Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Mối quan hệ UBTVQH - Quốc hội đối với chức năng giám sát tối cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.75 KB, 12 trang )

I. Mối quan hệ UBTVQH - Quốc hội đối với chức năng giám sát tối cao:
1. Vị trí của UBTVQH qua bản Hiến pháp 1992:
Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung 2001 đã kế thừa những tư tưởng về tổ chức
quyền lực Nhà nước ở các Hiến pháp trước đây nhưng ở khía cạnh phân công chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan Nhà nước và thể hiện rõ nét, đầy đủ
hơn về thực hiện quyền lực nhà nước như bước chuyển về sự phân công lao động
trong bộ máy Nhà nước nhưng vẫn đảm bảo quyền lực thống nhất thuộc về nhân
dân. Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của Quốc gia; giám sát tối cao
mọi hoạt động Nhà nước. Xuất phát từ tính quyền lực tối cao của Quốc hội cũng
như chức năng cơ bản của Quốc hội là lập pháp, đòi hỏi Quốc hội phải quyết định
những vấn đề, trên những lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, Quốc hội Việt
Nam hoạt động theo nhiệm kỳ, các đại biểu chủ yếu hoạt động theo chế độ kiêm
nhiệm, không chuyên trách do đó nên Quốc hội phải thành lập ra một cơ quan
mang tính thường trực cho Quốc hội, thay mặt Quốc hội giải quyết những nhiệm
vụ thuộc thẩm quyền của mình giữa hai kỳ họp, kể cả việc ban hành các VBQPPL
giống như luật (gọi là pháp lệnh), có hiệu lực pháp lý cao hơn các VBQP của hành
pháp (do Chính phủ) ban hành. Về mặt nguyên tắc, khi UBTVQH giải quyết những
nhiệm vụ, quyền hạn trên đều phải trực tiếp hoặc gián tiếp có sự phê chuẩn của
Quốc hội. Theo Hiến pháp 1992, UBTVQH chỉ thực hiện chức năng lập pháp do
Quốc hội trao quyền, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. UBTVQH
với thành phần bao gồm: Chủ tịch Quốc hội, các Phó chủ tịch Quốc hội và các ủy
viên khác, với chức năng ban hành các pháp lệnh hạn chế trong chương trình lập
pháp của Quốc hội là bước quá độ chuyển động từ thường xuyên hay chủ yếu kiêm
nhiệm sang hoạt động thường xuyên để đảm nhiệm chức năng là ban hành các đạo
luật và chức năng khác của Quốc hội. Đồng thời cũng là bước quá độ chuyển đổi
1


cơ quan hoạt động thường xuyên cao nhất của Quốc hội, có thẩm quyền rộng lớn
giữa hai kỳ họp của Quốc hội sang cơ quan thường trực chỉ đảm nhiệm chức năng


tổ chức kĩ thuật cho Quốc hội hoạt động điều khiển các kỳ họp của Quốc hội.
Như vậy, UBTVQH được xác định là cơ quan thường trực của Quốc hội có
nhiệm vụ đảm nhiệm các hoạt động thường xuyên giữa hai kỳ họp Quốc hội, đó là
những nhiệm vụ và quyền hạn rất đặc biệt, bảo đảm cho Quốc hội đạt được những
thành tựu trong các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH theo pháp luật hiện hành:
Nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH hiện nay được ghi nhận tại Điều 91
Hiến pháp 1992, Điều 7 Luật tổ chức Quốc hội 2001… Đó là những nhiệm vụ,
quyền hạn rất đặc biệt và có tầm bao quát lớn trên nhiều lĩnh vực. Cụ thể gồm:
những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng thường trực tổ chức cho
Quốc hội hoạt động; những nhiệm vụ, quyền hạn thay mặt Quốc hội giải quyết các
nhiệm vụ của Quốc hội giữa hai kỳ họp; những nhiệm vụ, quyền hạn của
UBTVQH trong việc ban hành các VBQPPL – pháp lệnh. Đây được coi là nhiệm
vụ quan trọng nhất của UBTVQH, vì nhiệm vụ, quyền hạn này gắn với chức năng
lập pháp của Quốc hội. Nếu Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập
pháp thì UBTVQH có quyền lập pháp lệnh, một hình thức văn bản pháp quy thay
thế luật và là sự đặc biệt trong hệ thống pháp luật của các nhà nước XHCN trước
đây cũng như Việt Nam hiện nay. Với thẩm quyền ban hành pháp lệnh, tạo nên vị
trí pháp lý đặc biệt của UBTVQH trong hệ thống các cơ quan của bộ máy nhà
nước; Ngoài ra, UBTVQH còn giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh; có nhiệm vụ,
quyền hạn giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và luật của các cơ quan nhà nước
khác…
II. Vai trò của UBTVQH trong thực hiện chức năng giám sát tối cao:
2


1. Đối tượng và nội dung giám sát của UBTVQH:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền giám sát của Quốc hội là
quyền giám sát tối cao. Để Quốc hội có thể thực hiện quyền giám sát đối với toàn
bộ hoạt động của Nhà nước trong khi Quốc hội hoạt động không thường xuyên,

Hiến pháp thực hiện cơ chế ủy quyền giám sát. Điều 91 Hiến pháp 1992 quy định
nhiệm vụ và quyền hạn của UBTVQH: UBTVQH giám sát việc thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Ta thấy, kể cả UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban
chuyên trách, về thực chất là những chủ thể có quyền giám sát tối cao theo đúng
nghĩa trọn vẹn của nó. Bởi vì, khi phát hiện những văn bản có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết củ Quốc hội, những cơ quan này chỉ có quyền kiến
nghị việc hủy bỏ để Quốc hội xem xét, quyết định. Ngoài ra, giám sát tối cao của
Quốc hội còn thể hiện ở sự tự giám sát của Quốc hội (đối với UBTVQH); xem xét
tính hợp hiến của các đạo luật, nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Khác với Quốc hội – chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao, UBTVQH –
cơ quan thường trực của Quốc hội được pháp luật quy định có quyền giám sát đối
với: Chính phủ, VKSNDTC và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(điểm b khoản 1 Điều 3 Luật hoạt động giám sát 2003 của Quốc hội). Theo đó nội
dung của quyền giám sát bao gồm:
Giám sát của UBTVQH với Chính phủ, TTCP, TANDTC và VKSNDTC
trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội. Đây là nội dung cơ bản của quyền giám
sát của UBTVQH. Bởi vì, tổ chức và thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội; nghị quyết, pháp lệnh của UBTVQH, trước hết thể hiện ở quyền lập quy
của các cá nhân và cơ quan này. Thông qua hoạt động giám sát, UBTVQH bảo
đảm cho VBPL được ban hành phải được thể hiện được tính toàn diện, thống nhất
của hệ thống VBPL của quốc gia, tránh được các sơ hở, lỗ hổng để người ta có thể
lợi dụng. Ngoài ra, hoạt động giám sát của UBTVQH trong lĩnh vực này còn
3


hướng tới xem xét tính tuân thủ Hiến pháp và pháp lệnh khi ra quy định áp dụng
pháp luật. Vì vậy, giám sát hoạt động lập quy của các cơ quan do Quốc hội thành
lâp và các cá nhân do Quốc hội bầu có ỹ nghĩa rất quan trọng trong và ngoài kỳ
họp gắn với hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát giữa hai kỳ họp
của cơ quan thường trực của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền, của dân , do

dân, vì dân.
Giám sát hoạt động của Chính phủ, TTCP, TANDTC và VKSNDTC. Đây
chính là giám sát việc tổ chức và thực hiện Hiến pháp , luật, nghị quyết của Quốc
hội; Nghị quyết, pháp lệnh của UBTVQH đối với các đối tượng thuộc quyền giám
sát tối cao của Quốc hội và với đối tượng giám sát của UBTVQH. Nói cách khác,
đây là chính là việc Quốc hội nói chung, cơ quan thường trực của Quốc hội nói
riêng, xem xét quá trình áp dụng pháp luật trong việc tổ chức và thực hiện hoạt
động thực tiễn thuộc thẩm quyền do pháp luật quy định. Vì lẽ đó, hoạt động giám
sát của UBTVQH được đánh giá rất quan trọng, do đó nội dung giám sát tối cao củ
Quốc hội nói chung, giám sát của UBTVQH nói riêng đối với các cơ quan nhà
nước và cá nhân trong bộ máy nhà nước ở trung ương luôn phải bao gồm giám sát
VBQPPL và giám sát hoạt động của đối tượng chịu giám sát.
Theo đó, trách nhiệm của UBTVQH trong việc thực hiện quyền giám sát của
mình đó là chịu trách nhiệm và báo cáo hoạt động giám sát của mình lên Quốc hội
(Điều 4 Luật hoạt động giám sát 2003 của Quốc hội).

2. Phương thức giám sát của UBTVQH :

4


Vai trò của UBTVQH được thể hiện tại Điều 15 Luật hoạt động giám sát
2003 của Quốc hội, cụ thể thông qua một số phương thức nổi bật như sau:
2.1: Thông qua việc xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC giữa hai kỳ họp Quốc hội:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, UBTVQH được xác định là cơ quan
thường trực của Quốc hội có quyền giám sát đối với hoạt động của Chính phủ,
TANDTC, VKSNDTC giữa hai kỳ họp của Quốc hội. Tuy nhiên, hoạt động giám
sát của UBTVQH phải có mối liên hệ hữu cơ và làm căn cứ cho hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp. Nếu tách rời mối quan hệ hữu cơ này thì quyền

giám sát tối cao của Quốc hội không có điều kiện để thực hiện. Luật hoạt động
giám sát 2003 quy định UBTVQH có quyền xem xét báo cáo của Chính phủ,
TANDTC, VKSNDTC, trong thời gian Quốc hội không họp (Điều 17). Qua đó
xem xét, đánh giá năng lực, trình độ, trách nhiệm của cá nhân thuộc cơ quan nhà
nước trên. Đồng thời giám sát hoạt động tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội trên thực tế đời sống. Thông qua việc xem xét báo cáo của các
đối tượng trên, UBTVQH cũng đưa ra được các kết luận, kiến nghị cần thiết để yêu
cầu Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC và các cơ quan hữu quan có biện pháp khắc
phục những hạn chế, nhược điểm trong hoạt động của mình. Đồng thời, UBTVQH
cũng nắm được những thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời và toàn diện về các mặt
của các cơ quan nhà nước cũng như về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Những năm gần đây, hoạt động xem xét báo cáo đã được chú trọng tuy nhiên
vẫn còn thể hiện nhiều bất cập trong hình thức và phương pháp xét báo cáo. Bên
cạnh đó, phương pháp thẩm tra báo cáo, phương pháp thảo luận, tranh luận về các
vấn đề trong báo cáo chưa được UBTVQH sử dụng hợp lý. Phương pháp tranh
luận thời gian gần đây được sử dụng trong các phiên chất vấn chứ chưa được sử
dụng trong hoạt động xét báo cáo, cũng chưa được quy định trong Luật hoạt động
5


giám sát của Quốc hội 2003. Do đó, để tăng cường hiệu quả hoạt động của phương
thức giám sát này, đòi hỏi UBTVQH phải ra nghị quyết về nội dung mà thông qua
hoạt động xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC thấy
còn bất cập với yêu cầu những chủ thể này báo cáo sửa đổi, bổ sung.
2.2: Thông qua việc xem xét chất vấn, trả lời chất vấn:
Chất vấn là một hình thức giám sát trực tiếp của Quốc hội, có hai hình thức
chất vấn của ĐBQH là chất vấn tại kỳ họp và chất vấn giữa hai kỳ họp. Trên thực
tế, việc chất vấn của Đại biểu Quốc hội chủ yếu dựa được thực hiện tại kỳ họp
Quốc hội. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, do có những nguyên nhân
khách quan mà việc thực hiện quyền chất vấn của ĐBQH hầu như không đáng kể.

Hình thức chất vấn được thực hiện không chỉ trong phiên họp toàn thể củ Quốc hội
mà còn được thực hiện tại phiên họp UBTVQH. Thông qua hình thức chất vấn,
UBTVQH đánh giá hiệu quả công tác của đối tượng bị chất vấn và thể hiện thái độ
của mình bằng cách khen ngợi hay đề ra những biện pháp xử lý vi phạm pháp luật
một cách hữu hiệu, năng lực trình độ và trách nhiệm quản lý của người bị chất vấn
cũng được thể hiện công khai qua việc trả lời chất vấn. Hiện nay tồn tại tình trạng
các chất vấn thường chỉ dồn dập trong kỳ họp khiến nhiều vị Bộ trưởng là ĐBQH
vừa phải họp, vừa phải điều hành công việc hàng ngày của cơ quan, vừa trả lời câu
hỏi chất vấn của ĐBQH. Do đó, dẫn đến tình trạng trả lời chất vấn tại phiên họp
toàn thể mang tính đại khái, hình thức. Hơn thế nữa, tình trạng chất vấn chỉ được
thực hiện tại phiên họp Quốc hội và thực hiện ít thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội
đã không đáp ứng được tính chất liên tục, thường xuyên của hoạt động chất vấn.
Nhiệm kỳ khóa XII, hoạt động chất vấn của UBTVQH đã được đổi mới, cải tiến về
nội dung, cách thức tiến hành, điều hành phiên chất vấn. Quan sát hoạt động chất
vấn nhiệm kỳ này, cho thấy số lượng câu chất vấn của ĐBQH ngày càng tăng
thêm, số lượng câu hỏi và tính chất nội dung của các vấn đề Đại biểu nêu ra ngày
6


càng đa dạng, chất lượng câu hỏi của Đại biểu được nâng cao rõ rệt. Đại biểu đã
chọn những vấn đề trọng tâm, nóng hổi, đúng tầm với người trả lời chất vấn. Bên
cạnh đó, hoạt động giám sát của UBTVQH vẫn còn khá nhiều vấn đề lý luận, thực
tiễn cũng như pháp lý đã đặt ra cần được tiếp tục giải quyết, trên các phương diện
tổ chức, pháp lý, kỹ thuật đều cần tiếp tục có những cải tiến, bổ sung.
2.3: Hoạt động giám sát việc ban hành văn bản của các cơ quan nhà
nước ở trung ương và HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương của
UBTVQH:
Xem xét việc ban hành VBQPPL được hiểu là hình thức giám sát thông qua
đó Quốc hội thực hiện chức năng giám sát đối với VBQPPL do các cơ quan nhà
nước ban hành nhằm mục đích phát hiện dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị

quyết của Quốc hội để từ đó có các biện pháp cụ thể như đình chỉ việc thi hành hay
hủy bỏ các văn bản sai trái đó. Xem xét VBQPPL do các đối tượng trên ban hành
cũng là một trong những hình thức pháp lý được UBTVQH thực hiện để bảo vệ
tính tối thượng của Hiến pháp và các VBPL do Quốc hội ban hành. Trong lĩnh vực
giám sát VBQPPL, UBTVQH được coi là chủ thể quan trọng thực hiện quyền
giám sát và quyền xử lý VBPL trái với Hiến pháp. UBTVQH xem xét tính hợp
hiến, hợp pháp của UBTVQH do Chính phủ, TTCP, TANDTC, VKSNDTC ban
hành bằng cách theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
trong quá trình các cơ quan này thực hiện quyền lập quy để triển khai việc tổ chức
thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Đối với cac VBQPPL có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật , nghị quyết của Quốc hội thì UBTVQH đình chỉ việc
thi hành và trình Quốc hội xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn
bản đó tại kỳ họp gần nhất. Đối với các VBQPPL có dấu hiệu trái với Hiến pháp,
luật, pháp lệnh của UBTVQH thì UBTVQH có quyền ra nghị quyết về việc ban
hành UBTVQH đó trái với Hiến pháp, luật, pháp lệnh của UBTVQH. Hoạt động
7


giám sát ban hành UBTVQH của các cơ quan nhà nước ở trung ương và HĐND
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực hiện thường xuyên trong cả kỳ
họp Quốc hội và giữa kỳ họp Quốc hội. Giữa kỳ họp Quốc hội, UBTVQ căn cứ
vào thẩm quyền của mình, thực hiện giám sát việc ban hành văn bản của các đối
tượng trên. Các kiến nghi phải được đề nghị kịp thời tại kỳ họp Quốc hội. Thông
qua nội dung giám sát này, UBTVQH kiểm soát được hoạt động ban hành văn bản
của các cơ quan ở cấp trung ương và địa phương, đảm bảo cho các văn bản ban
hành ra phải phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.
Theo báo cáo tổng kết của UBTVQH, công tác giám sát của UBTVQH còn
nhiều hạn chế trong việc giám sát ban hành VBPL. Nhìn chung việc giám sát hiệu
quả rất thấp. Có nhiều luật, pháp lệnh sau khi được thông qua không được quan
tâm giám sát thi hành. Trên thực tế, chưa có trường hợp nào UBTVQH phải đình

chỉ thi hành hay hủy bỏ văn bản do Chính phủ, TTCP ban hành. Vì vậy, trong thực
tiễn hoạt động, UBTVQH và các cơ quan cần có sự phối hợp, công tác chặt chẽ;
UBTVQH trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình cần có trách nhiệm theo
dõi, đôn đốc các cơ quan chuẩn bị vản bản đề quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành
theo đúng tiến độ và yêu cầu thi hành pháp luật.
Ngoài ra, UBTVQH còn có những phương thức giám sát như: hoạt động
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của mình; hoạt động giám sát và hướng dẫn
đối với HĐND; giám sát thông qua việc xem xét, giải quyết các kiến nghị, khiếu
nại và tố cáo của công dân; giám sát thông qua việc tổ chức các Đoàn giám sát ở
địa phương, cơ quan nhà nước…

CÁC TỪ VIẾT TẮT

8


UBTVQH : Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
HĐDT

: Hội đồng dân tộc.

HĐND

: Hội đồng nhân dân.

ĐBQH

: Đại biểu Quốc hội.

TANDTC


: Tòa án nhân dân tối cao.

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
TTCP

: Thủ tướng Chính phủ.

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật.

VBPL

: Văn bản pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam. HN 2006.
9


2. Trường Đại học Luật Hà Nội. Nguyễn Thị Ngọc. Hoạt động giám sát của Ủy
ban thường vụ Quốc hội - Thực trạng và giải pháp. Khóa luận tốt nghiệp. HN
2011.
3. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001).
4. Luật tổ chức Quốc hội 2001.
5. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003.

MỤC LỤC


I. Mối quan hệ UBTVQH – Quốc hội đối với chức năng giám sát tối cao………1
10


1. Vị trí của UBTVQH qua bản Hiến pháp 1992…………………………………1
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH theo pháp luật hiện hành…………………2
II. Vai trò của UBTVQH trong thực hiện chức năng giám sát tối cao……………3
1. Đối tượng và nội dung giám sát của UBTVQH………………………………3
2. Phương thức giám sát của UBTVQH……………………………………………5
2.1. Thông qua việc xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, TANDTC………5
2.2. Thông qua việc xem xét chất vấn, trả lời chất vấn……………………………6
2.3. Hoạt động giám sát việc ban hành văn bản của các cơ quan ở trung………….7
CÁC TỪ VIẾT TẮT………………………………………………………………9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………10

11


12



×