Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Các quy định của luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và đề xuất hoàn thiện các quy định này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.98 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm
1.2 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo qui định của Bộ luật tố
tụng hình sự hiện hành
1.2.1 Thẩm quyền xét xử theo sự việc
1.2.1.1 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự
khu vực
1.2.1.2 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự
cấp quân khu
1.2.2 Thẩm quyền xét xử theo đối tượng
1.2.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ
1.2.4 Thẩm quyền chuyển vụ án
2. Thực tiễn việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và một
số kiến nghị
2.1 Tình hình thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành
2.2 Những bất cập khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án
2.3 Một số kiến nghị
2.3.1 Sửa đổi một số điều của Hiến pháp
2.3.2 Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự
2.3.3 Sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân
2.3.4 Sửa đổi Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân tối cao
2.3.5 Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan
2.2.6 Một số giải pháp khác
C. KẾT LUẬN
1



A. LỜI MỞ ĐẦU
Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là một trong những qui định trung tâm của
chế định thẩm quyền xét xử của Tòa án. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
và các văn bản pháp luật khác về vấn đề này là cơ sở pháp lý quan trọng cho
hoạt động tư pháp những năm qua. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng còn
một số bất cập và vướng mắc khi thực thi xử lý các vụ án trên thực tế. Để
phân tích một cách cụ thể và từ đó đưa ra được hướng hoàn thiện cho vấn đề
trên em đã lựa chọn đề tài “Các quy định của luật tố tụng hình sự về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và đề xuất hoàn thiện các quy định
này”.
B. NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự:
1.1 Khái niệm thẩm quyền xét xử sơ thẩm:
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong
đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra bản án, quyết
định tố tụng theo qui định của pháp luật. Giai đoạn này có những nhiệm vụ và
ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự theo qui
định của pháp luật, vì vậy xác định rõ ràng vấn đề thẩm quyền xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự cần được hết sức quan tâm. Việc xác định thẩm quyền xét xử
của Tòa án có ý nghĩa quan trọng và là cơ sở để xác định thẩm quyền xét xử
của Tòa án trong các giai đoạn tiếp theo. Thẩm quyền của Tòa án theo nghĩa
chung nhất được hiểu là quyền xem xét và giải quyết vụ án theo qui định của
pháp luật. Trong luật tố tụng hình sự, thẩm quyền xét xử của Tòa án theo
nghĩa rộng bao gồm quyền xem xét và quyền giải quyết vụ việc , ra bản án
hoặc các quyết định khác như quyết định đình chỉ vụ án…Thẩm quyền của
Tòa án bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về
hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm quyền về hình thức là quyền xem
xét và phạm vi xem xét của Tòa án. Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn
giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét.

2


Thẩm quyền xét xử của Tòa àn theo qui định tại chương XVI của Bộ
luật tố tụng hình sự là thẩm quyền về hình thức (xem xét vụ án). Như vậy, ta
có thể hiểu: “Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là quyền mà pháp luật qui định cho
phép Tòa án được xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căm cứ vào tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội
phạm hoặc nơi khác theo qui định vủa pháp luật.”
1.2 Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án theo qui định của Bộ luật tố
tụng hình sự hiện hành:
1.2.1 Thẩm quyền xét xử theo sự việc:
Thẩm quyền xét xử theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án các cấp với nhau căn cứ vào tính chất tội phạm
1.2.1.1 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu
vực:
Khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã qui định:
“Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ
thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những tội phạm sau đây:
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội qui định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222,
223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự
năm 1999”.
Như vậy, Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm những tội phạm mà Bộ luật hình sự qui định hình
phạt tù từ mười lăm năm trở xuống trừ những tội qui định tại điểm a, b, c
khoản 1 điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, do trình độ
năng lực chuyên môn, điều kiện cơ sở vật chất, biên chế của Cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, Tòa án ở một số huyện chưa đảm bảo yêu cầu, cần tiếp tục bổ
sung, kiện toàn mới có thể đáp ứng được yêu cầu đặt ra để cơ sở thể thực hiện
3


được qui định của Bộ luật tố tụng hình sự về việc mở rộng thẩm quyền của
Tòa án cấp huyện theo tinh thần trên. Nghị quyết số 24/2003/QH11 về việc
thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã chỉ rõ tại mục 3: “Kể từ ngày
Bộ luật tố tụng hình sự có hiệu lực, những Tòa án nhân dân huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh, Tòa án quân sự khu vực có đủ điều kiện thực hiện
thì giao thẩm quyền xét xử mới theo qui định tại khoản 1 điều 170 Bộ luật tố
tụng hình sự. Những Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, Tòa án quân sự khu vực chưa đủ điều kiện thực hiện thì thẩm quyền xét
xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, trừ những tội phạm qui định tại các điểm a, b, c khoản 1 điều
170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nhưng chậm nhất đến ngày 01/7/2009,
tất cả Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án
quân sự khu vực thực hiện thống nhất thẩm quyền xét xử mới theo qui định tại
khoản 1 điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự”
1.2.1.2 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp
quân khu:
Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân
khu theo qui định tại khoản 2 điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: Tòa
án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quận khu có thẩm quyền xét xử
sơ thẩm hai loại việc sau:
- Những vụ án hình sự về tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực;
- Những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét
xử.
Bộ luật tố tụng hình sự không qui định cụ thể những vụ án nào thuộc

thẩm quyền Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh lấy lên để xét xử. Do đó,
Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát và Thủ trưởng Cơ quan điều tra
cấp tỉnh cần căn cứ vào khả năng thực tế của các Thẩm phán, Kiểm sát viên
và Điều tra viên ở cấp huyện mà xác định những vụ án nào cần lấy lên để điều
4


tra, truy tố, xét xử ở cấp tỉnh. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án cấp tỉnh
cần lấy lên để điều tra, truy tố, xét xử các vụ án sau:
- Vụ án phức tạp (có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án
hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành);
- Vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, sĩ quan Công an, cán bộ lãnh
đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao
trong dân tộc ít người.
1.2.2 Thẩm quyền xét xử theo đối tượng:
Thẩm quyền xét xử theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử
giữua Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng tội phạm.
Theo qui định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002:
“Các Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo
là:
1. Quân nhân tại ngũ, công chức, quân nhân quốc phòng, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàn chiến
đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến
đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị
quân đội trực tiếp quản lý.
2. Những người không thuộc các đối tượng qui định tại khoản 1 Điều này mà
phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội.”
Theo qui định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002
các khái niệm được hiểu như sau: Bí mật quân sự là bí mật quân đội, bí mật
về an ninh quốc phòng được xác định là bí mật quân sự và được qui định

trong các văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Gây
thiệt hại cho quân đội là gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh
dự, nhân phẩm của những người được qui định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh
tổ chức Tòa án quân sự hoặc tài sản của những người này được quân đội cấp
phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự, gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín
của quân đội. Tài sản của quân đội là tài sản do quân đôi quản lý, sử dụng, kể
5


cả trường hợp quân đội giao tài sản cho dân quân, tự vệ hay bất kỳ người nào
khác quản lý, sử dụng để chiến đấu hoặc phục vụ quân đội. Các trường hợp
phạm tội trong khu vực có bảo vệ của quân đội , trong khu vực cấm, khu vực
bảo vệ các công trình quan trọng về an ninh quốc phòng do quân đội quản lý
cũng được coi là gây thiệt hại cho quân đội.
Theo qui định tại Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự : Quân nhân tại ngũ
phạm tội trong quân đội và ngoài xã hội đều thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa
án quân sự. Trường hợp vụ án vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án quân sự, vừa có bị cáo hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét
xử của Tòa án nhân dân thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án. Nếu có thể
tách ra để xét xử riêng thì Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân xét xử những bị
cáo thuộc thẩm quyền của mình. Những người không còn phục vụ trong quân
đội mà bị phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ
quân đội; hoặc những người được phát hhiện là phạm tội trước khi nhập ngũ
thì thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự về những tội phạm liên quan
đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho quân đội, những tội phạm khác do
Tòa án nhân dân xét xử. Vụ án có những tình tiết cần điều tra liên quan đến bí
mật quốc phòng như địa điểm, thiết bị, kế hoạch quân sự.. thì Tòa án quân sự
xét xử. Những việc phạm tội khác, Tòa án quân sự có thê chuyển cho Tòa án
nhân dân. Nếu có tranh chấp về thẩm quyền giữa Tòa án quân sự và Tòa án
nhân dân thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét và quyết định.

1.2.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ:
Thẩm quyền theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ
vào nơi phạm tội được thực hiện và nơi kết thúc điều tra.
Điều 171 Bộ luật tố tụng hình sự qui định:
“1. Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được
thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau
hoặc không xác định được nơi thực hiên tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền
xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
6


2. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài mếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân
dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không
xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường
hợp, Chánh án Tòa án nhân tối cao ra quyết định giâo cho Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân
sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của
Chánh án Tòa án quân sự trung ương.”
Bên cạnh đó Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự qui định: “Những tội
phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc ngoài lãnh hải Việt Nam
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân Việt Nam, nơi có sân bây hoặc
bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tài bay, tàu biển đó được đăng ký.”
1.2.4 Thẩm quyền chuyển vụ án:
Thẩm quyền chuyển vụ án được qui định tai Điều 174 Bộ luật tố tụng
hình sự, theo đó: Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử, nếu
nhận thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Việc chuyển vụ án
cho Tòa án trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc trong
phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu

vực quyết định. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp
tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Tòa án chỉ được quyền chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền khi vụ
án chưa được xét xử, trong trường hợp nay việc chuyển vụ án do Chánh án
Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự
hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án dù đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho
Tòa án có thẩm quyền, trường hợp này việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử
quyết định. Thời hạn chuyển vụ án phải tuân thủ qui định tại Điều 174 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003: “Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết
7


định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo
cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ án.”
2. Thực tiễn việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và
một số kiến nghị:
2.1 Tình hình thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo
Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành:
Thực hiện lộ trình giao thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo quy định tại
khoản 1 điều 170 BLTTHS cho Tòa án cấp huyện theo quy định tại Nghị
quyết 24 của Quốc hội, từ năm 2004 đến năm 2009, Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã ra 5 Nghị quyết về việc giao thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho các Tòa
án. Nói chung, từ sau khi BLTTHS năm 2003 quy định tăng thẩm quyền xét
xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện, số lượng các vụ án được Tòa án nhân dân
cấp huyện giải quyết và xử lý đã tăng lên đáng kể và chất lượng xét xử cũng
ngày càng nâng cao. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, từ khi thực
hiện thẩm quyền xét xử mới, số lượng các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền
mới mà các Tòa án được giao đầy đủ thẩm quyền tăng bình quân 30
vụ/năm/Tòa án. Một số đơn vị có số lượng án mới tăng trên 100 vụ/năm.

Các Tòa án cấp huyện sau khi được tăng thẩm quyền đã có nhiều cố
gắng để đưa các vụ án ra xét xử trong thời hạn pháp luật quy định, chất lượng
xét xử cũng đã đảm bảo được tính chính xác và nghiêm minh, tỷ lệ các bản
án, quyết định bị hủy, sửa giảm nhiều so với trước. Trong những năm gần
đây, mặc dù số lượng vụ án phải thụ lý xét xử ở cấp sơ thẩm ngày càng tăng
nhưng tốc độ giải quyết ngày càng nhanh chóng hơn, lượng án tồn đọng ngày
càng hạn chế. Số lượng án sơ thẩm tồn đọng ở Tòa án nhân dân cấp tỉnh
không còn lớn so với lượng án thụ lý hàng năm.
Trong những năm qua, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ Tòa án các
cấp tiếp tục được củng cố, tăng cường, đặc biệt là các Tòa án cấp huyện đã
được tăng thẩm quyền xét xử. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo Tòa án các cấp đã
được kiện toàn, bổ sung, bảo đảm yêu cầu công tác; công tác tuyển dụng cán
8


bộ, công chức, tạo nguồn thẩm phán có nhiều tiến bộ, đã khắc phục được tình
trạng thiếu cán bộ lãnh đạo Tòa án địa phương. Bên cậnh đó, thực tế cho thấy
những năm gần đây, Tòa án cấp huyện đã được cải thiện nhiều về cơ sở vật
chất. Nhà nước đã cấp kinh phí để Tòa án cấp huyện đầu tư cơ sở vật chất
phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của mình.
2.2 Những bất cập khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án:
Thứ nhất, những bất cập trong các qui định của pháp luật về thẩm
quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án:
Khoản 2 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự có qui định Tòa àn nhân dân
cấp tỉnh có quyền lấy những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân
dân cấp dưới lên để xét xử ở cấp mình. Tuy nhiên, trong Bộ luật không qui
định cụ thể trường hợp nào thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh được lấy những vụ
án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện lên để xét xử . Thực tế hiện
nay không có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể vấn đề trên, gây ra những

khó khăn, thiếu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Điểm bất hợp lý trong cách diễn đạt trong Điều 174 Bộ luật tố tụng
hình sự về việc chuyển vụ án có qui định: “Chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án
khác khi vụ án chưa được xét xử” tuy nhiên ở đoạn dưới lại qui định “Nếu vụ
án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã
được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền” tạo nên sự
mâu thuẫn làm cho những người áp dụng pháp luật dễ lúng túng khi gặp phải
trường hợp này.
Bộ luật tố tụng hình sự không có qui định phân biệt thẩm quyền xét xử
giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự mà qui định trong Pháp lệnh tổ chức
Tòa án quân sự, là van bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn. Điều 5 Pháp lệnh tổ
chức Tòa án quân sự thì nếu vụ án vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử,
vừa có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì Tòa án nhân
dân xét xử Tòa án nhân dân xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền của Tòa án
9


nhân dân, Tòa án quân sự xét xử tội phạm thuộc thẩm quyền chủa Tòa án
quân sự, trường hợp không tách được thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.
Quy định này mâu thuẫn với Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự là chỉ được
tách vụ án trong những trường hợp thật cần thiết khi không thể hoàn thành
sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.
Thứ hai, những bất cập trong thực tiễn áp dụng các qui định pháp
luật về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự:
Tranh chấp về thẩm quyền xét xử là một trong những vướng mắc
thường gặp khi Tòa án và Viện kiểm sát không thống nhất với nhau về thẩm
quyền giải quyết vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự qui định “Khi thấy vụ án
không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho
Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết”. Tuy nhiên, Bộ

luật tố tụng hình sự không qui định vầ các văn bản khác không hướng dẫn thủ
tục chuyển vụ án dẫn đến trên thực tế việc áp dụng qui định này còn thiếu
thống nhất; có nhiều trường hợp Tòa án chuyển trả hồ sơ cho Viện kiểm sát
để Viện kiểm sát chuyển cho cấp có thẩm quyền truy tố; có Tòa án lại chuyển
thẳng cho Tòa án cấp có thẩm quyền để trả lại cho Viện kiểm sát cùng cấp để
truy tố lại…
Hiện nay các cơ quan tiến hành tố tụng cũng đang rất lúng túng trong
việc xác định thẩm quyền xét xử các vụ án có yếu tố nước ngoài. Bộ luật tố
tụng chỉ qui định thẩm quyền Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu có thẩm quyền xét xử các vụ
án xảy ra ở nước ngoài. Còn các vụ án có yếu tố nước ngoài khác như bị can,
bị cáo, người bị hại là người nước ngoài, trường hợp tội phạm vừa thực hiện ở
nước ngoài vừa thực hiện ở trong nước…thì không có qui định. Vì vậy, các
cơ quan tiến hành tố tung rất lúng túng trong công việc điều tra, truy tố, xét
xử. Trên thục tế vụ án mà bị can, bị cáo là người nước ngoài, các vụ án mà tội
phạm vừa thực hiện ở trong nước vừa thực hiện ở nước ngoài thì do Tòa án
10


cấp tỉnh xét xử. Các vụ án mà người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
là người nước ngoài thì chưa có sự thống nhất.
Việc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân theo đối tượng
cũng đang gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn. Tòa án nhân dân cấp tỉnh
thường quyết định lấy các vụ án mà người phạm tội là cán bộ chủ chốt cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp trung ương, những người có chức sắc tôn giáo, những
người có uy tín trong xã hội…lên để xét xử. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có
văn bản nào quy định về vấn đề này dẫn đến việc áp dụng còn nhiều vướng
mắc.
Thứ ba, những bất cập trong công tác tổ chức và cơ sở vật chất:
Hiện nay kinh phí cấp cho ngành Tòa án nhân dân còn thấp gây nhiều khó

khăn trong tổ chức và hoạt động của Tòa án, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều Tòa
án còn thiếu cán bộ, cán bộ không có đủ năng lực trình độ với yêu cầu công
tác.
Những bất cập trong việc thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự thường xuất phát từ những nội dung cơ bản sau đây:
- Những qui định của pháp luật đặc biệt là Bộ luật tố tụng hình sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ, còn nhiều vấn đề còn tồn tại trên thực tế
vẫn chưa được đề cập tới, đó là những lỗ hổng, những thiếu sót làm cho pháp
luật không theo kịp với những bước phát triển của xã hội.
- Nhận thực pháp luật của những người tiến hành tố tụng chưa được cao, tạo
khó khăn trong việc thực hiện đúng các qui định của pháp luật.
- Nhận thức của công dân về các qui định của pháp luật về thẩm quyền xét xử
dẫn đến những vi phạm về thẩm quyền khi thực hiện các quyền về khiếu nại,
tố cáo hoặc kháng cáo đối với các vụ án.
- Giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong việc
xác định, phát hiện và xử lý các vụ án có những yếu tố phức tạp, khó xác định
thẩm quyền.
2.3 Một số kiến nghị:
11


2.3.1 Sửa đổi một số điều của Hiến pháp:
Điều 127 Chương X, Hiến pháp 1992 qui định: “Tòa án nhân dân tối
cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác
do luật định là những cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.” Tuy nhiên, Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, các Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử,
không phụ thuộc vào các đơn vị hành chính, gồm: Tòa án sơ thẩm khu vực,
Tòa án phúc thẩm, Tòa thượng thẩm và Tòa án nhân dân tối cao. Do vậy cần:
Sửa đổi điều 127 Hiến pháp thành: “Tòa án nhân dân tối cao, Tòa thượng

thẩm, Tòa án phúc thẩm, Tòa án sơ thẩm khu vực, các Tòa án quân sự và các
Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”.
Sửa đổi Điều 135 Hiến pháp. Điều 135 Hiến pháp qui định “ Chánh án
Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân”. Tuy nhiên, việc báo cáo trước Hội đồng nhân dân địa
phương chỉ phù hợp với mô hình Tòa án được tổ chức theo địa hạt hành
chính. Khi hệ thống Tòa án được tổ chức theo thẩm quyền và không phụ
thuộc vào địa hạt hành chính thì việc báo cáo trước Hội đồng nhân dân địa
phương cần phải xem xét lại. Cần sửa đổi điều này theo hướng giao cho cấp
ủy Đảng và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo và
giám sát đối với hoạt động và tổ chức của Tòa án sơ thẩm khu vực và Tòa án
nhân dân cấp tỉnh theo cơ chế: Hoạt động của Tòa án sơ thẩm khu vực và Tòa
án phúc thẩm chịu sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chịu sự giám sát của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh.
2.3.2 Hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự:
Bộ luật tố tụng hình sự hạn chế nhiều trường hợp vụ án hình sự mà Tòa
án cấp huyện không được xét xử tại khoản 1 điều 170, qui định đó chỉ phù
hợp với trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người tiến hành tố tụng thời kỳ
trước khi BLTTHS ban hành. Hiện nay, năng lực thực tế của các cơ quan tiến
12


hành tố tụng ở cấp huyện đã được nâng lên rất nhiều. Đối với các tội quy định
tại chương 11 và chương 24 do tính chất nghiêm trọng và phức tạp trong việc
điều tra, truy tố và xét xử nên BLTTHS quy định các tội phạm này không
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện là hoàn toàn phù hợp.
Đối với các tội quy định tại điểm c khoản 1 điều 170 BLTTHS, trong thời
điểm hiện tại, các Tòa án cấp huyện đã có khả năng xét xử hầu hết các loại tội
phạm này, vì vậy, nên mở rộng hơn nữa thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp

huyện.
Về thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự
cấp quân khu, việc quy định Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án cấp quân khu có
thê lấy vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp dưới lên xét xử là có
điểm chưa hợp lý. Vì nếu chỉ quy định chung chung, không có sự hướng dẫn
như vậy dễ dẫn đến sự tùy tiện trong áp dụng và trong thực tế sẽ gây khó khăn
cho việc giải quyết vụ án. Nên bỏ việc quy định TAND cấp tỉnh và TAQS cấp
quân khu có thể lấy vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới lên để xét
xử và bổ sung vào điểm c khoản 1 điều 170 BLTTHS một số trường hợp vụ
án hình sự mà tội phạm do một số đối tượng nhất định thực hiện không thuộc
thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện để tạo ra sự phân chia rành
mạch trong thẩm quyền xét xử.
Theo quy định tại điều 171 BLTTHS, trường hợp bị cáo phạm tội ở
nước ngoài bị đưa về nước xét xử, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án
quân sự thì do TAQS cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh
án TAQS trung ương, quy định như vậy là chưa thực sự chính xác vì hiện nay
theo quy định của BLTTHS không có một cấp Tòa án quân sự nào cao hơn
TAQS cấp quân khu có thẩm quyền xét xử sơ thẩm cả. Vì vậy, cần sửa đổi
đoạn ba điều 171 BLTTHS sẽ có nội dung sau: “Bị cáo phạm tội ở nước
ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do TAQS cấp
quân khu xét xử theo quyết định của Chánh án TAQS trung ương.”

13


BLTTHS hiện hành quy định: đối với với các tội phạm xảy ra trên tàu
bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng Việt Nam sẽ
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nơi có tàu bay, tàu biển trở về đầu tiên ở
trong nước hoặc Tòa án nơi tàu bay, tàu biển đó đăng ký. Quy định như vậy
dễ dẫn đến việc tranh chấp hoặc đùn dẩy lẫn nhau giữa các Tòa án nói trên.

Mặt khác việc quy định như vậy se gây khó khăn trong việc thu thập chứng
cứ. Chính vì vậy, cần sử đổi Điều 72 BLTTHS như sau: “Những tội phạm xảy
ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đang hoạt động ngoài không phận hoặc ngoài lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có san bay hoặc bến cảng trở về đầu
tiên ở trong nước.”
2.3.3 Sửa đổi Luật tổ chức Tòa án nhân dân:
Cần sửa đổi Điều 1 “Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là các cơ quan
xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và điều 2 về các Tòa
án ở Việt Nam cho phù hợp với cơ cấu tổ chức mới của hệ thống Tòa án theo
thẩm quyền.
Khi tổ chức lại hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử thì Tòa án
nhân dân tối cao sẽ không còn là cơ quan có thẩm quyền xét xử phúc thẩm,
Giám đốc thẩm, Tái thẩm như quy định của điều 20 Luật tổ chức Tòa án hiện
nay. Do vậy cần sửa đổi các quy định tại Điều 18 về cơ cấu tổ chức của Tòa
án nhân dân tối cao, điều 19 về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân tối
cao, điều 20, 21, 22, 23, 24 về thẩm quyền xéy xử của Tòa án nhân dân tối
cao và các bộ phận trực thuộc Tòa án nhân dân tối cao.
Chương III qui định về Tòa án nhân dân địa phương cần sửa đổi toàn
diện vì trong tương lai Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp
huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ thay thế bởi Tòa án sơ thẩm khu vực vầ
Tòa án phúc thẩm, Do vậy, về cơ cấu tổ chức cũng như nhiệm vụ quyền hạn
và thẩm quyền xét xử cũng sẽ thay đổi theo.
14


2.3.4 Sửa đổi Pháp lệnh thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân tối cao:
Để khắc phục tình trạng thiếu thẩm phán, ngành Tòa án cần có chiến
lược quy hoạch cụ thể đào tạo ngành thẩm phán, bên cạnh đó, để các thẩm

phán có thể yên tâm công tác, hạn chế tiêu cực ngành Tòa án cần phải có các
chính sách đãi ngộ hợp lý về vật chất cũng như tinh thần cho đọi ngũ thẩm
phán, cán bộ.
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân là một trong những văn
bản quan trọng quy định một cách chi tiết về tiêu chuẩn bổ nhiệm thẩm phán
và Hội thẩm nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như các chế độ đối với
Thẩm phán và Hội thẩm. Do vậy, khi có thay đổi về mặt thẩm quyền xét xử
cũng cần sửa đổi toàn diện các quy định của Pháp lệnh này để xây dựng lại hệ
thống các chức danh thẩm phán phù hợp với mô hình tổ chức mới của Tòa án
các cấp, xac định tiêu chuẩn Thẩm phán, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm
phán, nhiệm kỳ thẩm phán, sửa đổi cơ chế bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm hội
thẩm Tòa án.
2.3.5 Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan:
Cần sửa đổi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân về
các quy định liên quan đến việc bầu Hội thẩm nhân dân và chức năng giám
sát của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động của Tòa án cho phù hợp với tính
chất hoạt động và mô hình tổ chức của Tòa án sơ thẩm khu vực và Tòa án
phúc thẩm.
Cần sửa đổi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và pháp lệnh điều tra
hình sự: Hoạt động của các cơ quan tư pháp có liên quan chặt chẽ với nhau,
hoạt động của Tòa án sơ thẩm khu vực sẽ có liên quan chặt chẽ đến việc điều
tra, truy tố của các cơ quan tiến hành tố tụng cung cấp. Do vậy, cần hoàn
thiện các quy định có liên quan đến việc thành lập, tổ chức và hoạt động của
cơ quan công tố và điều tra phù hợp với mô hình hoạt động của cơ quan Tòa
án được tổ chức theo thẩm quyền xét xử.
2.2.6 Một số giải pháp khác:
15


Cần nâng cao chất lượng trình độ đội ngũ cán bộ ngành Tòa án. Toàn

ngành cần tích cực tham gia vào việc xây dựng , hoàn thiện hệ thống pháp
luật; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán
bộ, công chức Tòa án các cấp. Cần khẩn trương tuyển dụng và tuyển chọn đủ
biên chế cán bộ, Thẩm phán Tòa án các cấp theo hướng: đối với những nơi
vùng sâu, vùng xa, miền núi có khó khăn về nguồn cán bộ tuyển dụng thì phối
hợp cấp ủy, chính quyền địa phương để có những giải pháp thu hut cán bộ,
sinh viên tốt nghiệp Đại học Luật đến công tác yại các Tòa án địa phương
này; mở rộng nguồn bổ nhiệm thẩm phán trên cơ sở quy định vủa pháp luật
hiện hành. Đảm bảo thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với các cán
bộ, công chức…Bên cạnh việc mở các lớp đào tạo nâng cao chất lượng cho
đội ngũ cán bộ ngành Tòa án, khi tổ chức Tòa án cấp sơ thẩm theo khu vực
nên thành lập ở các Tòa án này các Tòa án chuyên trách cho từng lĩnh vực cụ
thể đảm bảo tính chuyên môn trong công tác xét xử. Tăng cường đầu tư cơ sở
vật chất của các Tòa án để phục vụ công tác xét xử.
C. KẾT LUẬN
Muốn xây dựng thẩm quyền của Tòa án trước hết phải xây dựng thẩm
quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm là cơ sở để xây
dựng thẩm quyền của tòa án các cấp. Cho nên, việc nghiên cứu các quy định
của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử sơ thẩm, không những giúp ta
thấy được quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật về chế định này
theo tiến trình phát triển của ngành luật tố tụng hình sự mà còn có ý nghĩa
quan trọng để tìm ra những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
2. Bộ luật hình sự năm 1999.
3. Hiến pháp năm 1992.

4. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
5. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo dụng luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
6. Trần Thị Lê Na, Hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình
sự của tòa án nhân dân các cấp, Luận văn thạc sĩ luật học, 2009.
7. Nhâm Thị Minh Thúy, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án theo quy
định của luật tố tụng hình sự Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, 2010.
8. Nguyễn Văn Huyên, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của tòa án nhân
dân và tòa án quân sự các cấp, Luận văn thạc sĩ luật học, 1996.

17



×