Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

NHỮNG BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT THUẾ ĐỐI VỚI ĐẤT ĐAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.09 KB, 15 trang )

Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

A. MỞ ĐẦU
Theo chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, đất đai thuộc sở hữu
toàn dân, do dân làm chủ sở hữu, Nhà nước thay mặt nhân dân quản lý và giao
đất cho người dân sử dụng theo những quy định của pháp luật. Để thực hiện điều
đó, Nhà nước sử dụng nhiều công cụ khác nhau để quản lý đất như: công cụ
hành chính, công cụ kinh tế….trong đó công cụ tài chính là công cụ không thể
thiếu trong việc hoạch định và thực hiện chính sách pháp luật về đất đai. Qua
việc sử dụng công cụ tài chính trong quản lý đất đai mà chủ yếu là Thuế đất đai,
Nhà nước không chỉ khẳng định vai trò là chủ quản lý của mình mà còn góp
phần tạo một nguồn thu lớn, ổn định và lâu dài cho Ngân sách nhà nước. Tuy
nhiên, việc áp dụng pháp luật thuế đối với đất đai vẫn còn tồn tại những hạn chế
nhất định. Trong phạm vi bài viết dưới đây, em xin đưa ra một số điểm bất cập
của pháp luật thuế về đất đai hiện hành và hướng hoàn thiện để góp phần thực
hiện các quy định pháp luật thuế về đất đai có hiệu quả hơn.

B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI ĐẤT ĐAI
1. Khái niệm pháp luật thuế đối với đất đai
Nhà nước quản lý đất đai bằng nhiều công cụ khác nhau, nhưng công cụ tài
chính vẫn là công cụ hiệu quả nhất, phản ánh chân thực nhất thực trạng sử dụng
và khai thác đất đai của một quốc gia. Thuế đối với đất đai là thuật ngữ hàm chỉ
các loại thuế đánh vào việc sử dụng hoặc có quyền sử dụng đất. Hiện nay ở Việt
Nam có hai loại thuế đánh vào đất đai đó là thuế sử dụng đất nông nghiệp và
thuế nhà, đất.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp là loại thuế thu vào việc sử dụng đất nông
nghiệp hoặc việc được giao đất vào sản xuất nông nghiệp. Nói cách khác, loại
thuế này đánh vào hành vi sử dụng đât nông nghiệp và hành vi không sử dụng


đất nông nghiệp được giao (thuế áp dụng cả với những chủ thể có quyền sử
dụng đất nông nghiệp mà không sử dụng đất đó).
1
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

Thuế nhà, đất là loại thuế thu vào việc trực tiếp sử dụng hoặc việc có
quyền sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Loại thuế này không thu vào đất
nông nghiệp, lâm nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản và làm muối.
2. Đặc điểm pháp luật thuế đối với đất đai
Đối với thuế sử dụng đất nông nghiệp có một số nét đặc thù sau:
Thứ nhất, thuế này chỉ thu vào việc sử dụng hoặc có quyền sử dụng đất,
không thu vào hoa lợi trên đất. Vì vậy, có tác dụng giảm nhẹ gánh nặng thuế cho
người nộp thuế. Thứ hai, thuế này là loại thuế có tính xã hội cao do đối tượng
nộp thuế chiếm tỉ lệ lớn. Thứ ba, thuế sử dụng đất nông nghiệp là loại thuế thu
theo mùa vụ, được tính bằng thóc nhưng chủ yếu thu bằng tiền.
Cũng là thuế đánh vào việc sử dụng đất hoặc việc có quyền sử dụng đất
nông nghiệp nhưng thuế nhà, đất có một số nét đặc thù sau:
Thứ nhất, thuế nhà, đất không thu vào đất nông nghiệp, vì vậy khi xác định
số thuế nhà, đất hộ gia đình ở nông thôn phải nộp cần có sự tách biệt giữa diện
tích đất nông nghiệp và diện tích đất ở. Thứ hai, căn cứ tính thuế nhà, đất mặc
dù có nhiều điểm tương đồng với căn cứ tính thuế sử dụng đất nông nghiệp
nhưng đại bộ phận các trường hợp, mức thu cao hơn rất nhiều so với mức thu
thuế sử dụng đất nông nghiệp. Thứ ba, thuế nhà, đất cũng được tính bằng thóc
và thu bằng tiền nhưng thời hạn thu nộp thuế không phụ thuộc vào thời điểm thu

hoạch của vụ sản xuất chính như thời hạn thu thuế sử dụng đất nông nghiệp.
3. Vai trò pháp luật thuế đối với đất đai
Kể từ khi ban hành, pháp luật thuế đối với đất đai đã phát huy được một số
tác động tích cực, hỗ trợ cho công tác quản lý đất đai.
Thứ nhất, pháp luật thuế đối với đất đai là một công cụ giúp Nhà nước
quản lý hoạt động sử dụng đất, khuyến khích việc sử dụng đất tiết kiệm hiệu
quả. Trong quá trình giám sát việc thực thi pháp luật thuế sử dụng đất nông
nghiệp, Nhà nước nắm được quỹ đất nông nghiệp trong thực tế, kiểm soát được
sự biến động về số lượng, chất lượng đất một cách kịp thời từ đó có biện pháp
đối phó thích hợp để nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng đất. Bên cạnh đó, bằng
2
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

việc áp dụng thuế sử dụng đất nông nghiệp, nhà nước khuyến khích nông dân
khai hoang, phục hóa, khai thác diện tích đất trống đồi trọc… vào sản xuất nông
nghiệp. Thông qua công tác quản lý việc chấp hành luật thuế nhà, đất, nhà nước
nắm được thực trạng sử dụng đất đai vào mục đích xây dựng nhà ở và công
trình, phát hiện kịp thời những trường hợp gian dối trong việc sử dụng quỹ đất,
đồng thời hạn chế việc chuyển đất nông nghiệp vào mục đích phi nông nghiệp
và mục đích khác.
Thứ hai, pháp luật thuế đối với đất đai là công cụ giúp Nhà nước quản lý
một cách hữu hiệu thị trường giao dịch chuyển quyền sử dụng đất. Trong quá
trình áp dụng pháp luật thuế chuyển quyền sử dụng đất và quá trình giám sát
việc thực thi pháp luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, Nhà nước có thể phát

hiện những vấn đề mới nảy sinh từ đó kịp thời sửa đổi pháp luật thuế này thích
ứng với những đòi hỏi của thực tiễn.
Thứ ba, pháp luật thuế đối với đất đai góp phần đảm bảo sự động viên
công bằng giữa các tầng lớp dân cư có sử dụng đất vào mục đích sản xuất nông
nghiệp hoặc để ở.
Bốn là, pháp luật thuế đối với đất đai đã tạo tạo nguồn thu thường xuyên,
ổn định cho ngân sách địa phương, phục vụ tốt cho yêu cầu quản lý và điều tiết
kinh tế ở địa phương.
II. NHỮNG BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT THUẾ ĐỐI VỚI ĐẤT ĐAI
1. Tiêu chí đánh giá
Để đánh giá tổng quan về sự tồn tại của một hệ thống pháp luật thì phải dựa
trên những tiêu chí cụ thể. Có thể chỉ ra một số tiêu chí sau để đánh giá hệ thống
pháp luật về thuế đối với đất đai hiện hành, và coi đó là những nguyên tắc mà
chúng ta phải tuân thủ và cố gắng đặt được trong quá trình thực thi pháp luật về
thuế đối với đất đai tại Việt Nam.
Thứ nhất, tính công bằng
Công bằng có nghĩa là mọi đối tượng có năng lực chịu thếu đều phải nộp
thuế và mọi người có điều kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử về
3
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

thuế như nhau. Nếu có điều kiện khác nhau thì những đối tượng khác nhau
nhưng cùng loại phải được đối xử với nhau tương ứng. Tiêu chí này đòi hỏi
đánh giá hệ thống pháp luật điều chỉnh thuế liên quan đến đất đai phải xác định

được đầy đủ. Chính xác, các loại đói tượng chịu thuế, quy định cụ thể quy chế
tính thuế, thu thuế đối với từng loại đối tượng cũng như xét đến những ưu đãi,
khuyến khích cho những đối tượng đạt đủ điều kiện luật định.
Thứ hai, tính trung lập.
Trước hết, thuế về đất đai phải đảm bảo chức năng của mình, là nguồn thu
chính cho NSNN. Nhưng bên cạnh đó, Nhà nước luôn phải điều chỉnh quy chế
thu thếu, mức thu sao cho phù hợp và đáp ứng được nhu cầu tất yếu của người
dân là đối tượng nộp thuế.
Thứ ba, hệ thống pháp luật thuế đối với đất đai phải được đánh giá thông
qua tính khả thi của nó.
Tiêu chí này đòi hỏi hệ thống pháp luật về Thuế đối với đất đai phải được
đưa đến người dân dưới hình thức thông dụng nhất, dễ hiểu nhất, đảm bảo một
nghĩa trên toàn lãnh thổ và đảm bảo ổn định qua thời kỳ mà nó tồn tại. Tiêu chí
này còn thể hiện thông qua hoạt động tuyên truyền, quản lý, tổ chức thu của các
cơ quan thu thuế từ trung ương đến địa phương, sao cho hoạt động thông suốt,
đạt kết quả như trong dự toán.
Thứ tư, để đánh giá chính là việc đảm bảo nguyên tắc tránh đánh thuế
hai lần.
Nguyên tắc này vô cùng quan trọng trong cả hệ thống thuế. Một chủ thể có
thể có nghĩa vụ phải nộp một loại thuế đến hai lần. Yêu cầu đặt ra là hệ thống
pháp luật thuế đất đai phải “bóc tách” những phần của đối tượng tính thuế đã
nằm trong diện chịu thuế đó ở giai đoạn trước.
Thứ năm, tính động viên của nguồn thu
Tiêu chí này phản ánh tính hợp lý của mức thu cũng như ý nghĩa của việc
thu thuế trong thực tế.
4
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện



Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

Để xét được tính động viên của nguồn thu từ thuế đối với đất đai thì ta cần
xem xét trong thực tế, mức thu áp dụng bao nhiêu năm nay đã sát thực hay
chưa? Đã phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hay cụ thể là đã phù hợp với mức
sống của người nộp thuế hay chưa? Hơn thế nữa, mức thu có phản ánh được
đúng bản chất của việc thu thuế hay không? Mức thu tương đối, hợp lý sẽ làm
cho người dân hiểu rõ hơn vai trò của việc nộp thuế vào ngân sách nhà nước,
hiểu được nghĩa vụ của mình đối với nhà nước, xã hội ngay khi mình sinh sống,
lao động trên chính mảnh đất mà mình phải chịu thuế.
2. Những bất cập của pháp luật thuế đất đai hiện hành
Dựa trên những tiêu chí đánh giá ở trên, cùng với thực tế tồn tại rất lâu của
hệ thống pháp luật thuế liên quan đến đất đai ở Việt Nam, ta có thể nhận thấy
những điểm hợp lý cũng như những thành tựu to lớn mà hệ thống pháp luật này
đã đóng góp để đảm bảo nguồn thu ngân sách từ tài nguyên đất trong những
năm vừa qua. Nhưng bên cạnh đó có nhiều bất cập còn tồn tại, những bất cập
này có thể khẳng định không tồn tại ngay từ đầu, mà nó phát sinh do sự thay đổi
của xã hội, sự biến đổi không ngừng của nền kinh tế nước nhà dẫn đến quy định
pháp luật không còn phù hợp với thực tế. Tồn tại những điểm bất cập đó là do
những nguyên nhân gây ra nguồn thu của ngân sách giảm sút cũng như ý thức
của người dân về nghĩa vụ nộp thuế kém đi.
Tại Điều 5 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993 quy định: “Căn cứ tính
thuế sử dụng đất nông nghiệp: Diện tích; Hạng đất; Định suất thuế tính bằng
kilogam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất.”
Điều 6 Pháp lệnh Thuế nhà, đất năm 1992: “Căn cứ tính thuế là đất là diện
tích đất, hạng đất và mức thuế.”
Như vậy, cả hai điều luật đều ghi nhận căn cứ tính thuế gồm: diện tích,
hạng đất và định suất thuế bằng kilogam thóc trên một đơn vị của từng đơn vị

diện tích hạng đất (đối với Thuế sử dụng đất nông nghiệp) và mức thuế ( đối với
thuế nhà, đất). Riêng với hạng đất, được xác định theo các yếu tố địa lý rất phức
tạp như: chất đất, vị trí địa lý, địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết và điều kiện
5
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

tưới tiêu đồng thời tham khảo năng suất bình quân đạt được trong điều kiện canh
tác bình thường của 5 năm. Trên thực tế, các địa phương hầu hết không có bản
đồ nông hóa thổ nhưỡng và xác định hạng đất theo kế hoạch được giao, hoặc thu
hoạch canh tác hằng năm. Như vậy, quy định này là không sát với thực tế, quy
định một đằng nhưng thực hiện một nẻo.
Trong việc đánh thuế nhà đất, việc tính thuế vẫn dựa trên cơ sở là thuế đất
nông nghiệp để nhân lên từ 1 đến 32 lần tùy theo vị trí là một điều bất hợp lý và
thiếu sức thuyết phục. Điều này được thể hiện ở chỗ, đất nhà ở và đất nông
nghiệp về bản chất là khác nhau. Quy định trong hai văn bản khác nhau nhưng
khi tính thuế cao gấp 32 lần đem lại cho người nộp thuế cảm giác khập khễnh, vì
độ chênh lệch quá lớn, gây tâm lý là khoản nộp quá cao, mất tính động viên.
Bên cạnh đó, một yếu tố được xem là bất cập nhất của chính sách thuế tài sản là
khi thực hiện chuyển từ đánh thuế theo hiện vật sang đánh thuế theo thị trường
lại không có cơ sở để xác định giá trị tài sản. Hiện tại, chúng ta vẫn áp dụng
cách tính thuế sử dụng đất nông nghiệp bằng thóc (định suất thuế tính bằng
kilogam thóc trên một đơn vị diện tích của từng hạng đất), tuy nhiên giá thóc
thay đổi theo từng vùng, từng địa phương dẫn đến mất công bằng trong đánh
thuế. Khi thay đổi căn cứ tính thuế theo thị trường, hiện vật (thóc) không thể

đảm đương trách nhiệm làm căn cứ tính thuế đất hiện hành nữa. Lúc này, vấn đề
đặt ra là phải tìm một cơ sở để xác định giá trị tài sản khi tính thuế. Đây là một
yếu tố khó khăn và gây nhiều tranh cãi nhất trong triển khai thu nộp, hơn nữa,
hiện tại nhiều vùng nông thôn đã trở thành đô thị nhưng việc xác định hạng đất,
không có những hướng dẫn cụ thể sẽ gây nhiều phiền hà cho người nộp thuế
cũng như cơ quan thu thuế.
Như vậy, các quy định của pháp luật đang dần dần lạc hậu và không còn
phù hợp với hiện tại, tính khả thi của hệ thống pháp luật về Thuế đối với đất đai
đang giảm sút. Những quy định không còn phù hợp khiến người nộp thuế khó
khăn trong việc xác định nghĩa vụ nộp thuế, mất lòng tin vào cơ quan thu, dẫn
đên tình trạng trốn thuế, lẩn tránh thuế, nguồn thu không đảm bảo. Tính động
6
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

viên của hệ thống pháp luật Thuế đất đai cũng mất đi khi mà có quá nhiều văn
bản chồng chéo quy định nghĩa vụ thuế của người dân. Cùng là nghĩa vụ thuế về
đất nhưng có đến hai văn bản chính là Thuế sử dụng đất nông nghiệp là Pháp
lệnh thuế nhà đất cùng điều chỉnh. Cụ thể là các quy định về căn cứ tính thuế
trong Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993 và Pháp lệnh thuế nhà, đất 1992
có nhiều điểm tương đồng và liên quan đến nhau; các quy định về thu nộp, xử lý
vi phạm, khen thưởng cũng không khác nhau về nội dung chính. Ngay cả việc
quy định các trường hợp miễn giảm, Chính phủ thông qua rất nhiều những văn
bản dưới luật hướng dẫn về vấn đề này mà lại không có sự tập hợp, pháp điển
hóa, khiến cho người dân hoang mang, e ngại trước những lợi ích mà mình đáng

lẽ phải được hưởng theo quy định của pháp luật. Do đó, người dân không xác
định được hết vai trò mà Thuế mang đến cho chính họ, tính động viên không
còn toàn vẹn nữa.
Không chỉ là văn bản pháp luật nội dung chồng chéo mà văn bản hành
chính thu nộp cũng làm khó cho người nộp thuế khi thực tế mỗi lần thực hiện
thủ tục hành chính về đất, người dân và các tổ chức sử dụng đất, tùy từng trường
hợp có thể phải nộp tới gần 20 loại giấy tờ khác nhau, từ những loại giấy tờ bắt
buộc đến những loại giấy tờ liên quan. Tất cả các loại giấy tờ này đều phải có
xác nhận công chứng hoặc bản gốc.
Bên cạnh đó, quy định của pháp luật về vấn đề chấn chỉnh đội ngũ cán bộ
chưa được quan tâm đúng mức, Điều 29 Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp quy
định trường hợp cán bộ phạm lỗi:
“1. Cán bộ thuế, các nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm dụng,
tham ô tiền thuế, thì ngoài việc phải bồi thường toàn bộ số thuế đã chiếm dụng,
tham ô, còn bị phạt tiền bằng từ 0.2 lần đến 0.5 lần số tiền chiếm dụng, tham ô
và tùy theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự.
2. Cán bộ thuế, cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao che cho người vi
phạm; ra các quyết định về giảm thuế, miễn thuế không đúng Luật hoặc cố ý
7
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

làm trái các quy định của Luật này; thiếu trách nhiệm trong việc thi hành Luật
thuế sử dụng đất nông nghiệp; cố tình xử lý sai gây thiệt hại cho hộ nộp thuế

hoặc người bị xử lý, thì tùy theo mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.”
Với quy định của pháp luật sơ sài như vậy, đội ngũ cán bộ thuế từ trung
ương đến địa phương hầu hết vẫn làm việc với thái độ quan liêu, nhũng nhiễu
người dân mà không bị xử lý đúng mức.
Một hạn chế nữa của hệ thống pháp luật về thuế đối với đất đai hiện hành
đó là chưa có sự điều tiết cao đối với những đối tượng có quyền sử dụng đất với
diện tích đất lớn để khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm, hiệu quả và hạn chế đầu
cơ về đất. Cụ thể là thuế nhà, đất hiện hành vẫn chưa phân biệt việc sử dụng đất
trong hạn mức và ngoài hạn mức. Điều này mới chỉ được đề cập khi tính thuế
sử dụng đất nông nghiệp với mức thu cho hai loại là khác nhau. Tuy nhiên, hiện
nay khi nhà ở trở thành yêu cầu không thể thiếu, công trình mọc lên khắp nơi,
việc đặt ra hạn mức và phân biệt thuế đối với hai trường hợp sử dụng trong và
ngoài hạn mức là cần thiết, tránh trường hợp lãng phí đất đai. Hơn nữa, hiện nay
pháp luật chưa có quy định phân biệt chế độ thu thuế giữa người có một nhà
hoặc một thửa đất, một thửa ruộng với người có nhiều nàh, sử dụng nhiều thửa
đất. Điều này dễ dẫn đến tịnh trạng đầu cơ đất đai. Với những tồn tại như vậy,
trước mắt là hệ thống pháp luật sẽ gây khó khăn đối với người có nghĩa vụ nộp
thuế, đó là chưa kể đến những hệ lụy của nó là mất công bằng xã hội, tạo điều
kiện đầu cơ đất, góp phần kìm hãm sự phát triển và điều quan trọng chính là
việc quản lý và sử dụng đất không tiết kiệm, hiệu quả.
Tóm lại, để đánh giá được một hệ thống pháp luật chúng ra luôn phải dựa
trên những tiêu chí nhất định cũng như chính thực trạng diến ra trong xã hội có
liên quan. Với hệ thống pháp luật về Thuế liên quan đến đất đai ở Việt Nam hiện
nay, tuy đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách nhà
nước sau bao nhiêu năm, nhưng đứng trước những thay đổi không ngừng của xã
hội, bộc lộ hạn chế là điều không tránh khỏi. Bởi vậy, để tìm ra được những giải
8
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện



Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

pháp, việc nghiên cứu và xem xét lại một cách chính xác sự tồn tại của pháp luật
là điều không thể thiếu.
III. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THUẾ ĐỐI
VỚI ĐẤT ĐAI
1. Về luật điều chỉnh
Để nâng cao tính hiệu quả trong quá trình hành thu, trước hết chúng ta cần
xem xét và điều chỉnh những quy định pháp luật hiện hành về Thuế áp dụng đối
với đất đai sao cho phù hợp với thực tế.
Việc pháp luật Thuế áp dụng với đất đai đang được quy định trong hai văn
bản pháp luật khác nhau là Thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993 và Pháp lệnh
Thuế nhà, đất 1992. Điều này khiến cho quá trình hiểu luật và áp dụng luật gặp
nhiều khó khăn. Hai văn bản quy định về hai loại thuế khác nhau là thuế đối với
thuế đối với đất nông nghiệp và thuế đối với đất ở, công trình nhưng trong thực
tế những quy định này lại liên quan đến nhau có những điểm trùng hợp, chồng
chéo. Trước thực tế đó, nên hợp nhất Luật thuế sử dụng đất và pháp lệnh thuế
nhà đất thành một văn bản chung thừa hưởng những quy định tích cực trong hai
văn bản cũ, khắc phục quy định không còn phù hợp, cụ thể hóa chính sách đất
đai của Nhà nước hiện nay. Thông qua đó, Nhà nước giúp người nộp thuế cũng
như cơ quan thu thuế có những căn cứ pháp lý phù hợp với điều kiện thực tế để
việc thực hiện thu dễ dàng hơn.
Trước hết, luật cần điều chỉnh phạm vi áp dụng trên tiêu chí không bỏ sót
đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế và tránh đánh thuế hai lần.
* Về đối tượng nộp thuế.
Luật mới nên tập hợp các đối tượng cũ đã quy định trong Luật sử dụng đất

nông nghiệp 1993 và Pháp lệnh Thuế nhà, đất 1992, đồng thời bổ sung thêm các
đối tượng đánh thuế: đất Nhà nước cho thuê, mặt nước ven song, ven biển nuôi
trồng thủy sản; đất làm muối, và đặc biệt là đánh thuế vào nhà ở. Việc mở rộng
đối tượng đánh thuế sẽ đảm bảo cho nguồn thu từ Thuế đất đai không bị bỏ sót,
đảm bảo tính công bằng trong thu thuế, ai sử dụng đất, ai kiếm lợi từ đất với bất
9
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

kỳ loại đất nào, dưới mọi hình thức đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà
nước. Tuy nhiên, với việc mở rộng phạm vi đối tượng đánh thuế, cần chỉ rõ:
thuế sử dụng đất sẽ áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất,
không phân biệt đất sử dụng cho sản xuất kinh doanh hay không sản xuất kinh
doanh, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh trên đó có hiệu quả hay không
có hiệu quả, không phân biệt nguồn gốc quyền sử dụng đất là được Nhà nước
giao hay mua bán, thừa kế hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
người khác. Tóm lại, cứ có sử dụng đất hay có quyền sử dụng đất là phải nộp
thuế cho Nhà nước, tránh tình trạng đất đai bị bỏ hoang phí hay sử dụng không
đúng mục đích. Tuy nhiên, khi quy định như vậy cần lưu ý hướng dẫn cụ thể
cách phân biệt các loại đất nộp thuế rõ ràng, để trên cùng một thửa đất, người
nộp thuế chỉ phải nộp một loại thuế chứ không phải chịu thuế hai lần.
* Về căn cứ tính thuế.
Pháp luật Thuế về đất đai hiện nay quy định hai loại căn cứ tính thuế cho
thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế nhà đất khác nhau. Do đó, nên quy định
một căn cứ tính thuế mới chung cho loại đất thuộc đối tượng nộp thuế sử dụng

đất. Trong đó, căn cứ vào diện tích đất sử dụng, giá đất và thuế suất. Cụ thể:
Giá đất sẽ theo quy định tại Điều 56 Luật đất đai: Chính phủ quy định
nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất cho từng
vùng, theo từng thời gian; trong trường hợp phải điều chỉnh giá đất và việc xử lý
chênh lệch giá đất liền kề giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trên
cơ sở phương pháp, nguyên tắc, khung giá do Chính phủ quy định, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh quy định giá đất và công bố công khai vào ngày 01/01 hàng năm.
Việc quy định giá đất sẽ khắc phục được tình trạng căn cứ theo định suất thuế
mà trong đó lấy hiện vật (thóc) làm căn cứ tính thuế. Hơn nữa, khi tính thuế theo
giá đất được UBND tỉnh quy định sẽ loại bỏ được việc lấy mức thuế đất nông
nghiệp làm căn cứ tính thuế nhà, đất như quy định cũ.
Diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực tế sử dụng (m 2), dựa vào hồ sơ
đất đai và thực tế đo đạc cụ thể theo hai trường hợp sau:
10
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

Thứ nhất, diện tích đất thực tế sử dụng nhiều hơn diện tích đất ghi trong
quyết định giao đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sổ địa chính Nhà nước.
Trường hợp này tính thuế trên diện tích đất thực tế.
Thứ hai, nếu chưa hoặc không có quyết định giao đất hoặc hợp đồng thuê
đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa lập sổ địa chính mà diện tích
đất thực tế sử dụng nhiều hơn diện tích đất theo tờ khai thì tính thuế theo diện
tích đất thực tế.
Thuế suất là căn cứ tính thuế được áp dụng phổ biến trong các căn cứ tính

các loại thuế thông thường. Việc sử dụng thuế suất làm căn cứ tính thuế sẽ làm
đơn giản hóa quá trình xác định khoản thu phải nộp cho Ngân sách nhà nước.
Khi loại bỏ thóc ra khỏi căn cứ tính thuế để phù hợp với nền kinh tế thị trường,
ta nên xác định mức thuế cho một thửa đất kết hợp giữa giá đất và mức thuế suất
mà nó phải chịu. Mỗi loại đất khác nhau nên có những cách tính thuế suất khác
nhau cho phù hợp. Dựa vào mục đích sử dụng đất cũng như tính hoa lợi qua việc
sử dụng đất, nhà nước có thể quy định mức thuế suất như sau: Đất nông nghiệp
0.5 %; Đất ở đô thị 0.02 %; Đất ở khu dân cư nông thôn 0.1 %. Việc phân chia
thuế suất như vậy sẽ đảm bảo về tổng mức thu, đem lại tính công bằng cho việc
thu nộp thuế sử dụng đất, phù hợp với khả năng của đối tượng nộp thuế.
* Về các trường hợp miễn giảm.
Hiện nay pháp luật quy định rất nhiều trường hợp miễn giảm thuế khác
nhau, nằm trong nhiều văn bản. Theo đó các trường hợp miễn giảm được quy
định rất chung chung, người nộp thuế cần thuộc lòng luật để xác định mình có
nằm trong diện miễn thuế hay không. Nhiều văn bản quy định khiến quá trình
thực hiện không minh bạch. Do đó, cần pháp điển hóa, tập hợp lại những văn
bản luật và dưới luật quy định chung trong luật mới nhằm đơn giản hóa việc xác
định chế độ miễn giảm cho người nộp thuế. Hơn nữa, khi quy định các trường
hợp miễn giảm, cũng nên phân thành các cấp độ, chọn lọc để đưa ra quy định
mang tính khoa học. Cụ thể:
11
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

- Một số trường hợp hiện hành đang cho miễn không có thời hạn, thuộc vào

diện không thu thuế như: đất sử dụng cho mục đích quốc phòng an ninh, đất xây
dựng công trình công cộng
- Trường hợp còn lại nên đưa vào diện miễn, giảm thuế có thời hạn: miễn,
giảm thuế cho đất mới khai hoang, lấn biển; cho đất sản xuất nông nghiệp trong
mức hạn điền; trong trường hợp gặp thiên tai theo mức độ thiệt hại tài sản, hoa
màu trên diện tích đất tính thuế; miễn thuế sử dụng đất đối với nhà tình nghĩa
tặng cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng, người có công với cách mạng sẽ áp dụng
trong thời gian đối tượng trực tiếp được thụ hưởng, còn khi chuyển quyền sử
dụng đất cho đối tượng khác thì đối tượng nhận chuyển nhượng phải nộp thuế
bình thường.
2. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan để đảm bảo đồng bộ
và hỗ trợ cho việc áp dụng thuế đối với đất đai
Những văn bản có liên quan là những Nghị định, nghị quyết, thông tư cụ
thể hướng dẫn thi hành luật thuế sử dụng đất. Khi một văn bản mới ra đời thống
nhất những quy định về áp dụng thuế đối với đất đai thì tất yếu phải hoàn thiện
những văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm tạo một hành lang pháp lý
thống nhất, đồng bộ.
Theo đó, những văn bản cũ hướng dẫn thi hành Luật thuế sử dụng đất năm
1993 và Pháp lệnh thuế nhà, đất 1992 phải bị bãi bỏ. Chín phủ cần ban hành văn
bản hướng dẫn việc xác định các loại đất thuộc đối tượng chịu thuế, hướng dẫn
việc xác định chính xác diện tích đất chịu thuế của từng hộ, hướng dẫn các hộ
về thủ tục cũng như quy trình tính thuế, nộp thuế cho cơ quan Nhà nước.
Bên cạnh đó các văn bản liên quan còn bao gồm các văn bản Luật khác, đặc
biệt là Luật thuế. Tuy các loại thuế đều tác động qua lại với nhau trong quá trình
thực hành thu, song thuế đất đai lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhóm thuế đánh
vào tài sản. Trong đó, thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân là
hai loại thuế cần sự tương đồng cao với thuế đất đai, bởi hai loại thuế này đều
thu vào hoạt động chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
12
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành

và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

Ngoài thuế thu nhập, các loại thuế khác cũng cần hoàn thiện để phù hợp
hơn với Luật thuế đất đai mới. Theo đó, luật thuế giá trị gia tăng cần chú ý đến
những sản phẩm, hàng hóa có nguồn gốc từ nông sản để có những chế độ ưu tiên
hợp lý đối với người sản xuất nông nghiệp khi mà họ vẫn phải chịu thuế sử dụng
đất nông nghiệp trong quá trình sản xuất.

C. KẾT LUẬN
Sửa đổi và hoàn thiện pháp luật về đất đai đang thực hiện sự trở thành đòi
hỏi cấp thiết trong điều kiện hiện nay. Trước sự thay đổi về kinh tế, xã hội,
những quy định của pháp luật về đất đai không còn phù hợp, trong đó phạm vi
áp dụng thuế đã bị thu hẹp so với thực tế, sự phân hóa đất đai nhanh chóng, cùng
với sự thay đổi của cơ cấu sản xuất đã dẫn đến tình trạng đất đai không còn nằm
trong sự kiểm soát của nhà nước. Đứng trước những thách thức mất dần đất
nông nghiệp, tình trạng đầu cơ đất đai trong nền kinh tế thị trường, chúng ta cần
xem xét lại cơ chế điều chỉnh, chính sách về thuế đối với đất đai……

13
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ


Môn: Luật tài chính

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Pháp lệnh Thuế nhà, đất năm 1992
2. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp 1993
3. Luật đất đai năm 2003
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội 2010
5. Pháp luật về thuế áp dụng đối với đất đai, thực trạng và phương hướng
hoàn thiện, Nguyễn Thị Thúy Chung, Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội 2002.

14
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện


Bài tập học kỳ

Môn: Luật tài chính

MỤC LỤC
A. Mở đầu………………………………………………………………..…1
B. Nội dung………………………………………………………………...1
I. Khái quát chung về pháp luật thuế đối với đất đai……………………….1
1. Khái niệm pháp luật thuế đối với đất đai………………………………...1
2. Đặc điểm pháp luật thuế đối với đất đai…………………………………2
3. Vai trò pháp luật thuế đối với đất đai…………………………………..,.2
II. Những bất cập của pháp luật thuế đối với đất đai…………………….....3
1. Tiêu chí đánh giá………………………………………………………..3
2. Những bất cập của pháp luật thuế đối với đất đai hiện hành……………5

III. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về thuế đối với đất đai…………....9
1. Về luật điều chỉnh……………………………………………………….9
2. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan để đảm bảo đồng bộ và
hỗ trợ cho việc áp dụng thuế đối với đất đai..………………………….12
C. Kết luận………………………………………………………………...13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

15
Đề bài số 16: Phân tích những bất cập của pháp luật thuế về đất đai hiện hành
và hướng hoàn thiện



×