Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

quyền giám sát Ngân sách nhà nước của Quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.05 KB, 14 trang )

A. MỞ ĐẦU
Ngân sách nhà nước (NSNN) là bản thông điệp phản ánh những ưu
tiên phát triển của quốc gia gắn với kế hoạch phân bổ, sử dụng nguồn lực tài
chính công. Vì vậy, giám sát NSNN có vị trí rất quan trọng trong hoạt động
giám sát của Quốc hội. Những năm gần đây ở Việt Nam, hoạt động giám sát
NSNN đã có nhiều đổi mới, tác động tích cực đối với việc ban hành chính
sách và công tác quản lý, điều hành NSNN của Chính phủ. Tuy nhiên vẫn
còn một số hạn chế nhất định cần phải khắc phục, hoàn thiện để nâng cao
hiệu quả thực thi quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động ngân sách.
B. NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về quyền giám sát Ngân sách nhà nước của
Quốc hội.

1. Khái niệm giám sát ngân sách nhà nước của Quốc hội.
Giám sát là việc Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp,
luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội.1 Từ hoạt động giám sát, Quốc hội có thể kịp thời sửa đổi, bổ sung
hoặc huỷ bỏ những gì không còn phù hợp với thực tế, đồng thời có cơ sở
làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc chấp hành
các quy định của pháp luật, triển khai các quyết sách của Quốc hội.
Giám sát ngân sách nhà nước của Quốc hội là việc Quốc hội thực hiện
quyền giám sát đối với các vấn đề trong lĩnh vực ngân sách nhà nước. Thông
qua hoạt động giám sát về tài chính – ngân sách, Quốc hội xem xét, đánh giá
việc tuân thủ pháp luật tài chính, tính hiệu lực, hiệu quả và tính thực tiễn của
các chủ trương, giải pháp, chính sách tiền tệ; xem xét, đánh giá tình hình
chấp hành ngân sách, kỷ luật tài chính, kỷ luật ngân sách. Giám sát NSNN
1


Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003.


của Quốc hội mang tính quyền lực nhà nước, nhằm mục đích phát hiện và
xử lý những vấn đề nảy sinh trong quản lý và sử dụng NSNN; xem xét và
đánh giá về trách nhiệm pháp lý đối với những đối tượng bị giám sát bảo
đảm tuân thủ các quy định của Luật pháp, các chế độ, tiêu chuẩn định mức
chi NSNN; xem xét, đánh giá hiệu quả, tác động của NSNN đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội; thu thập ý kiến, thông tin, tâm nguyện và kiến nghị của
cử tri về pháp luật, phương thức điều hành, về đòi hỏi của cuộc sống… Từ
đó, nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách và pháp luật về NSNN,
điều chỉnh phương thức điều hành NSNN cho phù hợp.
2. Quyền giám sát ngân sách nhà nước của Quốc hội.
* Cơ sở pháp lý:
Cơ sở pháp lý cao nhất để Quốc hội thực hiện quyền và trách nhiệm
trong lĩnh vực ngân sách nhà nước được quy định tại Điều 84 Hiến pháp
năm 1992: “Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự
toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Nhà nước, phê chuẩn quyết
toán ngân sách Nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế”.
Khoản 7 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định về
trách nhiệm quyền hạn của Quốc hội trong lĩnh vực tài chính – ngân sách
như sau: “Giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài
chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước, các
dự án và công trình quan trọng quốc gia, các chương trình phát triển kinh tế
- xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác”.
a, Hình thức giám sát.


Thứ nhất, về hình thức xét báo cáo. Theo quy định của Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội năm 2003 thì hoạt động xét báo cáo của Quốc hội dựa

trên cơ sở hoạt động thẩm tra báo cáo của Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban
của Quốc hội. Thông qua hoạt động thẩm tra, các báo cáo công tác của đối
tượng chịu sự giám sát của Quốc hội được đánh giá mức độ chính xác, trung
thực và khách quan. Trong lĩnh vực ngân sách nhà nước, Quốc hội xem xét
các báo cáo sau: báo cáo tình hình thực hiện dự toán NSNN năm hiện hành
và dự toán NSNN năm sau; báo cáo về tình hình phân bổ ngân sách năm
hiện hành và phương án bổ sung ngân sách năm sau; báo cáo tình hình đầu
tư và sử dụng vốn NSNN của các công trình dự án quan trọng của quốc
gia… (Các báo cáo này đã được quy định cụ thể trong Nghị quyết số
387/NQ-UBTVQH11 ngày 17/03/2003 về việc ban hành quy chế lập, thanh
tra, trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân
bổ ngân sách trung ương và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước).
Thứ hai, về hình thức giám sát thông qua việc thành lập các đoàn
giám sát. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của
Quốc hội thành lập các đoàn giám sát để đi giám sát hoạt động của các cơ
quan của Chính phủ, hoạt động của các cơ quan chính quyền địa phương 2.
Việc thành lập các đoàn đi giám sát được tiến hành trên cơ sở căn cứ vào
chương trình giám sát của các chủ thể có quyền giám sát (giám sát theo định
kỳ) hoặc theo yêu cầu của Quốc hội hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan
(giám sát đột xuất). Cử thành viên Đoàn giám sát đi xác minh các vấn đề tài
chính – ngân sách.
Thứ ba, về hình thức chất vấn của đại biểu Quốc hội. Chất vấn của đại
biểu Quốc hội là yêu cầu của đại biểu (với tư cách là người đại diện cho ý
chí, nguyện vọng của nhân dân, là người thay mặt nhân dân thực hiện quyền
2

Xem các điều 15, 27 và 38 của Luật hoạt động giám sát của Quốc hội


lực nhà nước trong Quốc hội) đối với Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ

tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh
án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
(được quy định cụ thể tại điều 40 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm
2003), buộc người bị chất vấn phải giải thích về những vấn đề mà đại biểu
Quốc hội quan tâm, thuộc lĩnh vực hoạt động của cơ quan do người bị chất
vấn phụ trách. Trong lĩnh vực tài chính - ngân sách, các đại biểu Quốc hội
chất vấn Bộ trưởng Bộ tài chính về quản lý, sử dụng ngân sách; kiểm tra,
thanh tra, chất lượng kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực tài chính ngân sách…
Qua việc chất vấn này, Quốc hội giám sát công tác quản lý điều hành
NSNN…Như vậy, chất vấn tuy là quyền của cá nhân từng đại biểu Quốc
hội, nhưng khi đại biểu thực hiện quyền này thì có tính chất là một hoạt
động giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hình thức chất
vấn có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện tính công khai, dân chủ trong hoạt
động của Quốc hội.
b, Nội dung giám sát.
Pháp luật hiện hành của nhà nước ta quy định: Quốc hội quyết định
NSNN và Quốc hội cũng là cơ quan giám sát việc thực hiện NSNN. Quốc
hội đã và đang thực hiện quyền giám sát đối với tất cả các công đoạn của
quy trình ngân sách, từ giai đoạn quyết định dự toán, phân bổ ngân sách đến
quyết toán ngân sách. Chính phủ trình bản dự toán phương án phân bổ và
bản quyết toán ngân sách lên Quốc hội để Quốc hội quyết định hoặc phê
chuẩn. Còn việc Quốc hội có quyết định hoặc phê chuẩn những nội dung do
Chính phủ trình hay không là quyền của Quốc hội. Để có thể quyết định
hoặc phê chuẩn một cách thực chất các văn bản, báo cáo, các nội dung về
NSNN do Chính phủ trình lên, thì Quốc hội cần đôn đốc, kiểm tra, theo dõi
ngay từ khi bắt đầu quy trình ngân sách, đề nghị điều chỉnh kịp thời (nếu cần


thiết), chứ không thể đợi đến khi được trình lên rồi mới xem xét, góp ý. Sau
khi Chính phủ trình lên Quốc hội, Quốc hội tiếp tục xem xét, thẩm tra và

thảo luận. Trong quá trình xem xét, thẩm tra và thảo luận, nếu cần làm sáng
tỏ hoặc cần có sự điều chỉnh, Quốc hội có quyền yêu cầu Chính phủ giải
trình hoặc chỉnh sửa. Đó chính là các công việc cần làm của giám sát. Khi
Quốc hội thực hiện đầy đủ, đúng nghĩa các chức năng lập pháp, chức năng
quyết định các vấn đề về ngân sách như quy định của pháp luật thì cũng
chính là Quốc hội đã thực hiện quyền giám sát ngân sách ở tất cả các công
đoạn của quy trình ngân sách. Như vậy, giám sát của Quốc hội về NSNN là
một quá trình từ lúc bắt đầu lập dự toán NSNN cho đến khi Quốc hội phê
chuẩn quyết toán NSNN. Bao gồm:
- Giám sát quá trình lập, thẩm tra và quyết định dự toán ngân sách.
- Giám sát quá trình xây dựng phương án, thẩm tra và quyết định
phương án phân bổ ngân sách trung ương.
- Giám sát việc giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các Bộ, ngành
trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Giám sát quá trình chấp hành dự toán, quản lý và điều hành NSNN.
- Giám sát quá trình lập, thẩm định, thẩm tra, xét duyệt và phê chuẩn
quyết toán ngân sách (gọi tắt là phê duyệt quyết toán ngân sách).
II.

Thực trạng thực thi quyền hạn quyền giám sát của Quốc hội
đối với hoạt động ngân sách.

Trong những năm qua, hoạt động giám sát NSNN của Quốc hội đã
được đổi mới đáng kể. Đã có sự kết hợp giữa giám sát tại kỳ họp với giám
sát giữa hai kỳ họp, giữa việc thảo luận các báo cáo với việc tổ chức các
đoàn giám sát. Nhiều chuyên đề giám sát được tiến hành hiệu quả. Phương
thức tiến hành giám sát đã có những cải tiến nhất định, theo hướng tăng
cường giám sát tối cao, xem xét báo cáo của Chính phủ kết hợp với giám sát



thực tế tại địa phương, cơ sở; vừa thực hiện giám sát thường xuyên, vừa
giám sát theo chuyên đề. Việc Quốc hội tiến hành giám sát tại kỳ họp đối
với một số nội dung chuyên sâu, đổi mới việc chất vấn kết hợp với việc nghe
báo cáo giám sát chuyên đề đã góp phần nâng cao hiệu quả giám sát tối cao.
1. Hoạt động giám sát NSNN của Quốc hội qua các Đoàn giám sát.
Giám sát NSNN do UBTVQH thực thiện theo hình thức giám sát
chuyên đề, đó là những vấn đề mang tính thời sự, cấp bách, liên quan đến
nhiều cơ quan, tổ chức, được dư luận và xã hội quan tâm. Đây là hình thức
giám sát thường xuyên của các cơ quan của Quốc hội. Tuy nhiên, do các
chuyên đề giám sát có tính chuyên môn sâu, do đó giám sát về lĩnh vực tài
chính – ngân sách chủ yếu được thực hiện bởi Ủy ban Tài chính – ngân sách
(UB TC-NS) với hai hình thức đó là giám sát chung và giám sát chuyên đề. .
Mức độ tác động từ kết quả giám sát là rất khác nhau tùy thuộc cấp tổ
chức hoạt động giám sát, báo cáo giám sát và cách thức mà Đoàn tiến hành
hoạt động giám sát. Tác động của đoàn giám sát của UBTVQH đối với cơ
quan hành pháp là rất đáng kể, nhiều văn bản quy phạm pháp luật được
chỉnh sửa sau khi Đoàn giám sát công bố kết quả giám sát. Hoạt động giám
sát của các Ủy ban của Quốc hội cũng có những tác động khác nhau đối với
hành vi của các Bộ ngành liên quan tuỳ thuộc vào mức độ và khả năng Đoàn
giám sát đưa các thông tin thu được để thảo luận tại các cuộc họp của các cơ
quan của Quốc hội hoặc tại phiên họp toàn thể.
Tuy nhiên, các chuyên đề giám sát trực tiếp về NSNN chưa được tập
trung tổ chức thực hiện, số lượng còn hạn chế, mức độ chuyên sâu, trình độ
chuyên môn về lĩnh vực NSNN không đồng đều, do đó hiệu quả đánh giá về
các chính sách tài chính ngân sách chưa cao.
Nguyên nhân: (1) Việc chỉ đạo, điều hòa và phối hợp hoạt động giữa
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội


trong hoạt động giám sát còn thiếu chặt chẽ, sâu sát; (2) số lượng đại biểu là

thành viên của Hội đồng, Uỷ ban hoạt động chuyên trách còn ít nên dù rất cố
gắng nhưng Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội không thể bố trí thời gian
tương xứng cho công tác này; (3) quy định pháp luật về việc tổ chức đoàn
giám sát chưa rõ dẫn tới tâm lý e ngại hoạt động này là can thiệp vào hoạt
động bình thường của các cơ quan nhà nước; (4) Sự phối hợp giữa Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội và các ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội còn
thiếu chặt chẽ
2. Giám sát NSNN thông qua thảo luận báo cáo của Chính phủ.
Trong một năm, Quốc hội có hai lần thảo luận báo cáo ngân sách. Tại
phiên họp đầu năm (tháng 5), Quốc hội thảo luận và cho ý kiến về báo cáo
bổ sung tình hình thực hiện NSNN, phê chuẩn báo cáo quyết toán NSNN.
Trong phiên họp cuối năm, Quốc hội thảo luận về tình hình thực hiện NSNN
năm hiện hành và dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW, số bổ sung
ngân sách cho các tinh, thành phố trực thuộc trung ương. Ngân sách nhà
nước do Quốc hội quyết định. Trước khi được trình Quốc hội, báo cáo về
NSNN của Chính phủ phải được thảo luận và hoàn thiện tại UB TC-NS và
Ủy ban thương vụ quốc hội (UBTVQH). Hoạt động thẩm tra của UB TC-NS
về dự toán NSNN và phân bổ NSTW, số bổ sung cho ngân sách địa phương
đã tạo cơ hội để các thành viên ủy ban rà soát lại phương án đề xuất của
Chính phủ, yêu cầu Chính phủ giải trình những khoản chi bổ sung chưa có
căn cứ thuyết phục và đề xuất với UBTVQH phương án phân bổ tiếp khoản
còn lại. Nhiều kiến nghị của UB TC-NS về điều chỉnh các khoản thu, cơ cấu
tại các khoan chi trong dự toán tổng thể NSNN hàng năm được Chính phu
(trực tiếp là Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiếp thu và chỉnh sửa
ngay trong quá trình xây dựng dự toán NSNN.


UBTVQH thảo luận báo cáo Chính phủ trên cơ sở kết quả hoạt động
giám sát của các cơ quan Quốc hội, Báo cáo thẩm tra của UB TC-NS, ý kiến
của KTNN (nếu có), ý kiến giải trình của đại diện Chính phủ. Trên cơ sở nội

dung thảo luận tại phiên họp UBTVQH, Chính phủ và UBTC-NS hoàn thiện
báo cáo trình ra Quốc hội.
Trong các kỳ họp Quốc hội, Báo cáo NS được thảo luận ở các tổ
ĐBQH và tại phiên họp toàn thể. Quốc hội bày tỏ thái độ và quan điểm về
báo cáo ngân sách của Chính phủ bằng một Nghị quyết.
* Những tồn tại:
- Thảo luận báo cáo chưa đủ sự quyết liệt để làm rõ trách nhiệm trong
quản lý, điều hành và sử dụng NSNN:
- Báo cáo của Chính phủ thường gửi đến chậm; cách trình bày báo cáo
phức tạp, chưa thực sự khoa học nên rất khó cho ĐBQH không có chuyên
môn về ngân sách tiếp cận và hiểu để tham gia tranh luận; sự bất cân xứng
về thông tin của ĐBQH với cơ quan hành pháp là rất lớn. Hơn nữa, quy trình
thảo luận ngân sách chưa có độ mở cần thiết để các tỏ chức, cá nhân có thể
tham gia đóng góp ý kiến một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dối với các buổi
thảo luận. Trong không ít trường hợp, sự tham gia của các đại biểu trong quá
trình thảo luận còn mang tính hình thức nhất là đối với đại biểu phụ thuộc
nhiều vào cơ quan hành pháp.
Nguyên nhân của những tồn tại này là: (1) Do các báo cáo của Chính phủ
chưa đạt yêu cầu đề ra. Các báo cáo mới chỉ mang tính chất phản ánh tình
hình mà chưa đi sâu phân tích những nguyên nhân. Các giải pháp mà các
báo cáo đề ra để khắc phục những tồn tại cũng còn chung chung, được nêu
lặp lại trong các báo cáo qua từng năm và chưa đủ để tháo gỡ những vướng
mắc, khó khăn trong thực tiễn thực hiện ngân sách... ; (2) Tại mỗi kỳ họp,
thời gian dành cho đại biểu nghiên cứu các báo cáo là chưa thỏa đáng; (3)


Nhiều đại biểu Quốc hội chưa quan tâm đầu tư đúng mức về thời gian, công
sức để nghiên cứu, đánh giá sâu về các nội dung cụ thể của báo cao. Các
nguồn thông tin có liên quan chưa được cung cấp một cách đầy đủ, vì vậy,
Quốc hội không có đủ thông tin và căn cứ xem xét đầy đủ trách nhiệm của

các cơ quan, người có thẩm quyền cũng như khó có thể đưa ra các yêu cầu,
giải pháp phù hợp; (4) Do NSNN là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi những
kiến thức và hiểu biết chuyên môn nhất định nên số lượng các đại biểu đóng
góp ý kiến cho Báo cáo NSNN chưa nhiều, chất lượng chưa cao
3. Giám sát NSNN thông qua hoạt động chất vấn Chính phủ.
Quốc hội còn giành thời gian để các đại biểu Quốc hội chất vấn và trả
lời chất vấn về tình hình quản lý và sử dụng NSNN. Hoạt động chất vấn của
Quốc hội ngày càng được cải tiến, gắn với những nội dung giám sát chuyên
đề, những vấn đề mang tính thời sự nên chất lượng được nâng cao và bám
sát hơn, phân tích sâu sắc hơn những vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Nhiều chất
vấn, kiến nghị của đại biểu Quốc hội đã được các cơ quan có thẩm quyền
xem xét, giải quyết kịp thời.
Tuy nhiên, hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn thiếu hiệu lực và hiệu
quả. Nhiều chất vấn còn chung chung, chưa đúng với tính chất của chất vấn
mà chỉ mang tính chất để biết thông tin và thường chỉ là đối với những vụ
việc cụ thể, thiếu tính hệ thống, toàn diện và vĩ mô. Còn có tình trạng người
trả lời chất vấn trả lời chung chung, không đi thẳng vào vấn đề mà đại biểu
Quốc hội quan tâm, né tránh trách nhiệm cá nhân.
Nguyên nhân: Số ít đại biểu Quốc hội vẫn chưa thực sự nhận thức đầy
đủ về vai trò và ý nghĩa quan trọng của hoạt động chất vấn; các đại biểu Quốc
hội cũng thường không nghiên cứu kỹ vấn đề, chọn lọc thông tin để hình
thành ý kiến chất vấn dẫn tới chất lượng nội dung chất vấn không bảo đảm
yêu cầu; thời gian dành cho phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại mỗi kỳ họp


còn ít, số lượng chất vấn lại nhiều nên cũng ảnh hưởng tới chất lượng chất
vấn và trả lời chất vấn. Đặc biệt, có đại biểu Quốc hội còn e ngại, sợ “mếch
lòng” đối với cá nhân, cơ quan bị chất vấn nên nội dung chất vấn thường
không đề cập đến việc xem xét trách nhiệm của người bị chất vấn. Việc Quốc
hội ra nghị quyết để xem xét trách nhiệm của người bị chất vấn, bỏ phiếu tín

nhiệm đối với người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn… tuy đã được pháp
luật quy định nhưng chưa được phát huy trong thực tế nên thiếu hiệu quả răn
đe.
III.

Giải pháp hoàn thiện.

Để nâng cao hoạt động giám sát NSNN của Quốc hội, cần phải tiến
hành cải cách và đưa ra những giải pháp ở các cấp độ khác nhau như: đổi
mới về quy trình ngân sách, công cụ và kỹ năng giám sát, chế độ báo cáo,
cung cấp thông tin, chất lo lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội, sự tham
gia của phương tiền truyền thông và xã hội. Một số khuyến nghị nhằm khắc
phục nhược điểm và phát huy ưu điểm trong mối quan hệ giữa Quốc hội và
Chính phủ qua đó nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động giám sát NSNN.
1.Cần thống nhất nhận thức về hoạt động giám sát NSNN
Hoạt động giám sát NSNN của Quốc hội cần được nhận thức một
cách đầy đủ, đúng tầm trong hệ thống chính trị, nhất là đối với chủ thể giám
sát và chủ thể bị giám sát, để từ đó thiết kế hệ thống giám sát ngân sách hiệu
năng, tạo giá trị gia tăng cho quá trình hoạch định chính sách và quyết định
ngân sách. Theo đó, thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước,đặc biệt là mối quan hệ giữa hành pháp và lập pháp cần phải được
pháp luật quy định rõ ràng để đảm bảo quyền lực nhà nước của mỗi cơ quan
là có giới hạn, được phân chia trách nhiệm, kiểm tra, kiểm soát để tránh làm
quyền. ĐỂ tạo không gian chính trị cho họa động giám sát ngân sách thì
quyền lực chính trị của Đảng cần được lồng vào quyền lực của Nhà nước và


quyền lực đó cần được phân bổ cân đối giữa lập pháp và hành pháp. Hiến
pháp quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nhưng nếu
trong thực tế sự phân bổ quyền lực chính trị không tương xứng giữa Quốc

hội với Chính phủ thì tính hình thức trong các quy định của luật pháp là điều
không tránh khỏi. Sự tương quan về quyền lực chính trị giữa Quốc hội và
Chính phủ theo hướng cân bằng hơn (giữa Đảng đoàn Quốc hội và Ban cán
sự Đảng Chính phủ) sẽ tác động tích cực đến cách thức các cơ quan Quốc
hội thực hiện giám sát hoạt động giám sát NSNN, các cơ quan của Quốc hội
sẽ có cơ sở để sẵn sàng hơn và quyết liệt hơn trong việc thực hiện chức năng
của mình theo Luật giám sát và Luật ngân sách nhà nước.
2. Phát huy hiệu quả hoạt động giám sát NSNN của các Ủy ban
của Quốc hội, đặc biệt là Ủy ban Tài chính – Ngân sách.
Hiệu quả hoạt động giám sát của Ủy ban sẽ phụ thuộc vào khả năng
độc lập trong hoạt động của các Ủy ban này. Khả năng đó có thể đảm bảo
thông qua một số yêu cầu sau:
- Nâng cao tỷ lệ đại biểu chuyên trách và lựa chọn các đại biểu độc
lập với các cơ quan hành pháp để trở thành thành viên của Ủy ban. Các
thành viên Ủy ban cần độc lập tương đối với Chính phủ để tránh xung đột
lợi ích khi thực hiện nhiệm vụ giám sát ngân sách. Đồng thời, họ cũng sẵn
sàng hơn cho hoạt động chất vấn và theo đuổi các kiến nghị giám sát.
- Điều chỉnh lịch biểu tài chính trong quy trình ngân sách: Nên quy
định thời gian của quy trình ngân sách gồm 14 tháng, trong đó, giai đoạn xác
định ưu tiên chính sách khoảng 2 -3 tháng (từ kỳ họp cuối năm đến tháng 1
năm sau); giai đoạn lập dự toán ngân sách khoảng 7 tháng (từ tháng 2 đến
tháng 8); giai đoạn thẩm tra dự toán và phân bổ NSNN khoảng 2 tháng (từ
15/08 đến 15/10); giai đoạn Quốc hội thảo luận, quyết định dự toán và phân
bổ ngân sách là 1 tháng (từ 15/10 đến trước 15/11 hàng năm). Trong trường


hợp bỏ hệ thống ngân sách lồng ghép, thời gian quốc hội thảo luận, quyết
định ngân sách có thể là 2,5 tháng (từ 15/10 đến 31/12 hàng năm).
- Về thẩm quyền và thông tin, Ủy ban cần được trao đủ thẩm quyền để
yêu cầu các bộ, ngành, doanh nghiệp nhà nước, các chuyên gia và các thành

viên xã hội cung cáp thông tin, chứng cứ khi thực hiện giám sát ngân sách
thông qua các hoạt động chất vấn, điều trần tại cấp Ủy ban. Một mặt cần
sớm sửa đổi, bổ sung Nghị quyết 387 của UBTVQH về lập, thẩm tra, trình
Quốc hội quyết định sự toán NSNN, phân bổ ngân sách trung ương, phê
chuẩn quyết toán NSNN để các thông tin, báo cáo của các cơ quan Chính
phủ gửi tới Quốc hội đảm bảo tính kịp thời, toàn diện, có hệ thống, dễ phân
tích, đánh giá. Mặt khác, Ủy ban cần những thông tin, những phân tích, dự
báo về kinh tế, tài chính, ngân sách từ các nguồn khác nhau như kiểm toán
nhà nước, các cơ quan nghiên cứu…
- Về thủ tục và năng lực, cần ủy ban hóa các hoạt động của Quốc hội
để những nội dung trình ra Quốc hội đã được thảo luận kỹ ở giai đoạn Ủy
ban. Các Ủy ban trở thành chỗ dựa vững chắc về mặt chuyên môn Quốc hội.
Để làm được điều này thì thủ tục, quy trình làm việc (bao gồm cả lịch biểu
tài chính), sự phối hợp giữa các Ủy ban cần được quy chế hóa và cụ thể để
quy trình ngân sách giai đoạn trình, thẩm tra tại cơ quan Quốc hội được thực
hiện có chất lượng. Khả năng chuyên môn của Ủy ban như năng lực phân
tích chính sách, nghiên cứu, đánh giá ngân sách, sử dụng kết quả kiểm toán
và đánh giá chất lượng hoạt động của kiểm toán nhà nước… có vai trò quan
trọng đối với chất lượng hoạt động của Ủy ban khi Ủy ban thực hiện chức
năng thẩm tra, phản biện. Khả năng chuyên môn sâu cuat Ủy ban cũng được
củng cố thông qua việc duy trì quy mô của Ủy ban không quá đông (tối đa
nên khoảng 20 thành viên/1 Ủy ban), đảm bảo một số điều kiện để các thành
viên Ủy ban có thể tái cử và xây dựng hệ thống ủy ban tương thích hơn đói


với cơ cấu của Chính phủ để thuận lợi cho việc giám sát hoạt động của các
Bộ, ngành
- Về nguồn nhân lực và tài chính, Ủy ban cần có cơ quan hỗ trợ
chuyên môn với nhiều chuyên gia có kỹ năng phân tích, đánh giá và dự báo
ngân sách để hỗ trợ Ủy ban trong quá trình thẩm tra, giám sát, nâng cao tính

chủ động và độc lập trong hoạt động chuyên môn của Ủy ban. Những
chuyên gia này có thể là công chức của Quốc hội hoặc các cộng tác viên
thường xuyên của Ủy ban. Đồng thời cần có nguồn ngân sách tương xứng và
các định mức chi tiêu phù hợp với đặc thù hoạt động của cơ quan dân cử để
thực hiện thuê khoán chuyên môn với các nhà nghiên cứu, các chuyên gia
phản biện chính sách độc lập trong điều kiện nguồn nhân lực của Quốc hội
còn hạn chế như hiện nay.
- Sử dụng đa dạng và linh hoạt hệ thống ủy ban trong giám sát ngân
sách, đặc biệt là hoạt động điều trân của ủy ban hoặc lập Ủy ban điều tra đối
với những chính sách quản lý tài chính – ngân sách nổi cộm hoặc những vụ
việc được cử tri và xã hội đặc biệt quan tâm. Hoạt động giám sát của Ủy ban
cần được tiến hành theo hướng ủy ban dành nhiều thời gian hơn để nghe ý
kiến từ đối tượng trực tiếp chịu tác động của chính sách hoặc quyết định của
cơ quan hành pháp để nắm được hơi thở của cuộc sống trước khi làm việc
với các cơ quan có thẩm quyền.
3. Hoàn thiện hoạt động của cơ quan kiểm toán nhà nước để hỗ
trợ mục tiêu giám sát NSNN.
Trong điều kiện của Việt Nam, việc sử dụng có hiệu quả kiểm toán
Nhà nước để hỗ trợ Quốc hội thực hiện chức năng giám sát là rất quan trong.
Kiểm toán nhà nước sẽ tiến hành kiểm tra sâu về chuyên môn trong quản lý
tài chính công, những công việc mà các Ủy ban của Quốc hội không có điều
kiện để làm và cũng không phù hợp để làm. Thực tế thời gian qua, Kiểm


toán Nhà nước đã từng bước góp phần tích cực trong việc cung cấp thông
tin, tư vấn để Quốc hội có thêm căn cứ quyết định, giám sát và phê chuẩn dự
toán quyết toán NSNN (nhất là từ khi Luật Kiểm toán Nhà nước được Quốc
hội thông qua và có hiệu lực từ 01/01/2006). Tuy nhiên, để hoạt động của
Kiểm toán nhà nước hỗ trợ tích cực hơn nữa hoạt động giám sát NSNN của
Quốc hội, trong thời gian trước mắt, Kiểm toán Nhà nước cần triển khai một

số giải pháp sau đây:
Thứ nhất, nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chuẩn mực kiểm toán, các
quy định kiểm toán, các phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán để
chất lượng mỗi cuộc kiểm toán được nâng cao, qua mỗi cuộc kiểm toán,
những vấn đề tồn tại, vi phạm mà kiểm toán phát hiện cần được đề xuất xử
lý, giải quyết ở tầm chính sách.
Thứ hai, tập trung lực lượng kiểm tra quyết toán NSNN hàng năm của
các Bộ, ngành trung ương, các địa phương có số thu, chi NSNN lớn để giúp
Quốc hội phê chuẩn quyết toán NSNN.
Thứ ba, tăng cường các cuộc kiểm tra theo chuyên đề, theo các
chương trình, dự án mà Quốc hội quyết định để một mặt giải quyết những
bức xúc của xã hội về những tiêu cực, lãng phí đang xảy ra trong một số lĩnh
vực cụ thể, mặt khác giúp Quốc hội có những thông tin toàn diện về kết quả
thực hiện chính sách mà mình đã thông qua để làm cơ sở cho quyết định
phân bổ ngân sách cho những năm tới.
Thứ tư, kết hợp thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và
kiểm toán hoạt động để nâng tầm báo cáo kiểm toán trình Quốc hội, giúp
Quốc hội có thêm những căn cứ, cơ sở để quyết định những vấn đề ở tầm vĩ
mô.
C. KẾT LUẬN



×