Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Phân tích mối quan hệ pháp lý giữa các bên chủ thể trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.52 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay, nhu cầu sử dụng các
tiện ích và dịch vụ của con người ngày càng mở rộng. Từ đó nhu cầu thanh toán
làm sao cho nhanh chóng, tiện lợi và an toàn nhất cũng đã phát sinh trong đời
sống. Xã hội ngày càng phát triển, quy trình công nghệ ngày càng được nâng
cao thì phương thức thanh toán cũng ngày càng hiện đại. Thanh toán không
dùng tiền mặt ra đời góp phần làm đa dạng hóa phương thức thanh toán trong
nền kinh tế. Chính vì thế, các chủ thể trong nền kinh tế có thêm cơ hội để lựa
chọn phương thức cho phù hợp với ngành và lĩnh vực kinh doanh của mình.
Khác với nền kinh tế giản đơn, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nảy sinh
nhiều mối quan hệ thanh toán lớn ở mức độ ngày càng tăng. Xuất phát từ nhu
cầu thực tế đó, các tổ chức tín dụng đã phát hành thêm nhiều hình thức thanh
toán như: thanh toán bằng Sec, thanh toán uỷ nhiệm chi, thanh toán uỷ nhiệm
thu, thanh toán bằng thư tín dụng, thanh toán bằng thẻ điện tử. Đây là những
hình thức thanh toán đã được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới hàng trăm
năm nay và tại Việt Nam nó cũng đã và đang phát huy những ưu điểm vượt trội
so với những hình thức thanh toán truyền thống. Trong đó hình thức thanh toán
thông qua thẻ ngân hàng đang từng bước được sử dụng rộng rãi phù hợp với
nhu cầu sử dụng của cá nhân, tổ chức. Trong phạm vi bài viết này chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu vấn đề thanh toán qua thẻ ngân hàng thông qua đề tài: “ Phân
tích mối quan hệ pháp lý giữa các bên chủ thể trong quan hệ thanh toán
thông qua thẻ ngân hàng”.

NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận về thẻ thanh toán.
1. Khái niệm, bản chất của thẻ thanh toán.

Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thẻ thanh toán, tùy thuộc
vào góc độ nhìn nhận của các nhà nghiên cứu và tất cả các định nghĩa đều


nhằm tới một mục đích là nêu bật được nội dung của thẻ thanh toán một cách
khái quát nhất. Tuy nhiên, nhìn chung tất cả các định nghĩa đều chỉ ra rằng thẻ
thanh toán là một phương tiện thanh toán nhưng các định nghĩa đó chưa thể nêu
bật được đầy đủ bản chất pháp lý của thẻ thanh toán.


Thẻ thanh toán không chỉ đơn thuần là một miếng plastic có kích thước
tiêu chuẩn dùng để thanh toán hàng hóa, dịch vụ mà thẻ thanh toán là loại
chứng chỉ đặc biệt thể hiện sự cam kết của tổ chức phát hành bảo đảm thanh
toán cho những khoản tiền do chủ sử dụng bằng tiền của tổ chức phát hành cho
chủ thẻ vay hoặc tiền của chính chủ thẻ đã gửi lại tổ chức phát hành. Việc thanh
toán thẻ thực chất là việc chủ thẻ ủy nhiệm cho tổ chức phát hành thực hiện các
nghĩa vụ thanh toán của mình bằng các bút toán ghi trên tài khoản của chủ thẻ
có tại tổ chức phát hành thông qua hệt hống thanh toán điện tử được kết nối
giữa các chủ thể tham gia dựa trên nền tảng công nghệ ngân hàng, tin học và
viễn thông. Vì vậy, thẻ thanh toán là một phương thức thanh toán điện tử không
dùng tiền mặt.
Về mục đích sử dụng của thẻ thanh toán cũng không còn bó hẹp trong
từng lĩnh vực cụ thể cũng như lúc mới hình thành. Với một tấm thẻ, khách hàng
có thể vừa dùng vừa để mua hàng, rút tiền mặt, chuyển khoản, xem sao kê toài
khoản của mình tại ngân hàng, giao dịch mua bán qua Internet, trả cước phí
dịch vụ công cộng. Chủ thẻ vừa có thể sử dụng bằng tiền gửi của mình tại ngân
hàng vừa có thể sử dụng tiền vay nếu được ngân hàng chấp nhận… Tóm lại,
mục đích sử dụng của thẻ thanh toán là nhằm thoản mãn nhu cầu tiêu dùng của
các chủ thể trên cơ sở đáp ứng về mặt công nghệ.
Như vậy, có thể định nghĩa về thẻ thanh toán như sau: Thẻ thanh toán là
một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng, các tổ chức tài
chính hay các công ty phát hành được người sở hữu thẻ sử dụng để thỏa mãn
nhu cầu tiêu dùng của mình, kể cả rút tiền mặt, thực hiện các dịch vụ tự động
do ngân hàng hoặc các tổ chức khác cung cấp thông qua hệ thống thanh toán

điện tử.
2. Phân loại thẻ thanh toán.
Có nhiều căn cứ để phân loại thẻ thanh toán và với mỗi căn cứ có thể chia
thẻ thanh toán thành các loại khác nhau. Cụ thể:
- Căn cứ vào công nghệ sản xuất và đặc tính kĩ thuật, người ta chia thẻ
thanh toán thành ba loại chính:
+ Thẻ khắc chữ nổi (Embossing Card): đây là loại thẻ được sản xuất trên
công nghệ khắc chữ nổi, các thông tin cơ bản được khắc nổi trên thẻ.
+ Thẻ từ (Magnetic Stripe): đây là loại thẻ được sản xuất dựa trên kĩ thuật
thư tín với một băng từ có hai hoặc ba dải ghi các thông tin cần thiết.
+ Thẻ thông minh – Thẻ Chip (Smart Card): đây là loại thẻ được sản xuất
dựa trên nền tảng kĩ thuật vi xử lý. Mặt trước của thẻ được gắng một chip điện
tử theo nguyên tắc xử lý như một máy tính nhỏ.

2


- Căn cứ vào tính chất thanh toán, người ta chia thẻ thanh toán thành 4
loại chính:
+ Thẻ ghi nợ (Debit Card): đây là loại thẻ được dùng để thanh toán, chi
trả hoặc rút tiền trên cơ sở số tiền của chính chủ thẻ gửi tại ngân hàng. Thẻ này
không tạo tín dụng và hoạt động theo nguyên tắc tương tự như thẻ ATM. Mỗi
lần sử dụng, ngân hàng sẽ tự động trừ ngay số tiền tương ứng trên tài khoản của
chủ thẻ. Thẻ ghi nợ có hai loại cơ bản:
• Thẻ online: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ
ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ.
• Thẻ offline: là loại thẻ mà giá trị những giao dịch được khấu trừ
vào tài khoản của chủ thẻ sau đó vài ngày.
+ Thẻ tín dụng (Credit Card): đây là loại thẻ được sử dụng rất phổ biến,
theo đó chủ thể sẽ được cấp một khoản tín dụng không phải trả lãi để mua hàng

hóa, dịch vụ tại những cơ sở chấp nhận loại thẻ này hoặc để rút tiền mặt tại
quầy giao dịch của ngân hàng.
+ Thẻ thanh toán trả sau (Change Card): loại thẻ này thường do các tổ
chức phi ngân hàng phát hành; là loại thẻ không quy định trước hạn mức chi
tiêu, cuối thánh khách hàng sẽ phải thanh toán theo bảng thống kê thông báo tài
khoản.
+ Thẻ rút tiền mặt (Cash Card): đây là loại thẻ dùng để rút tiền mặt tại
các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc ở ngân hàng.
- Dựa vào chủ thể phát hành thẻ, người ta chia thẻ thành hai loại chính:
+ Thẻ do ngân hàng phát hành (Bank Card): đây là loại thẻ do các ngân
hàng phát hành giúp cho khách hàng sử dụng linh động các tài khoản của mình
tại ngân hàng hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng.
+ Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành (Non- Bank Card): đây là
loại thẻ du lịch và giải trí do các tập đoàn kinh doanh lớn hoặc các công ty xăng
dầu… phát hành như: Dinner Club, Amex…
- Dựa vào chủ thẻ người ta chia thành hai loại:
+ Thẻ của tổ chức (công ty): là thẻ do một tổ chức yêu cầu ngân hàng
phát hành.
+ Thẻ cá nhân: đây là loại thẻ do một cá nhân có nhu cầu và đủ điều kiện
trực tiếp đúng ra yêu cầu ngân hàng phát hành thẻ cho mình
- Dựa vào phạm vi lãnh thổ sử dụng người ta chia thẻ thành hai loại chính
là: thẻ nội địa và thẻ quố tế.

3


+ Thẻ nội địa: là thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quôc sgia,
chủ yêu do mục đích tiêu dùng. Đồng tiền được sử dụng của loại thẻ này là
đồng bản tệ của quốc gia đó.
+ Thẻ quốc tế: là loại thẻ do tổ chức thẻ quốc tế hoặc thành viên của tổ

chức này phát hành. Loại thẻ này có tính chất toàn cầu, tức là có thể thanh toán
ở bất cứ nước nào chấp nhận loại thẻ đó.
Ngoài ra, dựa vào mức độ tín nhiệm của chủ thẻ và trị giá sử dụng của
thẻ, người ta chia thẻ thành ba loại chính: thẻ thường, thẻ vàng và thẻ thượng
hạng.
3. Vai trò của thẻ thanh toán trong nền kinh tế:
Thẻ thanh toán có những vai trò rất quan trọng, cụ thể:
Thứ nhất, thẻ thanh toán giúp Nhà nước quản lý nền kinh tế và thực hiện
chỉ đạo thực hiện kinh tế tốt hơn, giúp giảm chi xã hội cho nền kinh tế.
Thứ hai, thẻ thanh toán tạo điều kiện thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ
an toàn, chính xác, hiệu quả… giúp giảm thiểu thời gian, chi phí để đạt hiệu quả
cao trong thanh toán. Ngoài ra, bộ nhớ cài đặt trên thẻ ghi laijchinhs xác từng
giao dịch, cuối lì chủ thẻ có thể nhận được báo cáo giao dịch qua thẻ. Do đó chủ
thẻ có thể quản lý chi tiêu của mình.
Thứ ba, thẻ thanh toán tạo cho các giao dịch tính an toàn và bảo mật rất
cao. Chỉ với một thẻ thanh toán, người tiêu dùng có thể thanh toán, người tiêu
dùng có thể thanh toán một khối lượng lướn hàng hóa, dịch vụ mà không phải
mang theo tiền mặt.
Thư tư, thẻ thanh toán tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của
ngân hàng. Để thực hiện việc thanh toán, khách hàng phải tiến hành mở tài
khoản tiền giử tại ngân hàng. Như vậy ở tài khoản tiền gửi khách hàng luôn
phải duy trì một khoản tiền nhất định, số tiền này sẽ trở thành nguồn vốn nhàn
rỗi, ngân hàng có thế sử dụng số tiền này để kinh doanh sau khi đã duy trì một tỉ
lệ dự trữ bắt buộc đủ chi trả cho các chủ tài khoản trong mọi trường hợp.
Thanh toán thẻ vừa tạo nguồn thu từ phí thanh toán cho ngân hàng, vừa
góp phần làm cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng khi thực hiện việc
cấp tín dụng cho khách hàng. Ngoài ra, thẻ thanh toán có tác dụng tích cực ,
kích thích các hoạt động dịch vụ ngân hàng liên quan phát triển.
4. Khái quát pháp luật về thẻ ngân hàng.
Pháp luật về thẻ ngân hàng được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật

quy định các vấn đề phát sinh trong quá trình phát hành, sử dụng và thanh toán
thẻ ngân hàng giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động thẻ. 1
1

Quy chế pháp lý về thẻ ngân hàng – Khóa luận tốt nghiệp – Đỗ Thị Thùy Dương.

4


Pháp luật Việt Nam nhìn chung chưa có các quy định cụ thể về hoạt động
thanh toán qua thẻ ngân hàng. Chủ yếu chỉ quy định trên các phương diện cơ
bản, các quy định mang tính chất chung chung định hướng chứ chưa đi vào chi
tiết. Văn bản mới nhất hiện nay điều chỉnh về vấn đề thanh toán thông qua thẻ
ngân hàng đó là: Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 5 năm 2007
ban hành quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung ứng các dịch vụ hỗ trợ
hoạt động thẻ ngân hàng (Sau đây gọi tắt là Quy chế). Với sự ra đời của quy chế
này, vấn đề quan hệ giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân
hàng đã được xác định một cách rõ ràng hơn thông qua việc xác định quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Vấn đề thanh toán thẻ được quy định tại chương IV của quy chế, cụ thể
bao gồm các nội dung như sau:
Về điều kiện thanh toán thẻ: Được quy định tại điều 14 của quy chế:
“1. Các tổ chức sau đây được thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ:
a) Tổ chức tín dụng là ngân hàng bảo đảm thực hiện đầy đủ các điều
kiện theo quy định tại Khoản 2 Điều này;
b) Tổ chức khác không phải là ngân hàng được phép thực hiện dịch vụ
thanh toán trong đó bao gồm thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ và bảo đảm thực
hiện đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Khoản 2 Điều này.
2. Tổ chức thanh toán thẻ phải tuân thủ các điều kiện sau:
a) Việc thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ phù hợp với phạm vi và mục tiêu

hoạt động của tổ chức đó;
b) Tuân thủ các quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động
theo quy định của pháp luật;
c) Bảo đảm các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng
điện tử đối với việc thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ;
d) Tuân thủ các quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về kiểm
tra, kiểm soát nội bộ đối với việc thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ;
đ) Báo cáo và cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin và văn bản có
liên quan nhằm chứng minh các điều kiện bảo đảm thực hiện dịch vụ thanh
toán thẻ; báo cáo đầy đủ và chính xác các thông tin thống kê phục vụ cho mục
tiêu quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước;
e) Tuân thủ các quy định khác tại Quy chế này.
3. Ngân hàng Nhà nước đánh giá sự tuân thủ quy định tại Khoản 2 Điều
này đối với tổ chức thanh toán thẻ trong quá trình thực hiện dịch vụ thanh toán
thẻ. Trường hợp tổ chức thanh toán thẻ không tuân thủ các quy định nói trên, tổ
chức đó phải thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục theo yêu cầu của
5


Ngân hàng Nhà nước. Nếu không thể khắc phục, tổ chức đó buộc phải ngừng
hoạt động thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ”.2
Điều 15 quy định cụ thể về việc tổ chức thanh toán thẻ như sau:
“.1. Việc tổ chức thanh toán thẻ được thực hiện theo hợp đồng thanh
toán thẻ.
2. Việc thực hiện thanh toán bù trừ giao dịch thẻ thực hiện theo thoả
thuận về việc tổ chức thanh toán giữa các bên liên quan.
3. Đối với thẻ quốc tế: việc tổ chức thanh toán thẻ được thực hiện theo
thoả thuận với tổ chức thẻ quốc tế mà TCTTT tham gia và không trái pháp luật
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Ngoài ra, còn quy định về các vấn đề khác liên quan đến thanh toán thẻ

như: việc từ chối thanh toán thẻ (điều 16); quy định về vấn đề tổ chức hệ thống
thanh toán thẻ (chương V); quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ liên
quan đến thẻ ngân hàng được quy định tại chương VI của quy chế.
Quy chế này đã có sự phát triển nhiều hơn so với các quy định trước đây.
Quy chế này quy định chi tiết và rõ ràng hơn, đối tượng điều chỉnh rộng hơn,
các quy định về trách nhiệm của các bên tham gia cũng chặt chẽ hơn so với các
văn bản trước đây. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đã ban hành Luật Các tổ chức
tín dụng vào ngày 16 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1
năm 2011. Vì vậy, quy chế trên đây cũng cần được sớm thay thế để có sự thống
nhất trong hệ thống pháp luật.
II. Mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia quan hệ thanh toán thông qua
thẻ ngân hàng.
1. Các chủ thể tham gia quan hệ này.
Các chủ thể tham gia quan hệ thanh toán thẻ hết sức đa dạng, bao gồm
chủ thẻ, ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, đơn vị chấp nhận
thẻ, tổ chức thẻ quốc tế và trung tâm chuyển mạch.
Chủ thẻ: là cá nhân hoặc tổ chức được ngân hàng phát hành thẻ để sử
dụng. Chủ thẻ bao gồm chủ thẻ chính và chủ thẻ phụ. Chủ thẻ chính là người
đứng tên đề nghị ngân hàng phát hành thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán, xử lý
các vấn đề liên quan đến thẻ. Chủ thẻ phụ là người được cấp thẻ theo yêu cầu
của chủ thẻ chính.
Ngân hàng phát hành thẻ (NHPHT): Là tổ chức được ngân hàng nhà
nước hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép thực hiện hoạt động phát hành thẻ,
cấp thẻ cho các chủ thẻ sử dụng, chịu trách nhiệm thanh toán và cung cấp các

2

Điều 14 – Quy chế.

6



dịch vụ liên quan đến thẻ đó. Khi phát hành thẻ quốc tế ngân hàng còn phải
được sự động ý của tổ chức thẻ đó.
Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): Là đơn vị, tổ chức, cá nhân chấp nhận
việc thanh toán tiền hàng hóa, phí dịch vụ bằng thẻ theo hợp đồng ký kết với
NHPHT hoặc NHTTT. ĐVCNT có thể được trang bị các máy IDC, CAT hoặc
máy cà hóa đơn để thực hiện việc xin cấp phép hoặc thanh toán.
Ngân hàng thanh toán thẻ (NHTTT): Là ngân hàng được NHPHT ủy
quyền thực hiện thanh toán theo hợp đồng hoặc là thành viên chính thức hoặc là
thành viên liên kết của một tổ chức thẻ quốc tế thực hiện dịch vụ thanh toán
theo thỏa ước ký kết với tổ chức đó. NHTTT sẽ trực tiếp ký các hợp đồng với
các ĐVCNT để tiếp nhận và xử lý các giao dịch tại các ĐVCNT, cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ, hướng dẫn các ĐVCNT nghiệp vụ để thực hiện xử lý, truyền tải
thông tin cần thiết trong quá trình giao dịch. NHTTT có thể đồng thời là
NHPHT.
Tổ chức thẻ quốc tế: Là một ngân hàng, một chế định tài chính hay một
tổ chức phi tài chính gắn với một thương hiệu thẻ (ví dụ như: Visa international,
Mastercard international…) trên cơ sở các thương hiệu thẻ đã có, các tổ chức
này ủy quyền cho các ngân hàng đại lý hoặc tự mình phát hành thẻ.
Trung tâm chuyển mạch (Switching Center): là một đầu mối kết nối hệ
thống thanh toán giữa các hệ thống NHPHT, các tổ chức thanh toán thẻ khác
nhau để các NHTTT đó có thể thực hiện trao đổi giao dịch với nhau mặc dù mỗi
hệ thống có những đặc thù riêng. Trung tâm chuyển mạch được hình thành
nhằm mục tiêu kết nối các ĐVCNT, NHTTT, NHPHT, tổ chức thẻ quốc tế
thành một mạng lưới rộng khắp, giúp cho chủ thẻ có thể sử dụng thẻ ở phạm vi
rộng lớn hơn mà không bị bó hẹp trong phạm vi ĐVCNT thuộc hệ thống thẻ
của mình. Mặt khác trung tâm chuyển mạch còn giúp cho các NHPHT tiết kiệm
chi phí đáng kể cho việc đầu tư mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ do việc tận
dụng được đầu tư của các NHPHT khác. điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với

lĩnh vực thẻ ATM.
2. Quy trình thực hiện thanh toán thông qua thẻ ngân hàng.
- Chủ thẻ xuất trình thẻ thanh toán tại ĐVCNT để thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ.
- ĐVCNT kiểm tra thẻ, nếu thẻ đủ điều kiện thanh toán thì lập hoá đơn thanh
toán thông qua thiết bị đọc thẻ được trang bị. Kiểm tra kỹ chữ ký, giao hóa đơn
cùng với tiền và trả lại thẻ cho khách hàng.
- ĐVCNT nộp hoá đơn thanh toán thẻ hoặc truyền thông tin giao dịch thanh
toán thẻ về NHTTT để được tạm ứng thanh toán số tiền trên các hoá đơn giao
dịch.
7


- NHTTT sau khi kiểm tra tính hợp lệ trên hoá đơn, hoặc tiếp nhận thông tin
do ĐVCNT truyền về sẽ làm thủ tục tạm ứng thanh toán cho đơn vị chấp nhận
thẻ.
- NHTTT truyền thông tin các giao dịch đã tạm ứng cho ĐVCNT về
NHPHT.
- NHPHT sau khi tiếp nhận thông tin giao dịch của các chủ thẻ từ NHTTT sẽ
thực hiện thanh toán cho NHTTT.
- NHPHT thông báo về các giao dịch thẻ phát sinh cho chủ thẻ vào ngày quy
định và đề nghị chủ thẻ thanh toán lại số tiền họ đã tiêu dùng bằng thẻ.
- Chủ thẻ thanh toán số tiền giao dịch phát sinh cho NHPHT.
- Đối với việc thanh toán thẻ quốc tế thì ngân hàng phát hành thẻ sẽ thực
hiện thanh toán thông qua hệ thống thanh toán của tổ chức thẻ quốc tế.
- Còn trong trường hợp liên kết thẻ, việc thanh toán còn phải qua một khâu
trung gian là hệ thống chuyển mạch thông tin của các Trung tâm chuyển mạch.
Như vậy, chúng ta có thể thấy các quan hệ phát sinh chủ yếu trong quá
trình thanh toán thẻ bao gồm:
(1) Quan hệ giữa chủ thẻ với NHPHT.

(2) Quan hệ giữa chủ thẻ với ĐVCNT.
(3) Quan hệ giữa ĐVCNT với NHTTT.
(4) Quan hệ giữa Trung tâm chuyển mạch với NHPHT, ĐVCNT,
NHTTT, tổ chức thẻ quốc tế.
(5) Quan hệ giữa NHTTT với NHPHT.
(6) Quan hệ giữa tổ chức thẻ quốc tế với NHPHT, NHTTT, ĐVCNT.
Các mối quan hệ trên chủ yếu là quan hệ trao đổi thông tin và thanh toán.
Quá trình thông tin và thanh toán giữa NHPHT, NHTTT, tổ chức thẻ quốc tế
hoàn toàn được thực hiện qua hệ thống kết nối online. Còn việc thông tin và
thanh toán giữa NHPHT, NHTTT và các ĐVCNT có thể được thực hiện thông
qua hai chế độ online hoặc offline (chỉ để kiểm tra tính xác thực của thẻ qua
việc định dạng mã số bằng máy cà tay). Với việc ứng dụng các thành tựu khoa
học kĩ thuật công nghệ, tốc độ thanh toán thẻ được coi là đứng đầu trong số các
dịch vụ thanh toán điện tử. Quá trình thanh toán khép kín trong mạng lưới đem
lại độ an toàn cao cho tất cả các bên tham gia trong hoạt động thanh toán thẻ.
3. Mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ
ngân hàng.
3.1. Quan hệ giữa chủ thẻ và NHPHT.

8


Mặc dù, dịch vụ thanh toán thẻ mới chỉ ở giai đoạn đầu của quá trình phát
triển, nhưng các ngân hàng thương mại đã phải giải quyết nhiều đơn thư khiếu
nại của các chủ thẻ, thậm chí đã phải tham gia tố tụng tại Tòa án theo đơn khởi
kiện của chủ thẻ. Điển hình là vụ chị Trần Thị Thanh Thủy kiện Ngân hàng
thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) tại Tòa án Nhân dân
quận Hoàn Kiếm, TP. Hà Nội (xử sơ thẩm) để đòi bồi thường số tiền trên tài
khoản của chị bị mất 30 triệu đồng năm 2005. Từ vụ án này và nhiều vụ khiếu
nại khác về thẻ, một số chủ thẻ cho rằng quan hệ giữa ngân hàng phát hành thẻ

với chủ thẻ là quan hệ gửi giữ tài sản (quan hệ pháp luật dân sự). Cho nên, quan
hệ gửi giữ tài sản này phải chịu sự điều chỉnh của các quy định về hợp đồng dân
sự trong Bộ luật Dân sự. Bằng chứng cho sự tồn tại quan hệ gửi giữ tài sản giữa
ngân hàng với chủ thẻ là chiếc thẻ thanh toán và tài khoản mang tên chủ thẻ tại
ngân hàng. Do đó, số tiền trên tài khoản là tài sản mà chủ thẻ gửi giữ tại ngân
hàng. Chính vì vậy, nếu làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ đó (trừ trường
hợp bất khả kháng), thì ngân hàng giữ tài sản phải bồi thường thiệt hại cho
người gửi tài sản.
Căn cứ quy định của Bộ luật Dân sự “Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự
thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản
và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết hạn hợp đồng, còn bên gửi phải
trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công”
(Điều 559 Bộ luật Dân sự năm 2005), việc một số chủ thẻ cho rằng quan hệ
giữa chủ thẻ với ngân hàng phát hành thẻ là quan hệ gửi giữ tài sản là chưa đủ
cơ sở và chưa phù hợp với quy định của pháp luật vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, người giữ tài sản là pháp nhân và thực hiện dịch vụ này nhằm
mục đích sinh lợi (ngân hàng), trong khi một bên là cá nhân gửi tài sản hầu như
không có mục đích kinh doanh (chủ thẻ). Nếu cá nhân gửi tiền tại ngân hàng
với mục đích kinh doanh, thì cá nhân đó lựa chọn các hình thức đầu tư khác với
lãi suất cao hơn để đầu tư. Các hình thức đầu tư này có thể là: gửi tiết kiệm có
kỳ hạn, mua kỳ phiếu, trái phiếu ... Mục đích chính của cá nhân mở tài khoản tại
ngân hàng và chuyển tiền vào tài khoản đó không phải hưởng lãi theo lãi suất
không kỳ hạn do ngân hàng quy định mà là để cất giữ tài sản hoặc để thuận tiện
hơn cho việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ.
Thứ hai, hiện nay, không còn văn bản pháp luật nào định nghĩa tài sản mà
chỉ có quy định mang tính liệt kê “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và
các quyền tài sản” (Điều 163 của Bộ luật Dân sự năm 2005). Cho nên, tiền trên
tài khoản của chủ thẻ là tài sản mà chủ thẻ gửi tại ngân hàng. Tuy nhiên, số tiền
gửi giữ này khác với tài sản gửi giữ được nêu trong hợp đồng gửi giữ tài sản
theo quy định trong Bộ luật Dân sự. Trong quan hệ giữa chủ thẻ với NHPHT,

bên giữ tài sản (ngân hàng) có trách nhiệm bảo quản tài sản cho người gửi tài
9


sản (chủ thẻ) nhưng không có nghĩa vụ trả lại chính tài sản đó cho bên gửi tài
sản khi hết thời hạn hợp đồng. Trường hợp chủ thẻ phải trả lại chính số tiền mà
người gửi đã nộp, thì chủ thẻ không được sử dụng thẻ để rút tiền mặt hoặc thanh
toán hàng hoá, dịch vụ trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng gửi giữ tài
sản. Hơn nữa, hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ giữa ngân hàng với chủ thẻ là
loại hợp đồng dân sự không xác định thời hạn và bên gửi tài sản không phải trả
tiền công cho bên giữ. Chẳng hạn như, khi mở tài khoản thẻ ATM, chủ thẻ nộp
cho ngân hàng mười triệu đồng, trong đó có 5 triệu đồng loại tiền 500.000 đồng,
3 triệu đồng loại tiền 100.000 đồng và 2 triệu đồng loại tiền 50.000 đồng với số
seri xác định. Số tiền này sẽ được ngân hàng đưa vào lưu thông và không còn là
tài sản thuộc sở hữu của chủ thẻ ngay sau khi nộp. Do đó, khi sử dụng thẻ ngân
hàng để rút tiền mặt hoặc thực hiện các hình thức thanh toán hàng hoá, dịch vụ,
thì chủ thẻ không thể nhận lại số tiền mà mình đã nộp vào tài khoản tại ngân
hàng mặt khác chủ thẻ cũng không có quyền yêu cầu ngân hàng thanh toán hàng
hoá, dịch vụ bằng chính số tiền đã mà mình đã nộp đó.
Thứ ba, theo quy định của Bộ luật Dân sự, trong quan hệ gửi giữ tài sản,
bên gửi tài sản có nghĩa vụ giao tài sản cho bên giữ tài sản và thông báo ngay
cho người giữ tài sản biết tình trạng tài sản, biện pháp bảo quản thích hợp đối
với tài sản gửi giữ. Đối chiếu những quy định đó với quan hệ phát hành và sử
dụng thẻ ngân hàng giữa NHPHT với chủ thẻ, số tiền trên tài khoản của chủ thẻ
không nhất thiết là tiền do chủ thẻ trực tiếp nộp tại ngân hàng mà có thể là tiền
từ bên thứ ba chuyển đến thông qua hệ thống tài khoản của ngân hàng. Trong
đó, bên thứ ba có thể là người sử dụng lao động trả lương cho người lao động,
cũng có thể là người mua hàng hoá, dịch vụ thanh toán hàng hoá, dịch vụ cho
bên bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đó,...
Từ những lý do trên đây, chúng tôi cho rằng quan hệ giữa chủ thẻ với

ngân hàng phát hành thẻ chỉ là quan hệ dân sự thông thường chứ không thuộc
một trong những hợp đồng dân sự thông dụng được quy định trong Bộ luật Dân
sự như hợp đồng gửi giữ tài sản mà một số chủ thẻ đã nói ở trên. Do đó, những
quy định chung về hợp đồng dân sự trong Bộ luật Dân sự được áp dụng đối với
quan hệ phát hành và sử dụng thẻ giữa chủ thẻ với ngân hàng phát hành thẻ.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa chủ thẻ với ngân hàng phát hành thẻ còn chịu sự
điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành (như Quy chế phát hành, thanh toán, sử
dụng và cung ứng các dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng ban hành kèm
theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước).
3.2. Trong quan hệ giữa chủ thẻ với ĐVCNT.
Khi một chủ thẻ nào đó sử dụng thẻ để thực hiện thanh toán tại các
ĐVCNT thì giữa họ đã hình thành một quan hệ thanh toán thông qua thẻ ngân
10


hàng. Mối quan hệ giữa họ được thể hiện qua việc hai bên thực hiện các quyền
và nghĩa vụ như sau:
Quyền của chủ thẻ: có quyền sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ mà không bị phân biệt giá so với trường hợp thanh toán bằng tiền mặt;
không phải trả thêm tiền hoặc phụ phí cho ĐVCNT. 3
Và tương ứng với quyền đó của chủ thẻ thì ĐVCNT cũng sẽ có những
quyền và nghĩa vụ sau:
ĐVCNT có quyền thu giữ thẻ của chủ thẻ trong bốn trường hợp sau: Thẻ
giả; Người sử dụng thẻ không chứng minh được mình là chủ thẻ; Chủ thẻ không
thực hiện đúng các quy định của NHPHT (hoặc của tổ chức thẻ quốc tế mà thẻ
đó mang nhãn hiệu thương mại) về việc sử dụng thẻ hoặc thu thẻ theo yêu cầu
của NHPHT (hoặc tổ chức thẻ quốc tế mà thẻ đó mang nhãn hiệu thương mại).4
Bên cạnh quyền đó thì với chủ thẻ, ĐVCNT cũng phải tuân thủ chấp
hành nghĩa vụ của mình. Bao gồm các nghĩa vụ sau:

- Chấp nhận thẻ trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ mà không được tăng
giá hoặc áp dụng phân biệt giá cả hoặc yêu cầu chủ thẻ trả thêm phụ phí đối với
các giao dịch thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ bằng thẻ so với thanh toán bằng
tiền mặt. Trường hợp ĐVCNT vi phạm yêu cầu này, ĐVCNT không được phép
ký kết hợp đồng thanh toán thẻ với bất kỳ NHTTT nào trong thời hạn một năm;
trường hợp ĐVCNT đó tái phạm thì thời hạn không được phép ký kết hợp đồng
có thể từ ba đến năm năm. 5
- Thực hiện đầy đủ các quy trình kỹ thuật nghiệp vụ liên quan đến các giao
dịch thẻ của chủ thẻ được NHTTT hướng dẫn; Phải chịu trách nhiệm về các
thiệt hại nếu ĐVCNT không thực hiện đúng các yêu cầu của NHTTT. 6
- Từ chối chấp nhận thẻ theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 Quy chế này.
Bao gồm các trường hợp liên quan đến việc sử dụng thẻ của chủ thẻ như: Thẻ
giả hoặc có liên quan đến giao dịch giả mạo; Thẻ đã được chủ thẻ thông báo bị
mất; Chủ thẻ không thanh toán đầy đủ các khoản thấu chi, các khoản tín dụng,
lãi hoặc phí theo quy định của NHPHT; Chủ thẻ vi phạm quy định của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, các quy định của NHPHT, NHTTT hoặc các thoả
thuận giữa chủ thẻ với NHPHT.7
3.3 Trong quan hệ giữa ĐVCNT với NHTTT.
*) Trong quan hệ thanh toán này, ĐVCNT có quyền và nghĩa vụ với
NHTTT như sau:
3

Khoản 1 Điều 21 – Quy chế.
Điều 31 – Quy chế.
5
Khoản 1 điều 26 – Quy chế.
6
Điều 26 – Quy chế.
7
Khoản 1 điều 16 – Quy chế.

4

11


ĐVCNT có quyền: được NHTTT thanh toán đầy đủ, kịp thời các giao
dịch thẻ được thực hiện đúng hợp đồng; các quyền khác theo hợp đồng thanh
toán thẻ và hợp đồng cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ. 8
ĐVCNT có nghĩa vụ: Thực hiện đầy đủ các quy trình kỹ thuật nghiệp vụ
liên quan đến các giao dịch thẻ của chủ thẻ được NHTTT hướng dẫn; Phải chịu
trách nhiệm về các thiệt hại nếu ĐVCNT không thực hiện đúng các yêu cầu của
NHTTT; các nghĩa vụ khác theo hợp đồng thanh toán thẻ, hợp đồng cung cấp
dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ.9
*) Quyền và nghĩa vụ của NHTTT trong mối quan hệ với ĐVCNT được
xác định qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ sau:
NHTTT có quyền: Được ĐVCNT hoàn trả tiền đối với các giao dịch thẻ
thực hiện không đúng hợp đồng thanh toán thẻ; Được cung cấp các thông tin
cần thiết liên quan đến các giao dịch thẻ của chủ thẻ tại ĐVCNT; Được hưởng
phí dịch vụ thẻ theo thoả thuận giữa các bên. 10
NHTTT có nghĩa vụ:
- Yêu cầu ĐVCNT không được phân biệt giá trong thanh toán thẻ. Trường
hợp ĐVCNT không tuân thủ yêu cầu này, NHTTT chấm dứt hợp đồng và yêu
cầu ĐVCNT bồi thường thiệt hại hoặc áp dụng các biện pháp thích hợp khác
theo các điều khoản cam kết giữa các bên. Các NHTTT không được phép ký kết
hợp đồng thanh toán thẻ với bất kỳ ĐVCNT nào đã vi phạm quy định quy định
này trong thời hạn một năm; trường hợp ĐVCNT đó tái phạm thì thời hạn
không được phép ký kết hợp đồng có thể từ ba đến năm năm; NHTTT nếu đã
biết mà không tuân thủ cũng được xem là vi phạm điều kiện đối với việc thực
hiện dịch vụ thanh toán thẻ quy định tại Điều 14 Quy chế này. 11
- Hướng dẫn các biện pháp, quy trình kỹ thuật nghiệp vụ và bảo mật trong

thanh toán thẻ đối với ĐVCNT. NHTTT phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại
gây ra do mình không thực hiện đúng quy định này; 12
3.4 Quan hệ giữa NHTTT với NHPHT.
*) Quyền và nghĩa vụ của NHTTT:
NHTTT có những quyền sau với NHPHT: Được NHPHT thanh toán đầy
đủ, kịp thời đối với các giao dịch thẻ được thực hiện theo thoả thuận giữa hai
bên; Được hưởng phí dịch vụ thẻ theo thoả thuận giữa các bên.

8

Điều 25 – Quy chế.
Điều 26 – Quy chế.
10
Điều 23 – Quy chế.
119
Điểm a khoản 1 và khoản 2 điều 24 – Quy chế.
1210
Điểm b khoản 1 điều 24 – Quy chế.
11
Điểm c điều 24- Quy chế
9

12


NHTTT có những nghĩa vụ phải thực hiện với NHPHT như sau: Thực
hiện yêu cầu tra soát mà NHTTT đưa ra trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ
ngày nhận được yêu cầu từ NHTTT. Nếu NHTTT không đáp ứng hoặc đáp ứng
không đúng thời hạn quy định thì kể từ ngày hết hạn trả lời NHTTT phải hoàn
toàn chịu mọi chi phí phát sinh liên quan đến giao dịch thẻ được yêu cầu tra

soát đó;
*) Quyền và nghĩa vụ của NHPHT:
Quyền của NHPHT với NHTTT: Yêu cầu NHTTT cung cấp các thông tin
cần thiết liên quan đến giao dịch thẻ của chủ thẻ tại NHTTT và tại ĐVCNT có
liên quan; Tăng hoặc giảm hạn mức thấu chi, hạn mức tín dụng; Quyết định thu
hồi số tiền ngân hang thanh toán thẻ cho chủ thẻ vay. 11
Nghĩa vụ của NHPHT với NHTTT: Thanh toán đầy đủ, kịp thời các
nghĩa vụ phát sinh đối với các giao dịch thẻ theo thoả thuận giữa các bên liên
quan; Yêu cầu NHTTT, nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ thực
hiện các biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động thẻ.
3.5 Quan hệ giữa trung tâm chuyển mạch với NHPHT, ĐVCNT, NHTTT,
tổ chức thẻ quốc tế.
Trung tâm chuyển mạch đóng vai trò là đầu mối kết nối giữa các tổ chức
trên khi có hoạt động thanh toán được thực hiện liên kết giữa các tổ chức đó với
nhau. Trung tâm chuyển mạch chính là nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động
thẻ. Tại điều 27 của Quy chế có quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà cung
cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ như sau: “Các quyền và nghĩa vụ của nhà
cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ về việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt
động thẻ cho NHPHT, NHTTT, ĐVCNT, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
bù trừ giao dịch thẻ hoặc tổ chức chuyển mạch thẻ thực hiện theo hợp đồng
dịch vụ giữa các bên liên quan”. Do đó, quyền và nghĩa vụ giữa trung tâm và
các tổ chức trên theo quy định của Quy chế sẽ được thực hiện theo hợp đồng
dịch vụ giữa các bên mà pháp luật không có sự điều chỉnh nhiều.
3.6 Quan hệ giữa tổ chức thẻ quốc tế với NHPHT, NHTTT, ĐVCNT.
Quan hệ này chỉ phát sinh khi NHPHT là thành viên của tổ chức thẻ quốc
tế đó. Tổchức thẻ quốc tế đưa ra những quy định cơ bản về hoạt động
phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai trò trung gian giữa các
tổ chức và các công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân đối các
lượng tiền thanh toán giữa các công ty thành viên.
III.


Thực trạng của hoạt động thanh toán thông qua thẻ ngân hàng.

1. Những ưu điểm khi sử dụng thẻ ngân hàng

13


Có thể nói thẻ ngân hàng là một công cụ thanh toán quan trọng để khuyến
khích mọi cá nhân, tổ chức thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt theo chủ
trương của Đảng và Nhà nước; đồng thời, việc thanh toán bằng thẻ ngân hàng
lại rất nhiều tiện ích cho chủ thẻ, như: tiết kiệm được thời gian, chi phí và bảo
đảm an toàn cho chủ thẻ thực hiện thanh toán các giao dịch mà không phải
mang theo một lượng lớn tiền mặt,… Chính vì những tiện ích nói trên của thẻ
ngân hàng, cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội trong quá
trình hội nhập quốc tế mà trên thế giới ngày càng có nhiều người sử dụng thẻ
ngân hàng để thực hiện các giao dịch kinh doanh thương mại và giao dịch dân
sự trong cuộc sống hằng ngày.
Tại Việt Nam, dịch vụ thanh toán thẻ mới được sử dụng làm công cụ
thanh toán trong khoảng 15 năm trở lại đây; trong khi ở các nước phát triển trên
thế giới, công cụ thanh toán này đã được sử dụng hàng trăm năm qua. Cho nên,
dịch vụ thanh toán thẻ chưa phải là dịch vụ phổ biến, truyền thống và mang lại
lợi nhuận lớn cho các ngân hàng thương mại trong nước như hoạt động tín
dụng. Mặt khác, phần lớn người dân nước ta chưa biết và nhận thức được đầy
đủ những tiện ích của thẻ ngân hàng trong thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Do
vậy, hơn 15 năm làm dịch vụ phát hành, thanh toán thẻ, số người sử dụng thẻ
ngân hàng để thanh toán vẫn rất khiêm tốn so với một đất nước có 86 triệu dân.
2. Những rủi ro khi sử dụng thẻ ngân hàng để thanh toán.
Thứ nhất, việc bồi hoàn tổn thất đối với các giao dịch đã được thực hiện
không đúng với các quy định của tổ chức thẻ quốc tế: Rủi ro loại này có thể xảy

ra với bất cứ chủ thể nào khi không thực hiện đúng các quy định của tổ chức thẻ
do các chủ thể liên quan khác đòi bồi hoàn tổn thất gây nên cho họ và kể cả các
khiếu nại do bên liên quan phát hiện ra và lợi dụng để từ chối nghĩa vụ của
mình.
Thứ hai, rủi ro do sử dụng cấp phép uỷ quyền: Chế độ cấp phép uỷ quyền
được thực hiện bởi trung tâm cấp phép của tổ chức thẻ quốc tế. Theo nguyên tắc
cấp phép này, NHPHT đăng ký hạn mức cho từng loại giao dịch, trên cơ sở đó
trung tâm cấp phép sẽ cấp phép khi phát sinh những trường hợp như trình bày
trên mà không cần biết đến hạn mức của thẻ. Do vậy, với cách cấp phép như
trên rất dễ xảy ra tình trạng chủ thẻ tiêu vượt hạn mức dẫn đến mất khả năng
thanh toán.
Thứ ba, rủi ro do thanh toán các giao dịch bằng thư (Mail order), bằng
điện (Telegrame order) hoặc thương mại điện tử (e-commerce) giả mạo: Trường
hợp này khách hàng lấy thông tin của thẻ thật của một người khác để đặt mua
hàng hoá hay dịch vụ tại các ĐVCNT. Khi ngân hàng yêu cầu thanh toán sao kê
thì bị chủ thẻ từ chối thanh toán do thực chất chủ thẻ không sử dụng thẻ để mua
hàng hoá hay dịch vụ.
14


Thứ tư, rủi ro phát sinh do nhân viên ĐVCNT cố tình in nhiều hóa đơn từ
một giao dịch thanh toán: Đây là trường hợp khi thực hiện một giao dịch, nhân
viên ĐVCNT cố tình in ra nhiều bộ hoá đơn thanh toán nhưng chỉ giao một bộ
cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó nhân viên ĐVCNT giả mạo chữ
ký của chủ thẻ nộp cho ngân hàng để thanh toán tiền.
Thứ năm, rủi ro phát sinh trong trường hợp ĐVCNT vô tình hoặc cố ý
chấp nhận thẻ giả mạo, thẻ hết hiệu lực, thẻ mất cắp, thất lạc hoặc trong trường
hợp NHTTT không cung cấp kịp thời danh sách đen cho ĐVCNT dẫn đến
ĐVCNT thanh toán thẻ đã cấm lưu hành.
Thứ sáu, ĐVCNT thanh toán vượt hạn mức giao dịch không xin cấp

phép, bị ngân hàng từ chối toàn bộ giá trị giao dịch: Rủi ro này phát sinh do
ĐVCNT không hiểu rõ là đối với các giao dịch vượt hạn mức phải xin giấy
phép hoặc do quan niệm sai cho rằng ĐVCNT chỉ chịu rủi ro ở phần vượt hạn
mức nên đã thanh toán và nghĩ rằng mình có thể chịu đựng được. Song thực tế,
ngân hàng từ chối toàn bộ giao dịch đó chứ không phải chỉ từ chối phần vượt
mà thôi. Với rủi ro này đương nhiên ĐVCNT phải chịu toàn bộ.
Thứ bảy, ĐVCNT cố tình tách một thương vụ giao dịch lớn thành nhiều
giao dịch nhỏ để trốn tránh việc xin cấp phép: Rủi ro này phát sinh do ĐVCNT
lợi dụng quy định về hạn mức phải xin cấp phép để thực hiện nên nếu NHPHT
phát hiện ra sẽ từ chối thanh toán và ĐVCNT sẽ phải gánh chịu rủi ro.
Thứ tám, sửa chữa hoá đơn. Trong trường hợp vô tình hay cố ý mà
ĐVCNT sửa chữa, tẩy xoá hoá đơn khi xuất trình thanh toán tại ngân hàng,
ngân hàng có thể căn cứ vào đó để từ chối thanh toán cho ĐVCNT.
Thứ chín, rủi ro hối đoái: Rủi ro này phát sinh do biến động chênh lệch tỷ
giá giữa đồng tiền các nước và thời hạn quy định từ khi xảy ra giao dịch đến khi
xuất trình chứng từ thanh toán.

KẾT LUẬN
Mối quan hệ pháp lý giữa các bên trong quan hệ thanh toán thông qua thẻ
ngân hàng được pháp luật quy định nhìn chung khá đầy đủ nhằm điều chỉnh
quan hệ giữa các bên chủ thể. Giải quyết tốt cũng như hiểu rõ hơn về mố quan
hệ này sẽ giúp cho hình thức thanh toán bằng thẻ ngân hàng trở nên rộng rãi và
phổ biến hơn. Điều đó phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn hội nhập ngày nay.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Một số khía cạnh pháp lý về thẻ thanh toán và thực tiễn điều chỉnh pháp
luật về thẻ thanh toán ở Việt Nam hiện nay – Luận văn Tiến sĩ Luật học –
Phạm Danh Chương.

2.

Quy chế pháp lý về thẻ ngân hàng – Khóa luận tốt nghiệp – Đỗ Thị Thùy
Dương.

3.

Giáo trình Luật Ngân hàng – trường đại học Luật Hà Nội.

4.

Quyết định của Tống đốc Ngân hàng Nhà nước số 20/2007/QĐ-NHNN
về việc ban hành quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp
dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng.

4. Quyết định của Thống đốc Ngân hàng nhà nước số 38/2007/QĐ- NHNN
về Ban hành Quy chế cấp, sử dụng và quản lý mã tổ chức phát hành thẻ
ngân hàng
5.

Một số webside:
 www.scribd.com

 www.tailieu.vn


16



×