A. MỞ ĐẦU
“Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” ( Điều 2 hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung 2001). Quốc hội là cơ quan cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, mối quan hệ giữa quốc hội và Chính phủ nói trong cơ cấu quyền lực nhà
nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nhà nước và xã hội. Vậy nên em quyết
định chọn đề tài " Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ theo pháp luật hiện
hành" để làm rõ mối quan hệ giữa hai cơ quan trên.
Do kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi sai sót trong bài, rất mong thầy
cô thông cảm và đóng góp ý kiến để em có thể nâng cao kiến thức của mình. Em xin
trân thành cảm ơn!
B. NỘI DUNG
I. Khái quát về Quốc hội và Chính phủ
1. Vị trí, tính chất và chức năng của Quốc hội
Trong bộ máy nhà nước ta, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.Điều 83
Hiến pháp 1992 đã nêu rõ vị trí, tính chất của Quốc hội: “Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Chức năng của Quốc hội bao gồm những
phương diện lớn sau đây: “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp; Quốc hội quyết định những chính sách, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân; Quốc hội thực hiện quyền
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước” nhằm đảm bảo cho những
quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất, bộ máy
nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu lực và hiệu quả.
2. Vị trí, tính chất và chức năng của Chính phủ
Điều 109 Hiến pháp 1992 đã khẳng định vị trí của Chính phủ: “Chính phủ là cơ
quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Việc khẳng định này nhằm chỉ rõ tính chất
của Chính phủ, mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội, đồng thời đề cao vị trí của
Chính phủ trong bộ máy nhà nước, tạo thế chủ động cho Chính phủ trong hoạt động
quản lý Nhà nước. Hoạt động quản lí nhà nước của Chính Phủ được thể hiện ở
những điểm sau đây: “Chính phủ thống nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước;
đảm bảo hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; đảm bảo việc tôn
trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ ổn định và nâng cao đời sống
vật chất và văn hóa của người dân”.
II. Cơ sở cho mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ
1. Cơ sở lý luận
Bắt nguồn từ bản chất giai cấp của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của dân do dân vì dân nhân dân là chủ nhân dân làm chủ thể hiện
tập trung tối đa ý chí nguyện vọng của nhân dân. Trên cơ sở quyền lực nhà nước là
thống nhất nhưng có sự phân công phối hợp vận dụng những hạt nhân hợp lý của
thuyết phân chia quyền lực ở các nước tư sản. Quốc hội không thể tự mình đảm
nhiệm hết tất cả các công việc của đất nước cũng như của xã hội , bởi vậy Quốc hội
giao công việc này cho các cơ quan nhà nước khác như chính phủ, chủ tịch nước hay
các cơ quan khác do mình tự lập lên, để có thể thực hiện tốt hơn phần công việc của
mình. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao các cơ quan này phải báo cáo hoạt
động của mình trước Quốc hội . Vai trò của Quốc hội là rất lớn nhưng trên thực tế
người thực hiện quản lý xã hội, mang quyền lực thực tế lại là chính phủ.
2. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý là những cơ sở tồn tại về mặt pháp lý được quy định trong Hiến
pháp và luật của Quốc hội. Trong Hiến pháp cũng dành riêng một chương ( chương
VIII ) để quy định về Chính phủ. Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10, luật
của Quốc hội 32/2001/QH10 về tổ chức và hoạt động của chính phủ ra đời. Bộ luật
này gồm tất cả 43 điều quy định rất rõ mối quan hệ giữa hai cơ quan trung ương này.
3. Cơ sở thực thực tế
Trong thực tế hiện nay ở nước ta, có thể nói là mối quan hệ giữa Quốc hội và
Chính phủ là khá “thân thiết”. Quốc hội ban hành luật trên cơ sở dự luật của chính
phủ thì “có hơn 90% các dự luật do chính phủ đệ trình”. Bên cạnh đó, khi Quốc hội
đã ban hành luật thì Chính phủ cũng ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật
cho các cơ quan nhà nước khác thực hiện.
III. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính Phủ theo pháp luật hiện hành
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) cùng các văn bản pháp luật về tổ chức
bộ máy nhà nước ra đời, trong đó có quy định cụ thể về vị trí, vai trò, chức năng của
từng cơ quan trong bộ máy nhà nước cho phù hợp với tình hình mới của đất nước là
một dấu mốc, là bước đổi mới nhằm hoàn thiện hơn bộ máy nhà nước, hoàn thiện
việc xác lập mối quan hệ pháp lí giữa Quốc hội và Chính phủ trong giai đoạn hiện
nay của đất nước. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ được thể hiện ở những
mặt sau:
1. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ về mặt tổ chức
Theo quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) và luật tổ chức Chính
phủ năm 2001, Quốc hội lập ra Chính Phủ. Cơ cấu tổ chức của Chính Phủ bao gồm:
các Bộ và các cơ quan ngang Bộ (điều 2 luật Tổ chức Chính phủ năm 2001). Quốc
hội Quyết định thành lập, bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ theo đề nghị của
Thủ tướng Chính phủ. Thành viện của Chính phủ gồm: Thủ tướng, các phó thủ
tướng, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Số lượng phó thủ tướng, bộ
trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ do quốc hội quyết định (điều 3 luật tổ chức
Chính phủ năm 2001).
Trên cơ sở quy định Hiến pháp 1992 và luật tổ chức chính phủ năm 2001. Quốc
hội sẽ quyết định tổ chức của chính phủ theo từng nhiệm kỳ cho phù hợp. Ví dụ,
Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ nhất quyết định thành lập 20 bộ và 6 cơ quan ngang
bộ, đến Quốc hội khóa XII (2007 – 2012) cơ cấu Chính phủ có sự sắp xếp lại chỉ còn
18 bộ và 6 cơ quan ngang bộ. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm,
bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước; thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề
nghị việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, Thủ tưởng cơ quan ngang bộ. theo Hiến pháp 1992, thành viên Chính phủ
không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng). Việc quy định như vậy là
để đảm bảo hiệu quả hoạt động cho các thành viên của Chính phủ và đại biểu Quốc
hội.
Tuy nhiên, Chính phủ do Quốc hội lập ra nhưng với việc lựa chọn danh sách các
thành viên, Chính phủ đã khẳng định vị trí tương đối độc lập của mình. Ở nước ta,
Quốc hội vừa có quyền lập hiến,vừa có quyền lập pháp. Do vậy Quốc hội không
những có quyền thành lập ra Chính phủ, mà còn có quyền định ra cơ cấu và những
nguyên tắc hoạt động của cơ quan này.
2. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ về phương thức hoạt động
Quốc hội hoạt động thông qua phương thức chính là các kì họp của Quốc hội.
Quốc hội họp thường kì mỗi năm hai lần. Trong hiến pháp 1992 cũng như các Hiến
pháp trước đều ghi nhận Chính phủ có quyền triệu tập kì họp bất thường của Quốc
hội. Điều 86 hiến pháp 1992 quy định: “Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu quốc hội yêu cầu hoặc theo
quyết định của mình, Ủy ban thường vụ quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất
thường”.
3. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong hoạt động lập pháp
Quy trình lập pháp được xem như công nghệ làm luật. Công nghệ lạc hậu hay
hiện đại, phù hợp hay không phù hợp với khả năng vận hành là một trong những yếu
tố quyết định năng lực lập pháp của Quốc hội.
Hoạt động lập pháp của Quốc hội ngày càng có chất lượng hơn bởi sự phối hợp
chặt chẽ giữa Quốc hội và Chính phủ. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập
hiến và lập pháp, nhưng Chính phủ là cơ quan có sáng kiến lập pháp, tức là quyền
trình dự án luật ra trước Quốc hội.
Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn bản pháp luật,
pháp lệnh mà đa số các văn bản pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội thông qua đều do Chính phủ soạn thảo. Về mặt nội dung, Chính phủ tập trung
vào việc xây dựng thể chế, thảo luận và thông qua các dự án tại phiên họp của chính
phủ. Kết quả là chính phủ đã ban hành một lượng lớn các văn bản pháp luật với chất