau một hoạt động mua bán hàng hoá giữa bên bán hàng và bên
mua hàng thông qua hợp đồng mua bán hàng hoá. Sau khi hợp đồng mua bán
hàng hoá đợc thực hiện thì tổ chức tín dụng nhận bao thanh toán sẽ mua lại

các khoản phải thu phát sinh từ giao dịch mua bán hàng hoá đó. Nh vậy chúng
ta có thể hiểu là trớc khi có hoạt động bao thanh toán (thực chất là việc mua
lại các khoản phải thu từ giao dịch mua bán hàng hoá) thì trớc đó phải có hợp
đồng mua bán hàng hoá giữa bên mua và bên bán. Còn trong giao dịch mua,
bán nợ thì bên bán nợ cũng phải thực hiện các giao dịch trớc đó để có đợc
quyền đòi nợ và đem bán quyền đòi nợ đó cho tổ chức, cá nhân mua nợ.
Giao dịch cơ sở để làm phát sinh khoản nợ đợc mua bán có thể là giao dịch
cho vay, giao dịch bảo lãnh ngân hàng, giao dịch cho thuê tài chính
Thứ hai, trong giao dịch mua, bán nợ và bao thanh toán đều có sự dịch
chuyển quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Sự dịch chuyển quyền và nghĩa vụ
trong hợp đồng mua, bán nợ và sự dịch chuyển quyền và nghĩa vụ trong hợp
đồng bao thanh toán đều diễn ra theo nguyên lý chung nh sau: Bên bán thực
hiện việc chuyển giao đối tợng hợp đồng (thực chất là chuyển giao quyền,
nghĩa vụ liên quan đến khoản nợ đợc mua bán) cho bên mua; còn bên mua
thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền cho bên bán để xác lập quyền sở hữu đối
với khoản nợ hay khoản phải thu đợc mua bán (thực chất là tiếp nhận các
quyền, nghĩa vụ nói trên do bên mua chuyển giao).
Thứ ba, cả mua bán nợ và bao thanh toán đều đợc thực hiện thông qua
quan hệ mua bán tài sản mà về bản chất đều là giao dịch mua bán quyền đòi
nợ. Điều này dẫn tới hệ quả là, bên mua nợ có quyền sở hữu đối với khoản nợ
đợc mua bán và do đó có quyền đòi nợ trực tiếp đối với bên có trách nhiệm
hoàn trả.
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai


8

Tô Thị Thanh

- Sự khác nhau.
Thứ nhất, đối tợng của hợp đồng bao thanh toán chỉ có thể là những khoản
nợ (khoản phải thu) cha đến hạn thanh toán và những khoản nợ này phải phát
sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá giữa bên bán với bên mua. Còn khoản nợ
đợc mua bán trong hoạt động mua, bán nợ có thể là nợ cha đến hạn thanh toán
(khoản nợ trong hạn) hoặc nợ đã quá hạn thanh toán và các khoản nợ này có
thể phát sinh từ quan hệ cấp tín dụng giữa bên bán nợ (chính là ngời cấp tín
dụng) với bên nợ (chính là ngời hởng tín dụng).
Thứ hai, bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn vì các khoản
nợ đợc bao thanh toán là các khoản nợ phải thu không quá 180 ngày. Còn
mua, bán nợ là hình thức cấp tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn vì các
khoản nợ đợc mua, bán có thể nợ trong hạn (khoản nợ còn thời hạn trả dới 12
tháng; từ 12- 60 tháng, từ 60 tháng trở lên) và các khoản nợ quá hạn thanh
toán cha xác định đợc chính xác thời gian thu hồi lại khoản nợ.
1.1.3. Các hình thức mua, bán nợ
Mua, bán nợ hiện nay đã trở thành một loại hình giao dịch khá phổ biến
trên thị trờng. Các ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay, nợ cha đến hạn,
nhng do nhu cầu thu hồi vốn trớc hạn để có tiền vốn đầu t cho những thơng vụ
khác có lợi hơn, họ sẵn sàng chào bán số nợ ấy. Trong khi đó ngân hàng khác
có vốn nhàn rỗi, cha sử dụng lại sẵn sàng mua nợ, vì họ tính toán việc mua nợ
có lợi hơn để vốn nhàn rỗi không sử dụng. Nh vậy đã hình thành quan hệ cung
cầu cho thị trờng mua, bán nợ.
Việc mua, bán nợ hiện nay đợc thực hiện theo hai hình thức sau đây4:
- Mua, bán nợ theo hình thức mua đứt, bán đoạn.
Mua, bán nợ theo hình thức này thì quyền và nghĩa vụ của chủ nợ (bên
bán nợ) đợc chuyển hẳn sang cho ngời mua nợ. Nói cách khác, bên bán nợ sau

khi đã hoàn tất thủ tục mua bán sẽ không còn quyền và nghĩa vụ gì đối với
khoản nợ đã bán. Việc mua, bán nợ theo hình thức này thờng đòi hỏi hợp
đồng mua bán nợ phải có sự chấp thuận của bên mắc nợ. Quy tắc này đợc xây
dựng nhằm bảo đảm quyền lợi cho bên mua nợ và gắn trách nhiệm của bên
mắc nợ đối với việc thanh toán tiền cho bên mua nợ khi khoản nợ đến hạn
thanh toán. ở Việt Nam trớc đây vietcombank đã phải ký vào hợp đồng
mua, bán nợ giữa một nhóm ngân hàng Anh Quốc với một nhóm ngân hàng
Trần Quốc Quýnh Giải pháp xử lý nợ khó đòi bằng công ty quản lý tài sản (AMC) trở thành phổ biến. Thị
trờng tài chính tiền tệ số 24/2004
4

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

9

Tô Thị Thanh

LUXEMBOURG , trong đó vietcombank là bên vay nợ4.
- Mua, bán nợ theo hình thức mua bán quyền đòi nợ.
Việc mua, bán nợ thực hiện theo hình thức này nghĩa là chỉ mua, bán
quyền đòi nợ mà thôi, còn các nghĩa vụ của bên bán nợ không thay đổi. ở đây
không thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu đối với khoản nợ từ bên bán
nợ sang cho bên mua nợ. Bên bán nợ vẫn là chủ sở hữu đối với khoản nợ đó,
còn bên mua nợ thực hiện quyền đòi nợ và thu nợ từ bên nợ dựa trên sự uỷ

quyền của ngời bán nợ, tức là ngời chủ nợ ban đầu. Việc mua, bán nợ trong trờng hợp này không cần thiết phải có sự thoả thuận với bên vay nợ, vì hợp
đồng tín dụng ban đầu vẫn có hiệu lực. Về bản chất pháp lý, mua bán nợ theo
hình thức này không hoàn toàn đúng nghĩa là một quan hệ mua, bán nợ (vì
không có việc chuyển giao quyền sở hữu vật bán món nợ từ ngời bán sang
cho ngời mua) mà có phần thiên về bản chất là quan hệ dịch vụ thu hộ (uỷ
quyền đại diện thu hộ).
Sở dĩ cần phân biệt hai hình thức mua, bán nợ nói trên là vì hai hình thức
mua, bán nợ này dẫn tới hai hệ quả pháp lý khác nhau. Mua, bán nợ theo hình
thức mua đứt, bán đoạn thì quan hệ giữa bên bán nợ và bên nợ chấm dứt, hình
thành quan hệ pháp luật mới giữa bên mua nợ và bên nợ, trong đó bên mua nợ
đợc thế vào vị trí của bên bán nợ để thực hiện quyền đòi tiền bên nợ với t cách
chủ sở hữu mới của khoản nợ. Còn mua, bán nợ theo hình thức mua bán quyền
đòi nợ thì quan hệ bên bán nợ và bên mua nợ không chấm dứt (hợp đồng tín
dụng ban đầu vẫn còn có hiệu lực) và nó cũng không hình thành quan hệ tín
dụng mới giữa bên mua nợ và bên nợ. Bên mua nợ tiến hành thu nợ dựa trên
sự uỷ quyền của bên bán nợ mà thôi.
1.1.4. Các chủ thể có chức năng mua, bán nợ
ở Việt Nam hiện nay, các chủ thể có chức năng mua, bán nợ theo pháp
luật bao gồm:
- Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (sau đây gọi
là công ty mua bán nợ).
Công ty mua bán nợ là công ty mới đợc thành lập ở Việt Nam theo Quyết
định số 109/2003/QĐ-TTg ngày 05/06/2003. Công ty mua bán nợ là doanh
nghiệp nhà nớc, hạch toán kinh tế độc lập, có con dấu riêng, có vốn điều lệ
2000 tỷ đồng. Công ty đợc thành lập để xử lý các khoản nợ tồn đọng và tài sản
không cần dùng, chờ thanh lý, vật t ứ đọng, mất phẩm chất, góp phần lành
4

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam



Luận văn tốt nghiệp

Mai

10

Tô Thị Thanh

mạnh hoá tình hình tài chính doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình sắp xếp chuyển
đổi doanh nghiệp nhà nớc5.
Tại điều 5 Quyết định số 109 có quy định, công ty mua bán nợ đợc mua
các khoản nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp, bán các khoản nợ và tài
sản tồn đọng. Trong điều lệ tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty
mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp ban hành kèm theo Quyết
định 199/2003/QĐ-BTC cũng quy định việc công ty mua bán nợ đợc phép
thực hiện hoạt động mua, bán nợ.
Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp là đơn vị có
tuổi đời trẻ nhất trong toàn ngành tài chính và so với lịch sử hơn 60 năm phát
triển của cả ngành thì quá trình hoạt động của công ty còn khá ngắn ngủi.
Tính từ thời điểm khai trơng đầu năm 2004 đến nay công ty mới hoạt động đợc hơn hai năm. Thực hiện nhiệm vụ của mình, ngay từ khi đi vào hoạt động
công ty mua bán nợ đã tích cực triển khai đều khắp các mặt hoạt động. Trong
bối cảnh vừa làm vừa học, vừa xây dựng và hoàn thiện tổ chức bộ máy, đến
nay công ty đã thu đợc một số kết quả ban đầu thể hiện ba khía cạnh chính sau
đây:
+ Về công tác tiếp nhận tài sản loại trừ do cổ phần hoá doanh nghiệp nhà
nớc. Tính đến ngày 31/07/2005, công ty đã làm việc với tất cả các bộ ngành,
các địa phơng, các tổng công ty để tiếp nhận trên 350 tỷ đồng giá trị còn lại
của tài sản và công nợ loại trừ của hơn 230 doanh nghiệp nhà nớc đã cổ phần

hoá. Công ty đã xử lý đợc gần 100 tỷ đồng giá trị còn lại của tài sản loại trừ,
đã tiếp nhận để thu hồi về cho nhà nớc gần 40 tỷ đồng. Thông qua nghiệp vụ
này, công ty vừa thu hồi vốn về cho nhà nớc để sử dụng cho các mục đích
khác có hiệu quả, vừa biến tài sản không sử dụng thành tài sản hoạt động
mang lại lợi ích cho nhà nớc và cho xã hội6.
+ Về công tác mua, bán nợ. Công ty đã ký kết hợp đồng mua bán nợ cả
thoả thuận và theo chỉ định đạt khoảng 3000 tỷ đồng, qua đó sử lý nợ tồn đọng
cho các đơn vị nh ngân hàng công thơng việt nam, ngân hàng thơng mại cổ
phần ExinBank, ngân hàng Việt Hoa, công ty nông thổ sản II, công ty xuất
nhập khẩu ngũ cốc và một loạt các doanh nghiệp nhà nớc khác. Thông qua
hoạt động mua, bán nợ công ty đã giúp doanh nghiệp giải phóng đợc lợng vốn
chết từ nhiều năm nay trở lại thành vốn hoạt động, làm trong sạch tình hình tài
Điều 1 Quyết định số 109/2003/QĐ - TTg ngày 05/06/2003 về việc thành lập công ty mua, bán nợ và tài
sản tồn đọng của doanh nghiệp
6 Báo điện tử Vietnamnet
5

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

11

Tô Thị Thanh

chính, tăng giá trị doanh nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh để phát triển7.

+ Về hợp tác quốc tế. Công ty đã thiết lập quan hệ hợp tác với một số tổ
chức nh ngân hàng thế giới, ngân hàng ADB, công ty quản lý tài sản Hàn
Quốc, công ty dịch vụ thông tin Hàn Quốc, công ty t vấn luật Baker &
Mckenzie... để hợp tác kinh doanh và hợp tác kỹ thuật. Công ty đợc ngân hàng
thế giới tài trợ để thực hiện dự án hỗ trợ kỹ thuật về xử lý nợ tồn đọng trị giá
527.000 đô la mỹ. Công ty đã tổ chức chuyến khoả sát kinh nghiệm với các
đối tác Hàn Quốc, Malaixia. Thông qua hoạt động này công ty đã giới thiệu
với quốc tế về một thị trờng nợ đầy tiềm năng ở Việt Nam7.
Với các mục tiêu và thành tựu đã đạt đợc công ty mua bán nợ hiện đang
giữa vai trò rất quan trọng trong việc phát triển thị trừờng vốn cũng nh thị trờng mua, bán nợ ở Việt Nam hiện nay.
- Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc các ngân hàng thơng
mại (sau đây gọi công ty quản lý nợ).
Nợ tồn đọng của các ngân hàng thơng mại đang là vấn đề cấp thiết cần đợc giải quyết hiện nay. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở các ngân hàng thơng mại Việt Nam mà nó tồn tại ở tất cả các ngân hàng trên thế giới. Hệ thống
ngân hàng thơng mại ở Trung Hoa cũng có những bớc phát triển thăng trầm về
nghiệp vụ tín dụng giống nh Việt Nam. Thời điểm cuối tháng 9 năm 2001
Thống đốc Ngân hàng Trung ơng Trung Quốc Dai Xiang Long thừa nhận con
số nợ khó đòi tại các ngân hàng thơng mại lên tới 1.800 tỷ nhân dân tệ, bằng
26,5% tổng doanh số cho vay (6.800 tỷ nhân dân tệ) 8. Ngày nay, giải pháp
thành lập công ty quản lý tài sản (AMC) đã đợc áp dụng phổ biến trên toàn
cầu và thực tế ngoài giải pháp này, hiện cha có ai tìm đợc lối thoát nào thông
minh hơn. Trên thế giới, các cờng quốc về kinh tế nh Trung Hoa đến Anh
Quốc, Mỹ Quốc cho tới xứ sở hoa Anh đào (Nhật Bản) cũng đều chấp nhận
AMC nh một giải pháp xử lý nợ tồn tại hiệu quả nhất 8. Học tập theo kinh
nghiệm và mô hình của các nớc, Ngân hàng nhà nớc Việt Nam đã cho phép
thành lập AMC bằng Quyết định số 305/2000/QĐ-NHNN5 ngày 15/09/2000
về việc ban hành Quy chế thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế
chấp của các ngân hàng thơng mại. Đến ngày 05/10/2001 Thủ Tớng Chính
Phủ ban hành quyết định 150/2001/QĐ-TTg về thành lập công ty quản lý nợ
7
7


Báo điện tử vietnamnet

Trần Quốc Quýnh Giải pháp xử lý nợ khó đòi bằng công ty quản lý tài sản (AMC) trở thành phổ biến. Thị
trờng tài chính tyiền tệ số 24/2004
8
8

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

12

Tô Thị Thanh

và khai thác tài sản trực thuộc các ngân hàng thơng mại. Sau đó, Thống đốc
ngân hàng nhà nớc lại ban hành Quyết định số 1389/2001/QĐ-NHNN ngày
07/11/2001 về thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc các
ngân hàng thơng mại để thay thế Quyết định số 305 nói trên.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thơng mại là
công ty có t cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có, đợc thành lập
theo quyết định của Chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng thơng mại, có thời
hạn hoạt động không quá thời hạn hoạt động còn lại của ngân hàng thơng mại
thành lập ra nó9.
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản giúp ngân hàng thơng mại thành

lập ra nó xử lý nợ quá hạn tồn đọng, làm sạch bảng cân đối tài chính, làm lành
mạnh hoá tình hình tài chính của ngân hàng này. Theo điều 10 khoản 7 Quyết
định 1390/2001/QĐ-NHNN ngày 07/11/2001 ban hành Điều lệ mẫu về công
ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc các ngân hàng thơng mại thì các
công ty này đợc mua, bán nợ tồn đọng của các tổ chức tín dụng khác, của các
công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của các ngân hàng thơng mại khác theo
quy định của pháp luật. Đây là quy định mở nhằm tạo điều kiện cho các công
ty quản lý nợ dễ dàng trong quá trính xử lý nợ quá hạn khi mà các công ty này
không đủ điều kiện để xử lý và khi ngân hàng thơng mại không đủ điều kiện
hoặc không cần thiết phải thành lập công ty quản lý nợ.
Hiện nay, công ty mua bán nợ thuộc Bộ Tài Chính cũng đã đợc thành lập
và đi vào hoạt động. Mô hình công ty này khác biệt với công ty quản lý nợ và
khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thơng mại. Sự khác nhau của hai loại
công ty này thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, thẩm quyền thành lập, nguốn vốn đầu t kinh doanh và luật điều
chỉnh. Công ty quản lý nợ đợc thành lập bởi các ngân hàng thơng mại, do chủ
tịch hội đồng quản trị của ngân hàng thơng mại đó ra quyết định thành lập .
Công ty quản lý nợ có thể đợc thành lập bởi ngân hàng thơng mại nhà nớc
hoặc ngân hàng thơng mại cổ phần. Vốn điều lệ do ngân hàng thơng mại đó
cấp (thực chất đây là công ty con của ngân hàng thơng mại mẹ). Theo pháp
luật việt nam thì công ty con là công ty trách nhiện hữu hạn một thành viên do
một pháp nhân ngân hàng thơng mại mẹ đứng ra thành lập. Nó đợc tổ chức và
hoạt động theo luật doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp.
Còn công ty mua bán nợ là loại hình doang nghiệp nhà nớc, do Thủ Tớng
Điều1, điều 4 điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc
ngân hàng thơng mại
9

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam



Luận văn tốt nghiệp

Mai

13

Tô Thị Thanh

Chính Phủ ra quyết định thành lập, vốn điều lệ do ngân sách nhà nớc cấp, thực
hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định luật doanh nghiệp nhà nớc, chịu sự điều
chỉnh của luật doanh nghiệp nhà nớc.
Thứ hai, mục tiêu hoạt động của hai công ty này cũng khác nhau. Trong
khi công ty quản lý nợ với nhiệm vụ xử lý các khoản nợ tồn đọng của các
ngân hàng thơng mại thành lập ra nó, làm sạch bảng tổng kết tài sản, làm lành
mạnh hoá tình hình tài chính của ngân hàng, hoạt động không nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Còn công ty mua bán nợ thành lập với mục đích sử lý các khoản nợ
và tài sản không cần dùng của các doanh nghiệp, làm lành mạnh hoá tình hình
tài chính của các doanh nghiệp thúc đẩy quá trình sắp xếp chuyển đổi doanh
nghiệp nhà nớc. Bên cạnh mục đích thực hiện chính sách của nhà nớc thì mục
tiêu lợi nhuận của công ty mua bán nợ cũng đợc đặt ra bảo đảm kinh doanh
có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp10.
Thứ ba, nội dung hoạt động chủ yếu và thời hạn hoạt động. Công ty quản
lý nợ chủ yếu hoạt động xử lý các khoản nợ của chính ngân hàng thành lập nó,
việc quy định mua, bán nợ là rất hạn hẹp chỉ mua bán nợ tồn đọng của các tổ
chức tín dụng khác, các công ty quản lý nợ khác. Nhng thực tế các giao dịch
mua, bán nợ này hầu nh cha đợc thực hiện. Ngợc lại, công ty mua bán nợ chủ
yếu hoạt động mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doang nghiệp. Công ty
mua bán nợ không chỉ mua bán các khoản nợ của tổ chức tín dụng, các công

ty quản lý nợ mà còn tiến hành mua, bán nợ với nhiều chủ thể khác nữa đặc
biệt là các doanh nghiệp. Đối với thời hạn hoạt động của công ty quản lý nợ
không đợc quá thời hạn hoạt động còn lại của ngân hàng thơng mại thành lập
ra nó. Nhng thời hạn hoạt động của công ty mua bán nợ không phụ thuộc vào
bất kỳ doanh nghiệp nào khác.
- Các tổ chức, cá nhân nớc ngoài.
Trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, Việt nam đã tham gia vào tổ
chức khu vực ASEAN (hiệp hội các nớc Đông Nam á), APEC (diễn đàn hợp
tác kinh tế châu á - Thái Bình Dơng), ASEM (diễn đàn hợp tác á - ÂU); ký
các hiệp định thơng mại song phơng với các nớc nh hiệp định thơng mại Việt
Mỹ và tiến tới chuẩn bị gia nhập WTO (tổ chức Thơng mại Thế giới).
Trong lộ trình hội nhập đã cam kết, Việt nam đã đợc mở cửa cho các nhà đầu
t nớc ngoài vào đầu t trong đó có hoạt động mua bán nợ. Theo quy định tại
khoản 2 điều 3 Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng thì các tổ chức
Khoản 1 điều 7 Quyết đinh 109/2003/QĐ - TTg ngày 05/06/2003 về việc thành lập công ty mua, bán nợ và
tài sản tồn đọng của doanh nghiệp
10

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

14

Tô Thị Thanh


cá nhân nớc ngoài đợc tham gia mua những khoản nợ giữa các tổ chức tín
dụng và các khách hàng của tổ chức tín dụng ở Việt nam và những khoản nợ
giữa các tổ chức ở Việc nam với nhau.
- Các tổ chức tín dụng.
Việc cho phép các tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động mua, bán nợ
chính là nhằm đa dạng hoá hoạt động tín dụng, mở rộng khả năng cho vay của
các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, tăng cờng khả năng chuyển dịch cơ
cấu đầu t, hỗ trợ các tổ chức tín dụng và các tổ chức kinh tế khắc phục khả
năng kinh doanh, góp phần quản lý rủi ro tín dụng, củng cố tính thanh khoản
và chất lợng các khoản đầu t, cải thiện khả năng hoàn vốn, khôi phục các mối
quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng 11. Để thực hiện chính sách này,
ngày 19/04/1999 Thống đốc ngân hàng nhà nớc đã ban hành Quyết định số
140/1999/QĐ-NHNN14 về việc ban hành Quy chế mua bán nợ của các tổ
chức tín dụng, tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức tín dụng thực hiện hoạt động
này tại Việt Nam. Theo khoản 1 điều 3 Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức
tín dụng, những tổ chức tín dụng sau đây đợc tham gia hoạt động mua bán nợ
nh là một nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng:
- Ngân hàng thơng mại quốc doanh;
- Ngân hàng đầu t;
- Ngân hàng phát triển;
- Ngân hàng thơng mại cổ phần;
- Ngân hàng liên doanh;
- Chi nhánh Ngân hàng nớc ngoài;
- Ngân hàng chính sách;
- Công ty cho thuê tài chính;
- Quỹ tín dụng nhân dân trung ơng;
1.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối
hoạt động mua bán nợ
1.2.1. Vai trò của hoạt động mua, bán nợ
1.2.1.1. Vai trò đối với chủ thể tham gia hoạt động mua, bán nợ

- Đối với ngời bán nợ.
Giao dịch mua, bán nợ trớc hết là công cụ quản lý rủi ro đối các khoản nợ
có vấn đề. Việc bán các khoản nợ này làm cho tài sản có của bên bán đợc lành
mạnh hoá, giúp bên bán thu hồi vốn nhanh, tránh ứ đọng vốn, tạo nguồn vốn
Điều 1 Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định 140/QĐ - NHNN14
ngày 19/04/1999 của Thống đốc ngân hàng nhà nớc
11

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

15

Tô Thị Thanh

đầu t vào lĩnh vực khác, chuyển dịch cơ cấu đầu t (nếu giá bán có thấp hơn
mệnh giá, thì sự tổn thất đó đợc coi là giá của sự chuyển đổi tích cực cơ cấu
đầu t).
Lợi ích thứ hai nữa mà bên bán nợ có thể đạt việc thu hồi vốn nhanh nhằm
tối đa hoá lợi nhuận. Khi bên bán nợ có một thơng vụ làm ăn kinh doanh có
lợi hơn nhng họ lại cha thu hồi đợc vốn từ thơng vụ kinh doanh trớc (nợ cha
đến hạn đòi, nợ quá hạn nhng bên nợ cha có khả năng thanh toán) họ có thể
bán khoản nợ đó cho các tổ chức, cá nhân mua nợ để thu hồi vốn trớc về đầu t
thơng vụ khác, mặt khác trong hoạt động kinh doanh nhu cầu về vốn là hết sức
cần thiết. Thông qua mua, bán nợ có thể đáp ứng đợc phần nào nhu cầu về vốn

cho họ.
- Đối với ngời mua nợ.
Mục tiêu trớc hết mà bất kỳ chủ thể kinh doanh nào cũng muốn đạt đợc đó
là tìm kiếm lợi nhuận, hoạt động mua, bán nợ cũng không loại trừ mục tiêu
đó. Bên mua nợ khi chấp nhận mua khoản nợ đó họ đã chấp nhận sự rủi ro nhng vì mục tiêu lợi nhuận (thờng đợc hởng sự chênh lệch giá mua và mệnh giá
thực sự khoản nợ cao) nên họ đã chấp nhận vì thế hoạt động mua, bán nợ giúp
cho bên mua nợ tìm kiếm lợi nhuận cao. Hoạt động mua, bán nợ của các tổ
chức tín dụng nhằm mục tiêu đa dạng hoá hoạt động tín dụng, mở rộng khả
năng cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận (đợc hởng khoản lãi tín dụng, và đợc
bên bán nợ trả khoản phí khi thực hiện hợp đồng mua bán nợ).
1.2.1.2. Vai trò đối với hoạt động tài chính tiền tệ
Mua, bán nợ là một loại hình kinh doanh làm đa dạng hoạt động tài chính
tiền tệ. Hiện nay các hoạt động tín dụng mới đã đợc thực hiện nh bao thanh
toán, mua bán nợ, các ngân hàng không chỉ thực hiện nghiệp vụ tín dụng
truyền thống nh cho vay, bảo lãnh mà cũng đã rất quan tâm đền các loại hình
tín dụng mới này và các loại hình tín dụng này cũng đã mang lại lợi nhuận
khá cao cho các ngân hàng thực hiện nó.
Hoạt động mua bán nợ làm tăng vốn khả dụng và hiệu quả của thị trờng
tài chính. Hiện nay vốn của các tổ chức tín dụng (đặc biệt của các ngân hàng
thơng mại) đang bị ứ đọng ở các khoản nợ (đặc biệt là các khoản nợ tồn
đọng). Tính đến ngày 31/12/2000, tổng số nợ quá hạn của các ngân hàng thơng mại trên 15.000 tỷ đồng, chiếm 10,78% tổng d nợ và bằng 7,55 tổng tài
sản. Trong đó nợ khó đòi trên 500 tỷ đồng (chiếm 35,7% d nợ quá hạn) nợ
khoanh gần 4000 tỷ đồng (chiếm 27,35%), nợ chờ thanh lý trên 4000 tỷ đồng
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai


16

Tô Thị Thanh

(chiếm 30,86%)12. Hoạt động mua bán nợ ra đời đã giúp cho khả năng luân
chuyển vốn khả dụng của các ngân hàng đợc nhanh hơn, tăng hiệu quả sử
dụng vốn, làm tăng khả năng lu thông tiền tệ qua hệ thống ngân hàng, làm cho
các giao dịch tiền tệ đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.1.3. Vai trò đối với nền kinh tế
Mặc dù cha có những nghiên cứu toàn diện về tác động của hoạt động
mua, bán nợ đối với nền kinh tế. Nhng chúng ta có thể thấy việc xử lý các
khoản nợ giúp tăng cờng khả năng ứng phó của nền kinh tế trớc những cú sốc
kinh tế vĩ mô do trào lu toàn cầu hoá và tự do hoá tài chính mang lại. Trong
chuyến làm việc tại việt nam tháng 11/2004, giáo s ngời Mỹ Joseph E.Stiglitz
(nguyên phó chủ tịch ngân hàng thế giới, đạt giải nobel kinh tế năm 2001) cho
rằng một trong việc Việt Nam đang cần làm để hội nhập thành công với thế
giới là tăng cờng khả năng đối phó của khu vực tài chính trớc những biến
động kinh tế tài chính trong nớc và thế giới thông qua việc làm lành mạnh hoá
hệ thống ngân hàng và cần xử lý dứt điểm nợ tồn đọng trong nền kinh tế. Việc
xử lý các khoản nợ thông qua hoạt động mua bán nợ giúp lành mạnh hoá tình
hình tài chính cho các doanh nghiệp và các ngân hàng, để qua đó giúp nền
kinh tế quốc dân năng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững.
1.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
mua, bán nợ
1.2.2.1. Về mặt khách quan
Việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ bắt nguồn
từ nhu cầu quản lý xã hội, nhu cầu quản lý kinh tế nói chung và quản lý hoạt
động tài chính tiền tệ ngân hàng nói riêng. Để hoạt động mua bán nợ đợc ổn
định và phát triển theo một hớng chung phù hợp với lợi ích của nền kinh tế và

của các chủ thể tham gia cần phải có pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật
này. Mặt khác, tính đặc thù trong hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt
động mua, bán nợ nói riêng cũng nh sự an toàn của hoạt động này nếu không
có pháp luật điều chỉnh thì các quan hệ này sẽ phát triển tự phát, vô chính phủ,
cùng với tính cạnh tranh không lành mạnh ảnh hởng nghiêm trọng tới nền
kinh tế và xã hội. Tình trạng hỗn loạn đó không những làm cho các chủ thể
tham gia hoạt động mua, bán nợ không đợc đảm bảo mà còn ảnh hởng tiêu
cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
Với vai trò quan trọng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật về hoạt
12

Số liệu ngân hàng nhà nớc năm 2003

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

17

Tô Thị Thanh

động mua, bán nợ sẽ tạo ra môi trờng pháp lý cần thiết định hớng hoạt động
cho các chủ thể, tạo ra các chuẩn mực chung cho các chủ thể tham gia hoạt
động này. Thông qua việc thể chế hoá các quan hệ mua, bán nợ thành các
quan hệ pháp luật để điều chỉnh, nhà nớc đã quy định các quy chế pháp lý cần
thiết về việc cấp giấy phép hoạt động, xác định quyền và nghĩa vụ cho các chủ

thể tham gia, xác định nội dung hoạt động, các chế tài pháp lý đối các hành vi
vi phạm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia, làm ổn định
xã hội cũng nh phát triển kinh tế.
1.2.2.2. Về mặt chủ quan
Bản chất của mua, bán nợ là chuyển giao quyền yêu cầu, là thay đổi
quyền sở hữu đối các khoản nợ. Mà vấn đề sở hữu là vấn đề rất nhậy cảm
trong hoạt động kinh tế. Các khoản nợ phát sinh trong nền kinh tế là rất phong
phú với các đặc điểm hoàn toàn khác nhau, trớc hết là sự đa dạng của ngời vay
nợ và chủ nợ. Sự thay đổi thành phần (trong nớc, ngoài nớc, quốc doanh, liên
doanh, ngoài quốc doanh) trong sở hữu nợ qua mua, bán nợ thể hiện sự phức
tạp của hoạt động này, nhất là khi trong thực tế còn tồn tại sự khác biệt đáng
kể trong hoạt động của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau. Mối quan hệ đa dạng và nhiều mặt của các bên liên quan đến khoản nợ
làm cho hoạt động mua, bán nợ rất phức tạp. Khi mua, bán nợ các bên phải
giải quyết một các cơ bản và rõ ràng nhất có thể theo khuân khổ của pháp luật
về các vấn đề có liên quan.
Chính từ những yêu cầu về mặt khách quan và chủ quan trên đặt ra yêu
cầu cần phải có pháp luật điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ để hoạt động này
có thể phát triển ổn định, phù hợp với yêu cầu của hoạt động thực tiễn.

Chơng 2
Điều chỉnh bằng pháp luật đối hoạt động
mua bán nợ của các tổ chức tín dụng
2.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động mua, bán nợ của tổ
chức tín dụng
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp


Mai

18

Tô Thị Thanh

Việc thực hiện chính sách kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc
theo định hớng xã hội chủ nghĩa đặt ra nhiều yêu cầu cho hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật về ngân hàng nói riêng, trong đó có pháp luật về mua,
bán nợ. Điều chỉnh pháp luật đối hoạt động mua, bán nợ có thể đợc thực hiện
bằng nhiều phơng cách khác nhau, chẳng hạn nh tác động vào chủ thể tham
gia giao dịch; tạo ra các chuẩn mực cho việc thiết lập các quan hệ mua, bán
nợ; giải quyết các tranh chấp phát sinh. Về cơ bản khung pháp luật điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong hoạt động mua, bán nợ cũng bao gồm các bộ phận
tơng tự nh việc điều chỉnh pháp luật đối các quan hệ tín dụng khác. Tuy nhiên,
do hoạt động mua, bán nợ có nhiều điểm đặc thù so với các loại hình tín dụng
khác nên cơ sở pháp lý của hoạt động mua, bán nợ cũng đợc xây dựng bao
gồm một số quy định mang tính đặc thù.
Mua, bán nợ là một loại hình tín dụng đặc biệt và các lợi ích do hoạt động
này mang lại cho các bên tham gia giao dịch là rất lớn. Điều đó đã thu hút sự
tham gia tích cực của các định chế tài chính trung gian và các tổ chức, cá nhân
thuộc mọi thành phần kinh tế. Trong khi các hoạt động tín dụng truyền thống
của ngân hàng nh nhận tiền gửi hay phát hành trái phiếu ngân hàng vẫn cha
thể đáp ứng đợc toàn bộ nhu cầu về vốn cho các ngân hàng thì hoạt động mua,
bán nợ ra đời chính là một giải pháp mới cho các ngân hàng trong việc đa
dạng hoá các loại hình huy động vốn.
Trong thời gian qua, Nhà nớc ta đã không ngừng cũng cố hoàn thiện hệ
thống pháp luật cho phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển kinh tế, trong
đó đáng kể nhất là Bộ luật dân sự năm 2005; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; Lụât thơng mại năm 2005; Luật đầu t năm
2005 và rất nhiều đạo luật và văn bản dới luật khác. Riêng đối với lĩnh vực
ngân hàng, Nhà nớc cũng từng bớc ban hành nhiều văn bản pháp luật mà ví dụ
điển hình Luật Ngân hàng nhà nớc (đã đợc sửa đổi bổ sung năm 2003) và Luật
các tổ chức tín dụng (đợc sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2004).
Đối với hoạt động mua,bán nợ, mặc dù cho đến nay các đạo luật ngân
hàng vẫn cha có những quy định thoả đáng nhằm dự liệu loại hình hoạt động
này tại Việt Nam nhng trên thực tế Ngân hàng Nhà nớc cũng đã bớc đầu xây
dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động này tại Việt Nam bằng cách ban hành các
văn bản dới luật nh Quyết định số 140/1999/QĐ-NHNN14 ngày 19 tháng 4
năm 1999 của Thống đốc Ngân hàng nhà nớc ban hành Quy chế mua, bán nợ

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

19

Tô Thị Thanh

của các tổ chức tín dụng; Quyết định 1096 /2004/QĐ-NHNN ngày 06 tháng
09 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng nhà nớc ban hành Quy chế hoạt động
bao thanh toán của các tổ chức tín dụng Với việc ban hành những văn bản
quy phạm pháp luật này, các tổ chức tín dụng ở Việt Nam đã bớc đầu có cơ sở
pháp lý để thực hiện nghiệp vụ mua, bán nợ.
2.2. thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động mua,

bán nợ của tổ chức tín dụng
Hiện nay, hoạt động mua, bán nợ ở Việt Nam đợc thực hiện bởi hệ thống
tổ chức tín dụng và các chủ thể khác nh công ty mua bán nợ trực thuộc Bộ tài
chính, công ty quản lý nợ trực thuộc các ngân hàng thơng mại Tuy nhiên,
trong khuôn khổ của khoá luận này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ các quy
định pháp luật về mua bán nợ của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng chứ
không phân tích các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ của
các chủ thể khác trong nền kinh tế.
2.2.1. Phạm vi, trạng thái các khoản nợ đợc mua bán
2.2.1.1. Phạm vi các khoản nợ đợc mua bán
Hoạt động mua, bán nợ nói chung có đối tợng giao dịch rất rộng, bao
gồm các khoản nợ hình thành từ quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ và quan
hệ cho vay. Tuy nhiên, đối tợng giao dịch trong hoạt động mua, bán nợ của
các tổ chức tín dụng thì hẹp hơn. Theo pháp luật hiện hành, các khoản nợ này
bao gồm:
- Những khoản nợ do các tổ chức tín dụng cho tổ chức kinh tế, tổ chức tài
chính, cá nhân vay. Cho vay là một hiện tợng kinh tế khách quan, xuất hiện
khi trong xã hội có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Hoạt động
cho vay truyền thống của các tổ chức tín dụng trong nhiều năm qua chủ yếu hớng tới đối tợng khách hàng quen thuộc là các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân
trong nền kinh tế13. Vì lẽ đó, các khoản nợ phát sinh từ quan hệ tín dụng này
đợc xem là đối tợng quan trọng nhất của các giao dịch về mua, bán nợ giữa tổ
chức tín dụng với khách hàng.
- Những khoản nợ phát sinh trong quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín
dụng với nhau. Trong thực tế, khách hàng vay của tổ chức tín dụng không chỉ
riêng các tổ chức kinh tế, tổ chức tài chính, cá nhân mà còn bao gồm cả các tổ
chức tín dụng. Khả năng này đã đợc dự liệu trớc trong Luật các tổ chức tín
Xem thêm Quyết định 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 ban hành quy chế cho vay của các tổ chức
tín dụng đối với khách hàng
13


Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

20

Tô Thị Thanh

dụng năm 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín
dụng năm 2004 cùng với các văn bản hớng dẫn thi hành14. Về nguyên tắc,
những khoản nợ phát sinh trong quan hệ cho vay giữa các chủ thể này với
nhau cũng đợc xem là đối tợng của hợp đồng mua, bán nợ.
2.2.1.2. Trạng thái các khoản nợ đợc mua bán
Trạng thái các khoản nợ đợc mua bán đợc hiểu là tình trạng thực tế của
các khoản nợ trớc và tại thời điểm đợc các bên đa vào giao dịch. Về nguyên
tắc, những khoản nợ đợc mua bán phải là những món nợ có khả năng thu hồi
để bảo vệ quyền lợi cho bên mua nợ. Xuất phát từ nguyên tắc này, điều 5 Quy
chế mua, bán nợ đã quy định rõ trạng thái các khoản nợ đợc mua, bán bao
gồm nợ trong hạn và nợ quá hạn, với điều kiện tất cả các khoản nợ này đều
phải là nợ có khả năng thu hồi.
Nợ trong hạn đợc hiểu là khoản nợ cha đến hạn thanh toán; bên bán nợ và
bên nợ đang hoạt động; bên bán nợ cần thu hồi vốn để tái đầu t hoặc giải
quyết các khó khăn tạm thời về nguồn vốn.
Nợ quá hạn đợc hiểu là khoản nợ cha đợc thanh toán mặc dù đã quá thời
hạn trả nợ; bên bán nợ và bên nợ vẫn đang hoạt động, khoản nợ có khả năng
thu hồi nhng bên nợ gặp khó khăn tạm thời về sản xuất kinh doanh nên cha trả

đợc nợ gốc và lãi hoặc cả gốc và lãi khi đến hạn.
Nh vậy, các khoản nợ của tổ chức tín dụng thuộc phạm vi mua, bán nợ
theo Quy chế mua, bán nợ hiện hành có thể là các khoản nợ trong hạn (khoản
nợ còn thời hạn trả nợ theo hợp đồng tín dụng hoặc khế ớc vay gốc) và các
khoản nợ quá hạn (khoản nợ hết thời hạn trả nợ theo hợp đồng tín dụng hoặc
khế ớc vay gốc) nhng chúng có đặc điểm chung là đều có khả năng thu hồi và
không phải là những khoản nợ xấu, nợ khó đòi.
2.2.2. Phơng pháp giao dịch mua, bán nợ
Hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng có thể đợc thực hiện
theo hai phơng pháp sau đây15:
Mua bán nợ trực tiếp là phơng pháp mà bên bán nợ và bên mua nợ thoả
thuận ký kết hợp đồng trực tiếp với nhau chứ không thông qua các tổ chức
trung gian làm môi giới giao dịch.
Mua bán nợ gián tiếp là phơng pháp mà việc mua, bán nợ đợc thực hiện
thông qua sự dàn xếp của các tổ chức làm trung gian thơng mại. Theo phơng
Xem thêm Quyết định 1310/2001/QĐ - NHNN ngày 15/10/2001 ban hành Quy chế cho vay giữa các tổ
chức tín dụng
15 Điều 7 Quy chế mua, bán nợ ban hành kèm theo Quyết định 140/QĐ - NHNN ngày 19/4/1999 của Thống
đốc ngân hàng nhà nớc
14

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

21


Tô Thị Thanh

pháp này, các bên có thể không cần thiết gặp nhau trực tiếp để ký kết hợp
đồng mà uỷ quyền cho các tổ chức trung gian đứng ra dàn xếp quá trình giao
dịch.
Cả hai phơng pháp giao dịch này đều có những u và nhợc điểm nhất định.
Tuỳ từng trờng hợp cụ thể mà các bên có thể lựa chọn phơng pháp giao dịch
nào phù hợp và có lợi nhất cho mình.
2.3. Hợp đồng mua, bán nợ giữa Tổ chức tín dụng với
khách hàng
Hoạt động mua bán nợ với ý nghĩa là một nghiệp vụ tín dụng của các tổ
chức tín dụng, đợc thực hiện thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng mua,
bán nợ. Hợp đồng này vừa chứa đựng những đặc điểm chung của loại hợp
đồng mua bán, vừa thể hiện những đặc điểm riêng của loại hợp đồng mua bán
nợ.
2.3.1. Khái niệm v những đặc điểm cơ bản của hợp đồng mua, bán
nợ giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng
Các văn bản pháp luật ngân hàng hiện tại cha có một định nghĩa nào về
hợp đồng mua, bán nợ. Tuy nhiên, xuất pháp từ lý thuyết chung về hợp đồng
mua bán, có thể khái quát thành định nghĩa về hợp đồng mua bán nợ nh sau:
Hợp đồng mua, bán nợ là thoả thuận bằng văn bản giữa bên mua nợ và
bên bán nợ, theo đó bên bán nợ có nghĩa vụ chuyển giao quyền đòi nợ cho
bên mua nợ và nhận tiền, còn bên mua nợ có nghĩa vụ nhận quyền đòi nợ và
trả tiền cho bên bán nợ.
Với định nghĩa nêu trên, hợp đồng mua bán nợ có bản chất là hợp đồng
mua bán tài sản, vì thế đơng nhiên loại hợp đồng này mang đầy đủ các đặc
điểm chung của hợp đồng mua bán, chẳng hạn nh tính chất song vụ, có đền
bù; mục đích của hợp đồng là nhằm chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ bên
bán sang bên mua Tuy vậy, hợp đồng mua, bán nợ cũng có những đặc trng

riêng để phân biệt với các hợp đồng mua bán tài sản thông thờng khác. Các
đặc trng này bao gồm:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua, bán nợ. Một bên chủ thể của hợp
đồng mua, bán nợ là tổ chức tín dụng đợc phép tham gia hoạt động mua, bán
nợ (với t cách là bên bán nợ), còn bên kia là các tổ chức, cá nhân (đóng vai trò
là bên mua nợ) và trở thành chủ sở hữu của khoản nợ đó.
Thứ hai, đối tợng của hợp đồng mua, bán nợ là các khoản nợ phải thu từ
quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn. Thực chất, cái
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

22

Tô Thị Thanh

mà các bên thoả thuận chuyển giao cho nhau trong hợp đồng này chính là
quyền đòi nợ, với t cách là một loại quyền tài sản hay tài sản. Thông thờng,
khoản nợ đợc mua bán trong giao dịch này phải đợc thanh toán vô điều kiện,
không bị huỷ ngang và đợc phép chuyển nhợng theo quy định của pháp luật.
Chính điều này khiến cho hợp đồng mua, bán nợ có tính đặc thù tơng đối so
với một số loại hợp đồng mua bán tài sản khác trong đời sống dân sự và thơng
mại.
Thứ ba, hợp đồng mua, bán nợ giữa tổ chức tín dụng với khách hàng là
loại hợp đồng chứa đựng nguy cơ rủi ro rất cao cho ngời mua nợ. Điều này thể
hiện ở chỗ, đối tợng đợc mua bán không chỉ bao gồm các khoản nợ lành

mạnh, nợ trong hạn, nợ có tài sản bảo đảm mà còn bao gồm cả những khoản
nợ quá hạn, nợ không có tài sản bảo đảm. Tính rủi ro cao của loại hợp đồng
này còn thể hiện ở chỗ, ngời mua nợ rất khó đánh giá và tiên liệu một cách
chính xác và khách quan về khả năng thu hồi của khoản nợ đợc giao bán. Vì
lý do này mà đôi khi bên mua nợ chỉ chấp nhận mua với giá cả thấp hơn giá trị
thực tế của khoản nợ đợc ghi trong hợp đồng tín dụng hoặc khế ớc vay gốc.
Phần chênh lệch này đợc xem nh sự bù đắp cho những rủi ro mà bên mua nợ
phải đối mặt khi chấp nhận ký kết hợp đồng mua, bán nợ với tổ chức tín dụng.
2.3.2. Chủ thể của hợp đồng mua, bán nợ
Trong giao dịch mua, bán nợ, chủ thể ký kết hợp đồng mua, bán nợ bao
gồm các tổ chức tín dụng (bên bán nợ) và các tổ chức, cá nhân mua khoản nợ
của tổ chức tín dụng (bên mua nợ). Các chủ thể khi tham gia vào hoạt động
mua, bán nợ cần phải thoả mãn những điều kiện nhất định theo quy định của
pháp luật.
2.3.2.1. Bên mua nợ
Bên mua nợ là bên cam kết nhận chuyển nhợng khoản nợ và trở thành chủ
sở hữu của khoản nợ đó. Theo pháp luật hiện hành16, các chủ thể tham gia mua
nợ của các tổ chức tín dụng bao gồm:
1. Các tổ chức tín dụng đợc thành lập và hoạt động tại Việt Nam theo
Luật các tổ chức tín dụng;
2. Các tổ chức, cá nhân nớc ngoài đợc tham gia mua những khoản nợ giữa
tổ chức tín dụng và các khách hàng của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và các
khoản nợ giữa các tổ chức tín dụng ở Việt Nam với nhau.
Các tổ chức kinh tế - tài chính, cá nhân nớc ngoài tham gia mua nợ có thể
Xem thêm Điều 3 Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 140/1999/QĐNHNN14 ngày 19 tháng 4 năm 1999 của thống đốc NHNN.
16

Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam



Luận văn tốt nghiệp

Mai

23

Tô Thị Thanh

qua đại lý hoặc uỷ thác cho bên thứ ba ở Việt Nam. Trong trờng hợp này việc
thực hiện mua, bán nợ phải đợc phép của Ngân hàng nhà nớc Việt Nam và
phải tuân theo các quy định của Nhà nớc Việt Nam về quản lý ngoại hối, về
quản lý vay và trả nợ nớc ngoài.
Hiện nay, Quy chế mua, bán nợ mới chỉ có quy định về thẩm quyền của
Ngân hàng nhà nớc trong việc cho phép các tổ chức cá nhân nớc ngoài thực
hiện hoạt động mua, bán nợ tại Việt Nam chứ cha có quy định cụ thể về những
điều kiện để đợc cấp giấy phép. Tình trạng này cũng xảy ra tơng tự đối với các
chủ thể mua nợ là tổ chức, cá nhân Việt Nam.
2.3.2.2. Bên bán nợ
Bên bán nợ là các tổ chức tín dụng đang sở hữu khoản nợ phát sinh từ
quan hệ cho vay đối với khách hàng. Theo pháp luật hiện hành, các tổ chức tín
dụng đợc quyền bán nợ cho ngời mua bao gồm các tổ chức tín dụng đợc thành
lập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.
2.3.3. Hình thức và nội dung của hợp đồng mua, bán nợ
2.3.3.1. Hình thức của hợp đồng mua, bán nợ
Xuất phát từ bản chất pháp lý của quan hệ mua, bán nợ giữa bên mua nợ
và bên bán nợ là một quan hệ hợp đồng, do đó hình thức pháp lý của quan hệ
này là hợp đồng mua, bán nợ. Theo quy định tại điều 9 Quy chế mua, bán nợ
của các tổ chức tín dụng thì hợp đồng này phải đợc lập thành văn bản và do
các bên tham gia ký kết. Hợp đồng này có thể phải công chứng nếu các bên có

thỏa thuận. Việc thể hiện nội dung hợp đồng mua, bán nợ dới hình thức văn
bản nhằm đạt các mục đích sau:
- Hợp đồng mua, bán nợ là sự công bố công khai chính thức mối quan hệ
pháp lý giữa bên mua nợ và bên bán nợ về việc mua lại khoản nợ phải thu phát
sinh từ hợp đồng tín dụng hoặc khế ớc vay gốc. Theo đó quyền thụ hởng các
quyền lợi từ khoản nợ đợc chuyển sang cho bên mua nợ và bên nợ có nghĩa vụ
thanh toán các khoản nợ đó cho bên mua nợ thay vì phải thanh toán cho bên
bán nợ nh trong hợp đồng tín dụng hoặc khế ớc vay gốc.
- Hợp đồng mua, bán nợ là bằng chứng pháp lý cụ thể cho việc chuyển
giao quyền sở hữu tài sản (quyền đòi nợ) từ bên bán nợ sang cho bên mua nợ.
- Hợp đồng mua, bán nợ là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh
giữa các bên có liên quan trong hợp đồng mua, bán nợ.
- Hợp đồng mua, bán nợ là cơ sở để các cơ quan công quyền căn cứ vào
đó mà thực hiện việc thanh tra kiểm tra, kiểm soát hoạt động mua bán nợ.
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

24

Tô Thị Thanh

Ngoài ra, việc ký kết hợp đồng mua, bán nợ bằng văn bản còn tạo tiền đề,
cơ sở và bằng chứng pháp lý cho các bên có liên quan tiến hành các hoạt động
hạch toán, kế toán một cách minh bạch, công khai và đúng pháp luật.
2.3.3.2. Nội dung của hợp đồng mua, bán nợ

Nội dung của hợp đồng mua, bán nợ là tổng thể các điều khoản do các
bên có đủ t cách chủ thể tham gia vào quan hệ mua, bán nợ thoả thuận trên cơ
sở tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với các quy định của pháp luật. Các điều
khoản này không chỉ thể hiện ý chí của các bên mà còn phản ánh một cách cụ
thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia vào hợp đồng mua,
bán nợ.
Theo quy định tại điều 9 Quy chế mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng,
nội dung của hợp đồng mua, bán nợ đợc xác định nh sau:
- Đối với trờng hợp hợp đồng tín dụng hoặc khế ớc vay vốn không loại trừ
khả năng mua, bán nợ thì việc mua, bán nợ đợc thực hiện bằng hợp đồng mua,
bán nợ với những nội dung cơ bản nh:
+ T cách pháp lý của các bên mua, bán nợ và các bên có liên quan;
+ Địa chỉ của bên mua, bán nợ;
+ Xác định giá trị của khoản nợ đợc mua, bán;
+ Giá mua, bán nợ và các phơng thức thanh toán mua, bán nợ;
+ Xác định thời hạn hiệu lực của việc mua, bán nợ;
+ Trách nhiệm của bên nợ trớc và sau khi ký kết hợp đồng mua, bán nợ
đối với bên nợ và bên mua nợ (không thay đổi so với các quyền và nghĩa vụ
của bên nợ đã quy định trong hợp đồng tín dụng gốc, nếu không có các thoả
thuận hợp pháp khác của các bên có liên quan);
+ Các cam kết khác.
- Đối với trờng hợp hợp đồng tín dụng hoặc khế ớc vay vốn không đề cập
đến việc mua, bán nợ thì việc mua, bán nợ cần phải có sự chấp thuận của bên
nợ và các bên có liên quan nh bên bảo lãnh, bên tái bảo lãnh
Trong Quy chế mua, bán nợ hiện hành vẫn cha có quy định cụ thể về hình
thức chấp thuận của bên nợ và các bên có liên quan về việc mua, bán nợ (bằng
lời nói, hành vi hay bằng văn bản?). Sự chấp thuận việc mua, bán nợ của bên
nợ và các bên có liên quan ảnh hởng đến giá trị hiệu lực của hợp đồng nên
pháp luật cần phải quy định việc chấp thuận đó bằng văn bản. Hợp đồng mua,
bán nợ trong trờng hợp này phải có thêm điều khoản thoả thuận về việc chấp

thuận việc mua, bán nợ của bên nợ và các bên có liên quan. Điều này còn có ý
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


Luận văn tốt nghiệp

Mai

25

Tô Thị Thanh

nghĩa quan trọng trong việc thu hồi khoản nợ của bên mua nợ đối với bên nợ.
Kể từ khi hợp đồng mua, bán nợ có hiệu lực pháp luật thì bên nợ có nghĩa vụ
hoàn trả khoản nợ đợc mua bán cho chủ nợ mới là bên mua nợ.
Ngoài các điều khoản trên đây, các bên có thể thoả thuận một số nội dung
khác nh quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên, quy định về điều
kiện giải chấp, các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
Trên nguyên tắc, khi các bên thoả thuận những điều khoản trên đây của
hợp đồng mua, bán nợ,cần lu ý đến một số quy định có tính hớng dẫn của
pháp luật, bao gồm:
- Giá mua, bán khoản nợ do các bên thoả thuận, theo tỷ lệ % hoặc giá trị
tuyệt đối so với giá trị khoản nợ đợc mua, bán;
- Đồng tiền đợc sử dụng trong mua, bán nợ là đồng tiền của khoản nợ đợc
mua, bán. Nếu việc thanh toán mua, bán nợ thực hiện bằng đồng tiền khác với
đồng tiền của khoản nợ đợc mua, bán thì phải có sự thoả thuận của bên bán và
bên mua. Phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Nhà nớc Việt
Nam;
- Khoản nợ đợc mua, bán có thể đợc hai bên thoả thuận mua, bán lại hoặc

đợc bên mua bán lại cho bên thứ ba. Trong các trờng hợp này việc mua, bán
nợ phải đợc lập thành hợp đồng riêng;
- Trong trờng hợp mua, bán nợ vay nớc ngoài và bên nớc ngoài mua nợ
của bên trong nớc bằng ngoại tệ, các tổ chức tín dụng phải tuân thủ Quy chế
quản lý vay và trả nợ nớc ngoài của Việt Nam, và phải đợc sự chấp thuận của
Ngân hàng Nhà nớc Việt Nam. Khi thanh toán tiền mua nợ bằng ngoại tệ nếu
có chênh lệch về tỷ giá thì trong hợp đồng mua, bán nợ phải xác định rõ bên
phải chịu.
2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán nợ
Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng mua, bán nợ là tất cả
những hành vi pháp lý đợc các bên tạo lập ra để cho chính mình thực hiện,
thông qua sự kiện ký kết hợp đồng mua, bán nợ. Việc tạo lập các quyền và
nghĩa vụ pháp lý vừa là mục đích của các bên khi giao kết hợp đồng mua, bán
nợ vừa là hậu quả tất yếu của việc giao kết hợp đồng mua bán nợ, một khi hợp
đồng mua bán nợ có hiệu lực pháp lý.
Về lý thuyết, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể sẽ phát sinh kể từ
thời điểm hợp đồng mua, bán nợ có hiệu lực pháp luật. Trong pháp luật thực
định, do mỗi bên tham gia quan hệ mua, bán nợ có t cách pháp lý khác nhau
Điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ của các tổ chức
tín dụng ở Việt nam


×