Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tìm hiểu pháp luật huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD và những đánh giá, nhận xét của tác giả về vấn đề nêu trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.39 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
KẾT LUẬN.....................................................................................................17

LỜI MỞ ĐẦU
Cũng như nhiều tổ chức kinh doanh khác, nguồn vốn đóng một vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các TCTD (TCTD), trong đó
nguồn vốn huy động có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để TCTD tiến hành các
hoạt động cho vay, đầu tư, dự trữ… mang lại lợi nhuận cho mình. Để có được
nguồn vốn này, TCTD cần phải tiến hành các hoạt động huy động vốn. Bên
cạnh hình thức huy động vốn chủ yếu là nhận tiền gửi thì TCTD còn được
pháp luật cho phép tiến hành hoạt động phát hành giấy tờ có giá để huy động
vốn. Đây là một quy định rất phù hợp với xu thế phát triển chung của nền
kinh tế thế giới. Trong nền kinh tế thị trường, phát hành giấy tờ có giá là giải
pháp huy động vốn khá dễ dàng và thuận lợi của các tổ chức kinh tế nói
chung và TCTD nói riêng từ công chúng. Tuy nhiên, về phương diện học
thuật, do việc phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch mới xuất hiện ở
nước ta trong thời gian gần đây, nên các nghiên cứu từ góc độ pháp lý về vấn
đề này còn quá ít ỏi. Điều này, gây khó khăn rất lớn cho việc nhận thức đúng
bản chất pháp lý của giao dịch phát hành giấy tờ có giá nói chung, cũng như
giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD nói riêng. Không chỉ vậy, trên
thực tế tình hình huy động vốn của các TCTD thông qua hoạt động phát hành
giấy tờ có giá này cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Do đó,


việc đưa ra những đánh giá, nhận xét cũng như giải pháp hoàn thiện là rất cần
thiết để hoạt động huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá của TCTD có
thể đạt được những kết quả khả quan nhất.
Chính vì vậy, trong bài viết sau đây sẽ đi sâu tìm hiểu về hoạt động
phát hành giấy tờ có giá của các TCTD thông qua đề tài “Tìm hiểu pháp luật
huy động vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD và
những đánh giá, nhận xét của tác giả về vấn đề nêu trên”.



NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về giấy tờ có giá do TCTD phát hành.
1.1 Khái niệm và đặc điểm của giấy tờ có giá do TCTD phát hành.
Tại khoản 1 điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá ban hành theo
quyết định 07/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
24/3/2008 đã được sửa đổi bổ sung theo thông tư số 16/2009/TT-NHNN ngày
11/8/2009 (Sau đây gọi tắt là Quy chế) có quy định:“Giấy tờ có giá là chứng
nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả
nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều
khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua”.
Theo khái niệm trên, giấy tờ có giá có ba thuộc tính: (1) Xác nhận
quyền tài sản của một chủ thể xác định; (2) Trị giá được bằng tiền; (3) Có thể
chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao lưu dân sự dưới các
hình thức mua, bán, tặng cho, trao đổi, thừa kế…
Giấy tờ có giá do TCTD phát hành gồm giấy tờ có giá ngắn hạn (thời
hạn dưới 12 tháng như kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác) và giấy tờ có giá dài hạn (thời hạn từ 12 tháng
trở lên như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn
khác).1

1

Khoản 2 và 3 Điều 4 – Quy chế.

2


Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể thể hiện dưới các hình
thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có ghi danh hoặc không ghi

danh. Hình thức chứng chỉ ghi danh áp dụng với người mua là cá nhân. Hình
thức chứng chỉ vô danh áp dụng đối với người mua là cá nhân và tổ chức.
Hình thức ghi sổ áp dụng đối với người mua là tổ chức có tài khoản tiền gửi
tại TCTD phát hành. Trường hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi
sổ, TCTD phát hành phait cấp chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá cho
người mua.
1.2. Các loại giấy tờ có giá TCTD được phát hành.
- Trái phiếu: giấy tờ có giá quy định nghĩa vụ của ngân hàng phải trả
cho người nắm giữ (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong
những khoảng thời gian cụ thể và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi
đáo hạn. Trái phiếu do TCTD phát hành ngoài trái phiếu thông thường còn có
hai loại trái phiếu đặc thù sau:
+ Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ
phiếu phổ thông của cùng một TCTD phát hành theo các điều kiện
đã được xác định trong phương án phát hành.2
+Trái phiếu kèm chứng quyền: là loại chứng khoán phát hành kèm
theo trái phiếu xác định quyền của người sở hữu trái phiếu được
mua một khối lượng cổ phiếu phổ thông nhất định theo các điều
kiện đã xác định.3
- Tín phiếu (Treasury bill): là giấy tờ có giá do TCTD (ngoài ra có
NHNN, Kho bạc Nhà nước, Doanh nghiệp) phát hành nhằm mục đích huy
động vốn ngắn hạn.
- Kỳ phiếu (promissory note): giấy tờ có giá ngắn hạn thể hiện cam kết
trả tiền vô điều kiện cho người lập phiếu phát ra trong đó xác nhận trả một số
tiền nhất định cho người thụ hưởng quy định trên kỳ phiếu hoặc theo lệnh của
người này trả cho một người khác.
- Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit): giấy tờ có giá do ngân
hàng phát hành chứng nhận người sở hữu văn bản đã gửi tiền vảo ngân hàng
để huy động vốn từ các tổ chức và cá nhân khác.


2. Tìm hiểu pháp luật huy động vốn thông qua hoạt động phát hành
giấy tờ có giá của TCTD.
2
3

Khoản 15 Điều 4 – Quy chế.
Khoản 18 Điều 4 – Quy chế.

3


2.1 Khái niệm và đặc điểm hoạt động phát hành giấy tờ có giá của
TCTD.
Khái niệm: Phát hành giấy tờ có giá của TCTD là hoạt động phát hành
các loại giấy tờ có giá theo quy định trong đó TCTD cam kết trả gốc và lãi
cho người mua sau thời gian nhất định nhằm huy động vốn.
Đặc điểm:
• Chủ thể quan hệ phát hành giấy tờ có giá:
- Bên mua:
+Tổ chức, cá nhân Việt Nam; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
+ Tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của
pháp luật Việt Nam, bao gồm các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam và không hoạt động tại Việt Nam.
+ Đối với người mua giấy tờ có giá là tổ chức, cá nhân nước ngoài,
TCTD chỉ được phát hành giấy tờ có giá ghi danh. 4
- Bên phát hành:
+ Các TCTD được thành lập, hoạt động theo Luật Các TCTD và đáp
ứng các điều kiện quy định tại Quy chế này, bao gồm: Các TCTD Nhà nước;
Các TCTD cổ phần; Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương; Các TCTD liên
doanh; Các TCTD 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh ngân hàng nước

ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam.
+ Riêng công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, loại giấy tờ có
giá và thời hạn giấy tờ có giá được phép huy động thực hiện theo quy định
hiện hành về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài
chính.5
• Phát hành giấy tờ có giá của TCTD thực chất là hành vi vay tiền
khách hàng của TCTD.
Sở dĩ có thể khẳng định như vậy là bởi vì, trong quan hệ giao dịch này,
TCTD không hề có quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá mà nó dự định
phát hành, nên không thể đóng vai trò là người bán. Mặt khác, trước khi các
giấy tờ có giá được TCTD chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một
chứng thư xác nhận quyền chủ nợ và TCTD cũng chưa nhận được nguồn vốn
tiền tệ do khách hàng chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có
giá trị thực tế, nghĩa là không thể hoán đổi chúng thành tiền hay các tài sản
khác có giá trị tương đương với số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Điều
4
5

Điều 3 - Quy chế.
Điều 2 – Quy chế.

4


đó cho thấy, chỉ khi nào khách hàng chấp nhận trao đổi chứng thư đó với
TCTD bằng số tiền tương đương mệnh giá của chứng thư thì khi đó, chứng
thư này mới thực sự là có giá trị và mới phản ánh đúng tên gọi của nó là “giấy
tờ có giá”.
• Đối tượng: là các khoản tiền do khách hàng đồng ý chuyển quyền
sở hữu cho TCTD.

Mặc dù tên gọi của giao dịch là “phát hành các giấy tờ có giá” nhưng
đối tượng của giao dịch này không phải là các giấy tờ có giá do TCTD phát
hành, mà chính là các khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền sở
hữu cho TCTD với điều kiện TCTD phải hoàn trả cho khách hàng sau một
thời hạn nhất định, kèm theo khoản lãi do các bên thoả thuận. Về lý thuyết,
tuy không phải là đối tượng của giao dịch nhưng các chứng thư này được coi
là hình thức pháp lý của giao dịch, đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về
phương diện kinh tế, các chứng thư này cũng được coi là một loại “tiền ngân
hàng” nhưng không phải là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành, mà là
tiền được tạo ra bởi TCTD trong quá trình huy động vốn, thông qua chức
năng “tạo tiền” của TCTD. Trên thực tế, các chứng thư nhận nợ do TCTD
phát hành ra công chúng có thể là chứng khoán nợ ngắn hạn – có thời hạn
thanh toán dưới 1 năm, ví dụ chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn; kỳ phiếu ngân hàng
hay tín phiếu của TCTD, hoặc là chứng khoán nợ dài hạn (có thời hạn thanh
toán từ 1 năm trở lên, ví dụ chứng chỉ tiền gửi dài hạn hoặc trái phiếu ngân
hàng…). Sự phân biệt giữa hai loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác
định cơ chế phát hành và lưu thông chúng như thế nào sau khi đã được phát
hành trên thị trường bởi TCTD.
• Về tư cách pháp lý: Trong quan hệ phát hành giấy tờ có giá TCTD
có tư cách là người vay hay người mắc nợ, khách hàng “mua” có tư cách là
người cho vay, chủ nợ của TCTD.
Mặc dù có tư cách là người cho vay nhưng do giao dịch này được
TCTD và khách hàng xác lập, thực hiện thông qua một hợp đồng cho vay có
thời hạn xác định nên về nguyên tắc, khách hàng cho vay không thể rút vốn
về trước kỳ hạn như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ hạn tại TCTD (bằng
cách chịu lãi suất phạt với TCTD nhận tiền gửi). Nếu muốn thu hồi vốn về
trước kỳ hạn, cách duy nhất là người sở hữu giấy tờ có giá (bên cho vay) ký
hợp đồng chuyển nhượng chứng thư đó cho người khác (chẳng hạn, có thể
“bán” cho ngân hàng thương mại theo phương thức chiết khấu hoặc bán cho

5


các tổ chức, cá nhân khác theo phương thức thông thường trên thị trường tiền
tệ hoặc thị trường chứng khoán).
• Về mục đích:
- Mục đích của TCTD: muốn chiếm hữu, sử dụng, định đoạt số tiền mặt
từ việc bán giấy tờ có giá trong thời hạn của loại giấy tờ có giá đó phải hoàn
trả số tiền mình đã nhận của khách hàng từ việc bán giấy tờ có giá đó khi đến
hạn và tiền lãi.
- Mục đích của khách hàng: kiếm lời theo thời gian, thời gian ngày
càng dài thì lãi càng lớn.
2.2 Điều kiện để TCTD được phát hành giấy tờ có giá.
• Điều kiện chung:
- Phải là các TCTD được thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD
gồm: TCTD Nhà nước; TCTD cổ phần; TCTD liên doanh; Quỹ tín dụng nhân
dân trung ương; các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Và bắt đầu từ
ngày 1/1/2011 khi Luật các TCTD 2010 có hiệu lực thì các TCTD phi ngân
hàng (công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân
hàng khác) sẽ chỉ được phát hành giấy tờ có giá đối với khách hàng là tổ
chức.
- Tuân thủ các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động theo quy định của Luật các TCTD 2010 và hướng dẫn của Ngân hàng
Nhà nước.
- Có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra ngân
hàng.
• Với trường hợp phát hành giấy tờ có giá dài hạn: TCTD muốn được
phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì ngoài những điều kiện chung ở trên còn
phải chấp hành theo một số các quy định sau đây:
- Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày TCTD chính

thức đi vào hoạt động.
- Kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành
và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi.
- Được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phát
hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính của TCTD.
• Trong trường hợp TCTD muốn phát hành giấy tờ có giá dưới hình
thức trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền thì phải chấp
hành các quy định tại điều 28 của quy chế như sau:
- Phải là TCTD cổ phần.
6


- Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy
định của Luật Các TCTD, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các
TCTD và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
- Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày TCTD chính
thức đi vào hoạt động.
- Kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành
và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của
năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất dưới 5%.
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của 3 năm
liên tiếp trước đó phải cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu chuyển
đổi, trái phiếu kèm chứng quyền. Đối với TCTD có thời gian hoạt động từ 2
đến dưới 3 năm, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của
2 năm liên tiếp trước đó phải cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu
chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền. Đối với TCTD có thời gian hoạt
động dưới 2 năm, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của năm
trước đó phải cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu chuyển đổi, trái
phiếu kèm chứng quyền.
- Được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phát

hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính của
TCTD. Nếu phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu chuyển
đổi, trái phiếu kèm chứng quyền đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua có
thay đổi, TCTD phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước (Cơ quan Thanh tra, giám
sát ngân hàng) để Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét chấp thuận.
• Ngoài ra, trong trường hợp TCTD phát hành giấy tờ có giá theo
phương thức chào bán chứng khoán ra công chúng thì việc phát hành, niêm
yết và giao dịch giấy tờ có giá của TCTD tại thị trường chứng khoán tập trung
được thực hiện theo các quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán.6

2.3 Trình tự, thủ tục phát hành giấy tờ có giá của TCTD.
Theo quy định của Quy chế thì TCTD muốn phát hành giấy tờ có giá
phải lập hồ sơ đề nghị phát hành gửi đến Ngân hàng Nhà nước trung ương
(Vụ chính sách tiền tệ) hoặc chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố
nơi đóng trụ sở chính đối với TCTD cổ phần trong trường hợp đề nghị phát
hành giấy tờ có giá ngắn hạn.
Hồ sơ đề nghị phát hành gồm:
6

Điều 6 – Quy chế.

7


Đơn đề nghị phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong năm tài
chính hoặc dài hạn.
Kế hoạch phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn ( trong đó nêu rõ
mục đích phát hành, phương án sử dụng, tổng số dư giấy tờ có giá ngắn hạn
đầu năm tài chính, tổng mệnh giá phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong

năm tài chính, số đợt và thời điểm dự kiến phát hành, tên gọi giấy tờ có giá
phát hành, đồng tiền phát hành). Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn thì
phương án phát hành trong đó nêu rõ mục đích phát hành, phương án sử dụng,
tổng mệnh giá phát hành, mệnh giá, tên gọi của giấy tờ có giá, thời hạn, lãi
suất, phạm vi phát hành, cách thức địa điểm trả gốc và lãi; các điều kiện và
điều khoản về quyền và nghĩa vụ của TCTD và người mua. Phương án phát
hành giấy tờ có giá dài hạn phải được hội đồng quản trị thông qua.
Các báo cáo tài chính của hai năm liên tục gần nhất và tính đến
thời điểm có đơn đề nghị phát hành. Các TCTD có thời hạn hoạt động dưới
hai năm gửi các báo cáo tài chính từ khi bắt đầu hoạt động đến thời điểm có
đơn đề nghị phát hánh. ( Nếu TCTD đề nghị phát hành giấy tờ có giá dài hạn
thì các báo cáo tài chính phải được một tổ chức kiểm toán được Ngân hàng
Nhà nước thừa nhận hoặc Thanh tra Ngân hàng Nhà nước xác nhận).
Kế hoạch kinh doanh trong năm tài chính.
Điều lệ và giấy phép hoạt động (đối với TCTD phát hành lần
đầu).
Các thay đổi về bộ máy tổ chức và thay đổi khác (nếu có).
Mẫu giấy tờ có giá phát hành ( nếu là phát hành giấy tờ có giá dài
hạn).
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ đề
nghị phát hành giấy tờ có giá của TCTD, Ngân hàng Nhà nước có quyết định
chấp thuận hoặc không chấp thuận đề nghị xin phát hành giấy tờ có giá của
TCTD.
• Trong trường hợp phát hành trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu
kèm chứng quyền thì hồ sơ cần có như sau (Theo quy định tại điều 29 Quy
chế):
- Các quy định theo khoản 4,5,6,7,8 điều 23 của Quy chế.
- Đề nghị phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền
của năm tài chính.
- Phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu chuyển đổi,

trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính được Đại hội đồng cổ đông
8


thông qua trong đó nêu rõ các nội dung theo quy định hiện hành của Ngân
hàng Nhà nước về hồ sơ đề nghị chấp thuận thay đổi mức vốn điều lệ của
TCTD.
- Phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng
quyền của năm tài chính, trong đó nêu rõ:
+ Mục đích phát hành, phương án sử dụng vốn thu được từ phát hành
trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền; Tổng mệnh giá phát
hành, mệnh giá, địa điểm phát hành, phương thức phát hành, hình thức
phát hành, thời hạn, lãi suất, phương thức trả lãi, địa điểm trả gốc và lãi,
người mua trái phiếu, số lượng và thời gian dự kiến của từng đợt phát
hành; Các điều kiện và điều khoản về quyền và nghĩa vụ của TCTD và
người mua. Phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm
chứng quyền phải được Hội đồng quản trị thông qua.
+ Đối với phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi phải nêu rõ: Điều
kiện, thời hạn chuyển đổi trái phiếu; Tỷ lệ chuyển đổi trái phiếu, phương
pháp tính giá chuyển đổi; Biên độ biến động giá cổ phiếu vào thời điểm
phát hành và chuyển đổi trái phiếu (nếu có).
+ Đối với phương án phát hành trái phiếu kèm chứng quyền phải nêu rõ:
Điều kiện được mua cổ phiếu phổ thông của người sở hữu chứng quyền,
số lượng cổ phiếu được mua của từng đơn vị chứng quyền, các quyền lợi
và trách nhiệm khác của người nắm giữ chứng quyền.
Sau khi có quyết định chấp thuận cho phát hành của người có thẩm
quyền, TCTD sẽ tiến hành phát hành giấy tờ có giá, cụ thể:
Đối với phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, TCTD chủ động tổ
chức các đợt phát hành trong phạm vi kế hoạch cả năm đã được chấp thuận.
Nếu phát hành vượt quá kế hoạch phát hành trong cả năm đã được chấp thuận

thì phải được sự chấp thuận bổ sung bằng văn bản của Ngân hàng Nhà nước
nơi đã ra quyết định chấp thuận phát hành. Trước thời điểm phát hành ít nhất
20 ngày làm việc, TCTD phải gửi thông báo phát hành của đợt phát hành dự
kiến về Ngân hàng Nhà nước nơi đã ra quyết định chấp thuận phát hành. Nếu
trước ngày phát hành dự kiến 10 ngày làm việc, Ngân hàng nhà nước không
có ý kiến bằng văn bản thì TCTD được tổ chức phát hành giấy tờ có giá.
Hàng tháng, TCTD báo cáo bằng văn bản về kết quả phát hành giấy tờ có giá
ngắn hạn chậm nhất vào ngày 10 tháng tiếp theo cho Ngân hàng nhà nước nơi
ra quyết định chấp thuận.

9


Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn, các TCTD phải công
bố thông báo phát hành giấy tờ có giá dài hạn trên các phương tiện thông tin
đại chúng trong thời gian tối thiểu 5 ngày liên tiếp trước khi phát hành. Thời
điểm bắt đầu phát hành chậm nhất không quá 45 ngày kể từ ngày Thống đốc
Ngân hàng nhà nước chấp thuận. TCTD chỉ được phát hành vượt quá tổng
mệnh giá đã được chấp thuận khi có sự chấp thuận bổ sung bằng văn bản của
Thông đốc Ngân hàng Nhà nước. Chậm nhất sau 10 ngày làm việc kể từ khi
kết thúc đợt phát hành, TCTD báo cáo bằng văn bản về kết quả phát hành
giấy tờ có giá dài hạn về Ngân hàng nhà nước.

2.4 Về mệnh giá của giấy tờ có giá do TCTD phát hành.
Mệnh giá của giấy tờ có giá ngắn hạn được in sẵn hoặc theo thỏa thuận
của TCTD phát hành với người mua.7
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn do TCTD phát hành theo hình thức
chứng chỉ bằng đồng Việt Nam thì mệnh giá tối thiểu là một triệu đồng và tối
đa là một tỷ đồng. Nếu phát hành bằng ngoại tệ thì mệnh giá tối thiểu là 100
USD hoặc ngoại tệ khác tương đương và tối đa là 100.000 USD hoặc ngoại tệ

khác tương đương. Các mệnh giá lớn hơn mệnh giá tối thiểu phải là bội số
của mệnh giá tối thiểu. Nếu chứng chỉ là trái phiếu thì mệnh giá được in sẵn
trên từng tờ trái phiếu. Nếu chứng chỉ là chứng chỉ tiền gửi dài hạn thì mệnh
giá được in sẵn hoặc theo thỏa thuận của TCTD phát hành với người mua.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn do TCTD phát hành theo hình thức ghi sổ
thì do TCTD phát hành thỏa thuận với người mua.8
TCTD huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phải có trách nhiệm
công bố công khai về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh
toán tiền gốc và lãi đúng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá và
phải thực hiện chế độ báo cáo kết quả phát hành cho Ngân hàng nhà nước
theo quy định.
2.5 Phương thức phát hành.
Theo quy định tại Quy chế, TCTD được phát hành giấy tờ có giá thông
qua các phương thức sau:
• Trực tiếp phát hành giấy tờ có giá.
7
8

Điều 17 – Quy chế.
Điều 20 – Quy chế.

10


TCTD trực tiếp tổ chức thực hiện việc phát hành giấy tờ có giá cho phù
hợp với đặc điểm, điều kiện của TCTD.9
• Bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá.
- Chủ thể thực hiện: Các tổ chức bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá gồm
các TCTD, công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán và các định chế tài chính khác theo quy định tại giấy phép hoạt

động. Nếu các ngân hàng thương mại thực hiện bảo lãnh phát hành trái phiếu
ra công chúng phải được Ủy ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận theo điều
kiện do Bộ Tài chính quy định.10
- Phương thức thực hiện bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá:11
+ Việc bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá có thể do một hoặc một số tổ
chức đồng thời thực hiện.
+ Trường hợp nhiều tổ chức cùng thực hiện bảo lãnh phát hành giấy tờ
có giá, thực hiện theo phương thức đồng bảo lãnh phát hành giấy tờ
có giá.
+ Tổ chức bảo lãnh phát hành thực hiện theo đúng cam kết bảo lãnh
phát hành với TCTD.
+ Phí bảo lãnh phát hành do TCTD phát hành thỏa thuận với tổ chức
bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá.
• Đại lý phát hành giấy tờ có giá.
Chủ thể thực hiện: tổ chức đại lý phát hành giấy tờ có giá gồm
các TCTD, công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán và các định chế tài chính khác theo quy định tại giấy phép hoạt
động.
Phương thức đại lý phát hành giấy tờ có giá:12
+ TCTD phát hành giấy tờ có giá có thể ủy quyền cho một hoặc một số
tổ chức cùng làm nhiệm vụ đại lý phát hành giấy tờ có giá.
+ Tổ chức đại lý phát hành thực hiện bán giấy tờ có giá cho người mua
giấy tờ có giá theo đúng cam kết với TCTD phát hành. Trường hợp
không bán hết, tổ chức đại lý phát hành được trả lại cho TCTD phát
hành số giấy tờ có giá còn lại.
+ Phí đại lý phát hành giấy tờ có giá do TCTD phát hành thỏa thuận với
tổ chức đại lý phát hành giấy tờ có giá.
9

Điều 35 – Quy chế.

Điều 36 – Quy chế.
11
Điều 37 – Quy chế.
12
Điều 38 – Quy chế.
10

11


• Đấu thầu giấy tờ có giá.
Các TCTD được thực hiện đấu thầu giấy tờ có giá thông qua các
phương thức sau:
- TCTD phát hành giấy tờ có giá được lựa chọn các phương thức đấu
thầu sau:
+ Đấu thầu trực tiếp tại TCTD phát hành giấy tờ có giá.
+ Đấu thầu thông qua các tổ chức tài chính trung gian
+ Đấu thầu thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch
chứng khoán.
- TCTD tự quyết định hình thức đấu thầu giấy tờ có giá và xây dựng
quy trình đấu thầu cụ thể cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh doanh của
đơn vị mình và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Việc tổ chức đấu thầu phải đảm bảo nguyên tắc bí mật về thông tin
của các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu và bảo đảm sự bình đẳng giữa các
tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.
- Phí đấu thầu giấy tờ có giá do TCTD phát hành thỏa thuận với tổ chức
được ủy quyền tổ chức đấu thầu giấy tờ có giá.

3. Đánh giá, nhận xét quy định của pháp luật về vấn huy động vốn
thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD.

3.1 Ưu điểm.
Thứ nhất, các văn bản pháp luật đã được ban hành một cách kịp thời
để điều chỉnh vấn đề này.
Phát hành giấy tờ có giá là loại hình giao dịch huy động vốn khá thông
dụng của các TCTD và thường được quy định một cách rõ ràng, cụ thể trong
pháp luật của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, giao dịch phát hành giấy
tờ có giá của TCTD (cụ thể hơn là trái phiếu ngân hàng) được quy định lần
đầu tiên tại Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính.
Sau đó, văn bản này được cụ thể hoá bằng các Quyết định số 212/QĐ-NH1
ngày 22/9/1994; Quyết định số 214/QĐ-NH1 ngày 23/9/1994; Quyết định số
243/QĐ-NH1 ngày 30/3/1994 và Quyết định số 247/QĐ-NH1 ngày
05/10/1994 về việc cho phép các TCTD, ngân hàng đầu tư phát triển được
phát hành trái phiếu ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam để huy
động vốn trung hạn và dài hạn trên thị trường vốn. Gần đây, giao dịch phát
hành trái phiếu ngân hàng và các giấy tờ có giá khác lại tiếp tục được quy
định trong Luật Các TCTD ban hành ngày 12/12/1997 (đạo luật này đã được
12


sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2004) và được cụ thể hoá bằng các văn
bản dưới luật như Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại (khoản 2 Điều 3);
Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 của Chính phủ về tổ chức, hoạt
động của TCTD nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại
Việt Nam (khoản 2 Điều 30); Quyết định số 1287/2002/QĐ-NHNN ngày
22/11/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế
phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước. Sau đó, văn
bản này đã bị thay thế bởi Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN ngày
04/01/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế
phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước.

Và gần đây nhất, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết
định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 ban hành Quy chế phát hành
giấy tờ có giá trong nước của TCTD. Đến ngày 11/8/2009, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước lại ban hành Thông tư số 16/2009/TT-NHNN để sửa đổi, bổ
sung một số điều trong quyết định trên. Không những vậy, ngày 16/6/2010
vừa qua, Quốc hội đã ban hành Luật các TCTD 2010 có hiệu lực ngày
1/1/2011 cũng có một số sửa đổi về vấn đề phát hành giấy tờ có giá của các
TCTD. Tuy nhiên các văn bản dưới luật điều chỉnh về vấn đề này thì vẫn
chưa được kịp thời ban hành. Vì thế các TCTD thực hiện hoạt động phát hành
giấy tờ có giá vẫn chủ yếu dựa trên các quy định trong các văn bản cũ đó là
quyết định 07/2008 đã được sửa đổi theo thông tư 16/2009.
Thứ hai, các quy định trong văn bản mới ban hành đã có những sửa
đổi rất đúng hướng, kịp thời điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
này.
Các văn bản mới trên đây (mà trực tiếp nhất là quyết định 07/2008 đã
được sửa đổi bổ sung theo thông tư số 16/2009) đã từng bước thiết lập sự
đồng bộ giữa các quy định về phát hành giấy tờ có giá của TCTD với các quy
định của Luật chứng khoán năm 2006 về phát hành chứng khoán ra công
chúng. Đặc biệt, văn bản này đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các văn
bản bị thay thế chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, chẳng hạn như: quyền
phát hành trái phiếu chuyển đổi và chứng quyền của TCTD cổ phần; việc áp
dụng cơ chế phát hành thông qua phương thức đấu thầu, thông qua tổ chức
làm đại lý hoặc tổ chức trung gian bảo lãnh phát hành chứng khoán…
Theo quan điểm của tác giả, các quy định về phát hành giấy tờ có giá của
Quyết định 07/2008 có khá nhiều điểm bứt phá, một trong những điểm nhấn
13


quan trọng nhất đó là việc mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động phát hành
giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng. Chẳng hạn, nếu như trước đây, bất cứ

hoạt động phát hành giấy tờ có giá nào của các tổ chức tín dụng cũng phải được
phép của Ngân hàng nhà nước thì với Quyết định 07/2008, yêu cầu đó đã được
hạn chế cách hợp lí hơn. Cụ thể, đối với việc phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn,
các tổ chức tín dụng chỉ cần thông báo với Ngân hàng nhà nước mà không cần
phải xin giấy phép: “Điều 19. Tổ chức phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn:
1. Tổ chức tín dụng chủ động tổ chức các đợt phát hành giấy tờ có
giá ngắn hạn trong năm.
2. Trước thời điểm phát hành từng đợt ít nhất là 3 ngày làm việc, tổ
chức tín dụng phải gửi Thông báo phát hành của đợt phát hành dự kiến về
Ngân hàng nhà nước (Vụ Chính sách tiền tệ).”
Và chỉ cần thực hiện thủ tục cấp phép đối với việc phát hành giấy tờ có
giá dài hạn. Một ví dụ khác thể hiện cho sự mở rộng khả năng lựa chọn, quyền
tự chủ của các tổ chức tín dụng trong loại hình nghiệp vụ huy động vốn này
chính là việc mở rộng phương thức phát hành giấy tờ có giá, phù hợp với nhu
cầu của thị trường. Cụ thể, theo quy chế phát hành giấy tờ có giá quy định trong
Quyết định 02/2005/QD-NHNN, chỉ có 2 phương thức phát hành giấy tờ có
giá, đó là: 1) trực tiếp phát hành giấy tờ có giá; 2) phát hành qua tổ chức tín
dụng làm đại lí hoặc ủy thác phát hành giấy tờ có giá. Trong Quyết định 07, các
hình thức phong phú hơn, cụ thể:
“Điều 34. Phương thức phát hành giấy tờ có giá
Các tổ chức tín dụng có thể thực hiện phát hành giấy tờ có giá theo các
phương thức:
1. Trực tiếp phát hành giấy tờ có giá
2. Bảo lãnh phát hành
3. Đại lý phát hành
4. Đấu thầu giấy tờ có giá.”
3.2 Hạn chế.
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng, Quyết
định số 07/2008 vẫn còn một số điểm bất cập, hạn chế sau đây:
Thứ nhất, về bản chất pháp lý của quan hệ phát hành giấy tờ có giá.

Trên nguyên tắc, việc phát hành các giấy tờ có giá của TCTD chính là những
thoả thuận vay nợ giữa TCTD với khách hàng. Sở dĩ có thể khẳng định như
vậy là bởi vì, thực chất các giấy tờ có giá được phát hành theo Quy chế này
đều là những phiếu nợ do các TCTD phát hành để cam kết hoàn trả một số
tiền nhất định ghi trên giấy tờ có giá đó cho người sở hữu vào một ngày nhất
định trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng: khi phát hành giấy tờ có giá cho
14


người đầu tư là các tổ chức, cá nhân, TCTD không phải là “người bán” giấy
tờ có giá mà chỉ là người tiếp nhận vốn đầu tư (người vay), còn khách hàng là
tổ chức, cá nhân cũng không phải là “người mua” giấy tờ có giá theo đúng
nghĩa của từ này mà chỉ là người đầu tư gián tiếp vào TCTD bằng cách cho
vay đối với chủ thể này để được nhận một khoản lãi cho vay theo thoả thuận.
Tuy nhiên, các quy định hiện hành trong Quyết định số 07/2008 lại thể hiện
quan điểm coi giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD như là một giao
dịch “mua bán” giấy tờ có giá, chứ không khẳng định và thừa nhận bản chất
là giao dịch cho vay của quan hệ phát hành giấy tờ có giá của TCTD.
Thứ hai, mặc dù Quyết định số 07/2008 đã đặt nền móng cho việc nhất
thể hoá các quy chế về phát hành các loại giấy tờ có giá của TCTD, nhưng nét
nổi bật dễ nhận thấy trong văn bản pháp quy này là nhà làm luật vẫn chủ
trương tách bạch giữa hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD với hoạt
động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức khác không phải là TCTD.
Điều này thể hiện ở chỗ, hiện tại, việc phát hành các giấy tờ có giá của các
chủ thể không phải là TCTD đang được thực hiện theo quy định của Luật
chứng khoán năm 2006, còn việc phát hành giấy tờ có giá trong nước của
TCTD để huy động vốn (trong đó chủ yếu là các trái phiếu ngân hàng) thì vẫn
được thực hiện theo quy định riêng tại Quy chế ban hành kèm theo Quyết
định này. Theo em, quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lẽ trái phiếu ngân
hàng thực chất cũng là một loại chứng khoán dài hạn nên về nguyên tắc cần

phải được phát hành và lưu thông trên thị trường chứng khoán, giống như cổ
phiếu và trái phiếu công ty hay trái phiếu chính phủ. Đặc biệt, việc phát hành
Hối phiếu nhận nợ của các TCTD cho khách hàng (người cho vay), với ý
nghĩa là một loại giấy tờ có giá ngắn hạn để huy động vốn, đồng thời tạo thêm
“hàng hoá” cho thị trường tiền tệ, cũng chưa được đề cập đến trong Quy chế
này, dù chỉ là một quy định mang tính dẫn chiếu đến Luật các công cụ chuyển
nhượng.
Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngày càng đa dạng, các
TCTD đã phát hành nhiều loại giấy tờ có giá trên thị trường với thời hạn,
mệnh giá, lãi suất và khả năng chuyển nhượng khác nhau. Chẳng hạn, ở Hoa
Kỳ các TCTD có thể phát hành chứng thư tiền gửi ngắn hạn (CDs) với giá trị
bề mặt tối thiểu là 100.000 USD, trong khi ở Anh, các TCTD lại có thể phát
hành các trái phiếu ngân hàng có thời hạn hoặc không thời hạn có lãi suất thả
nổi. Còn ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, các TCTD đã bắt đầu phát
hành một số loại chứng khoán nợ ra công chúng như kỳ phiếu ngân hàng có
15


mục đích, trái phiếu TCTD, hay các chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn và dài hạn.
Mặc dù có tên gọi khác nhau, nhưng hầu như tất cả các chứng khoán kể trên
được phát hành bởi các TCTD trên thế giới đều có chung bản chất, đó là các
chứng khoán nợ trong đó phản ánh việc TCTD mắc nợ người sở hữu chứng
khoán một số tiền nhất định với nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi, vào một ngày
nhất định trong tương lai.
Thứ ba, quy trình thực hiện phát hành giấy tờ có giá còn phức tạp, gây
khó khăn cho các TCTD thực hiện huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn trung
và dài hạn. Có thể lấy ra những trường hợp trên thực tế của các TCTD để
minh chứng cho quy định của pháp luật về vấn đề này như sau:
Ngày 20/8/2009, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) thông
báo đã huy động thành công 2.000 tỷ đồng trái phiếu. Đây là đợt phát hành có

giá trị lớn nhất kể từ đầu năm của các ngân hàng thương mại, một sự bổ sung
cần thiết cho nguồn vốn trung và dài hạn, điều mà không phải ngân hàng nào
cũng có thể làm được. Ngày 20/8/2009, Ngân hàng Thương mại Cổ phần phát
triển nhà Tp.HCM (HDBank) quyết định tăng mạnh lãi suất của chứng chỉ
tiền gửi kỳ hạn 364 ngày; tăng 0,15%/năm đối với khách hàng cá nhân,
0,4%/năm đối với khách hàng doanh nghiệp. HDBank không phải là trường
hợp duy nhất trong những ngày qua có quyết định điều chỉnh như trên, thêm
hấp dẫn cho lãi suất để tăng cường khả năng gọi vốn. Trước đó, Ngân hàng
Liên Việt (LienVietBank) cũng có quyết định phát hành chứng chỉ tiền gửi
trung và dài hạn với lãi suất vượt trội so với các sản phẩm huy động thông
thường, cao nhất lên đến 10,05%/năm.
Như một giải pháp truyền thống, gọi vốn khó khăn, ngân hàng thêm lãi
suất để hấp dẫn. Nhưng hiện tại, lãi suất huy động ở hầu hết các kỳ hạn đã
tiến tới gần giới hạn, đặc biệt ở nhóm trung và dài hạn. Giải pháp này hiện
nay khó tiếp tục triển khai. Giải pháp và cũng là một thực tế mà Ngân hàng
Quân đội (MB) đề cập đến là các ngân hàng đang sử dụng huy động trái phiếu
như một kênh gọi vốn khá hiệu quả. Ngoài ra việc mở rộng thị phần và thị
trường kinh doanh, tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác chiến lược
cũng là một kênh thu hút nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng.
Về lý thuyết, như giải pháp mà VPBank đưa ra là phát hành giấy tờ có
giá trung và dài hạn gồm các loại trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi dài hạn.
Đây là kênh huy động ổn định và hiệu quả để tăng cường nguồn vốn trung dài
hạn cho ngân hàng. Nhưng trên thực tế, VPBank phân tích: “Liên quan đến
việc phát hành giấy tờ có giá trung và dài hạn, việc huy động với khối lượng
16


lớn qua kênh này sẽ gặp một số khó khăn. Quy trình phát hành giấy tờ có giá
dài hạn phức tạp hơn nhiều so với phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, đặc biệt
là phát hành trái phiếu”.

Bên cạnh hồ sơ xin phép Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng còn phải
tuân thủ quy trình thẩm định doanh nghiệp rất gắt gao của các tổ chức thẩm
định độc lập, thường do bên bảo lãnh phát hành chỉ định, đáp ứng những yêu
cầu khắt khe về tính minh bạch của số liệu khi công bố và chứng minh được
thế mạnh của ngân hàng trong việc chống đỡ trước những biến động rủi ro và
đạt hiệu quả hoạt động ấn tượng”.13
Như vậy, chúng ta thấy rõ mặc dù pháp luật đã cho phép các TCTD
được huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân thông qua hoạt động phát hành
giấy tờ có giá. Tuy nhiên, do quy trình thực hiện hoạt động này còn gặp một
số vướng mắc nên trên thực tế hoạt động này của các TCTD không mang lại
hiệu quả.

KẾT LUẬN
Huy động vốn là một trong những hoạt động hết sức đặc thù của
TCTD, có vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập khả năng cân đối vốn,
là điều kiện tăng trưởng hoạt động kinh doanh, góp phần nâng cao năng lực
tài chính của các TCTD. Nhận thức được điều đó các TCTD đã có những ứng
xử linh hoạt để có được nền vốn phục vụ cho hoạt động của mình. Huy động
vốn thông qua hoạt động phát hành giấy tờ có giá tuy là một hoạt động mới
mẻ nhưng cũng đóng một vai trò rất quan trọng giúp TCTD huy động được
nhiều nguồn vốn hơn từ xã hội. Trong những năm qua, tình hình huy động
vốn qua hoạt động này của các TCTD vừa có những thuận lợi và cả khó khăn.
Những khó khăn đó bên cạnh do năng lực của TCTD thì còn do các quy định
của pháp luật về vấn đề này còn những hạn chế nhất định. Qua bài viết trên
đây, chúng ta đã hiểu rõ hơn pháp luật quy định về hoạt động này ra sao? Hạn
chế của các quy định đó là gì? Trong những năm tới mong rằng chúng ta sẽ có
những sửa đổi nhất định để hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy
tờ có giá cũng chiếm tỷ lệ ngang bằng với hoạt động huy động vốn bằng nhận
tiền gửi. Có như vậy, hoạt động của các TCTD mới thực sự mạnh mẽ và có
khả năng giữ cân đối cho nền kinh tế, giúp nền kinh tế của chúng ta phát triển

hơn nữa.

13

Theo tin “Gọi vốn trung và dài hạn: giải pháp và thực tế” – webside: Vneconomy.vn

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Ngân hàng – Trường đại học Luật Hà Nội.
2. Pháp luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam – Luận
văn tốt nghiệp – Phan Thị Huyền Trang.
3. Luật các TCTD 2010.
4. Quyết định 07/2008/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của
TCTD.
5. Thông tư số 16/2009/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế ban hành kèm
theo quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN.
6. Bàn về giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD – TS.
Nguyễn Văn Tuyến – Tạp chí Ngân hàng số 09/2008.
7. Một số webside.

18



×