Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Những vấn đề lý luận về hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa của Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.84 KB, 14 trang )

MỤC LỤC:

I.

MỞ ĐẦU..………………………………………………………………..2

II.

NỘI DUNG………………………………………………………………2

1.

Những vấn đề lý luận về hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng

ngừa của Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN. ………………………….......2
2. Những vấn đề pháp lý về hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng
ngừa của Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN.................................................4
3. Các sáng kiến, biện pháp, liên kết và chương trình đã được triển khai VE
hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa trong thực tiễn………6
3.1. Các biện pháp xây dựng lòng tin……………………………………...6
3.2. Chiến lược ngoại giao phòng ngừa…….………………………..……7
4.

Mối quan hệ giữa hai hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng

ngừa…………………………………………………………..………………..10
5. Đánh giá vai trò và triển vọng của các hoạt động xây dựng lòng tin và
ngoại

giao


phòng

ngừa

cho

đến

năm

2015.

…………………………………............11
III.

KẾT LUẬN……………………………………………………………..13

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………14

1


I.

MỞ ĐẦU

Trong những năm qua, cùng với nỗ lực của cac nước thành viên xây dựng
Cộng đồng ASEAN trên các lĩnh vực chính trị - an ninh, kinh tế và văn hoá - xã
hội, ASEAN tiếp tục đẩy mạnh hợp tác và có nhiều đóng góp quan trọng vào việc
củng cố và tăng cường môi trường hoà bình, an ninh, ổn định và hợp tác ở khu

vực, cũng như trong việc ứng phó hiệu quả với các thách thức đang đặt ra. Đối với
các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ giữa các nước, ASEAN nhất quán chủ
trương đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa và giải quyết tranh
chấp bằng biện pháp hoà bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Hiến Chương Liên
Hợp Quốc và Hiến Chương ASEAN. Cùng đi sâu tìm hiểu về các hoạt động xây
dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa của Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN
sẽ cho ta thấy rõ hơn sự hợp tác về chính trị - an ninh của ASEAN, giữa ASEAN
với các đối tác trong bối cảnh khu vực còn có những diễn biến phức tạp như hiện
nay.

II.

NỘI DUNG

1. Những vấn đề lý luận về hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao
phòng ngừa của Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN.
Diễn đàn khu vực ASEAN (ASEAN Regional Forum; viết tắt: ARF) được
định hình thông qua việc ra quyết định dựa trên nguyên tắc đồng thuận và giảm
thiểu quá trình thể chế hoá. Năm 1995, ARF đã vạch ra 3 giai đoạn phát triển trong
tiến trình xây dựng ARF. Theo đó, ARF sẽ chuyển dần từ việc xây dựng lòng tin
đến thiết lập một cơ chế ngoại giao ngăn ngừa, và trong dài hạn hướng đến khả
năng giải quyết các xung đột.

2


Trong mười năm đầu hoạt động của mình, ARF dường như không đạt được
kết quả gì đáng kể trong việc xây dựng một cộng đồng chiến lược. Gần đây hơn,
diễn đàn này đã có những đóng góp nhất định vào chương trình chống khủng bố ở
khu vực. Tuy nhiên, những nỗ lực nhằm triển khai những biện pháp xây dựng cơ

chế ngoại giao ngăn ngừa cũng như điều hoà các xung đột vẫn còn ở giai đoạn
trứng nước. Trong khi ARF tiếp tục tập trung vào các biện pháp xây dựng lòng tin
của diễn đàn này thì các thành viên cũng đã nhất trí với nhau rằng cơ chế ngoại
giao ngăn ngừa cũng nên được xúc tiến theo. Đặc biệt là trong những lĩnh vực còn
chồng chéo, đan xen giữa hai giai đoạn này.
Thuật ngữ ngoại giao phòng ngừa (preventive diplomacy - PD) được Tổng
Thư ký thứ hai Liên hợp quốc, ông Dag Hammaskols sử dụng lần đầu tiên năm
1960. Khái niệm ngoại giao phòng ngừa (NGPN) đã được đề cập trong Hiến
chương Liên hợp quốc và được vận dụng thường xuyên vào những năm 60 thế kỉ
20 trong các hoạt động của Liên hợp quốc nhằm ngăn không cho xung đột khu vực
dính vào đối đầu giữa hai siêu cường Xô, Mĩ. Sau chiến tranh lạnh, khái niệm
NGPN được hiểu rộng hơn, là hành động ngăn chặn các cuộc tranh chấp, ngăn
chặn tranh chấp chuyển thành xung đột và ngăn không cho xung đột lan rộng khi
nó đã xảy ra.
Khái niệm NGPN còn gắn với phát biểu khác của ông Boutros Ghali, một
cựu Tổng Thư ký của Liên hợp quốc, đó là “hành động để ngăn ngừa tranh chấp nổ
ra giữa các bên, ngăn ngừa tranh chấp đã leo thang thành xung đột và hạn chế xung
đột lan rộng một khi đã xảy ra”(1). Trong cuốn “Chương trình nghị sự vì hòa
bình”, xuất bản năm 1992, ông Boutros Ghali đã đưa ra điểm khác biệt giữa ngoại
giao phòng ngừa với các dạng hoạt động ngoại giao khác (như xây dựng hòa bình,
gìn giữ hòa bình, kiến tạo hòa bình), đó là: ngoại giao phòng ngừa thể hiện sự chủ
động hơn là bị động trong việc đối phó với những tình huống đe dọa hòa bình.
3


Còn theo nhà nghiên cứu Amitav Acharya, NGPN là hoạt động ngoại giao,
chính trị, quân sự, kinh tế và nhân đạo của các chính phủ, các tổ chức đa phương,
tổ chức quốc tế nhằm các mục đích: ngăn chặn tranh chấp và xung đột nghiêm
trọng nổ ra giữa các quốc gia hay trong một quốc gia; ngăn xung đột và tranh chấp
leo thang thành đối đầu vũ trang; hạn chế mức độ bạo lực do xung đột gây ra và

ngăn không cho lan rộng về mặt địa lý; ngăn chặn và xử lý khủng hoảng nhân đạo;
là một bộ phận của phản ứng tức thì trước khủng hoảng hoặc tình hình tiền khủng
hoảng, đưa ra những biện pháp có thể giúp giải quyết tranh chấp. Ông Amitav
Acharya cũng cho rằng các biện pháp có thể rất đa dạng từ “cuộc nói chuyện qua
điện thoại đơn giản trong thời điểm khủng hoảng” cho tới “việc triển khai các đơn
vị quân sự”. Nhìn chung, các học giả đều thống nhất, bản chất của NGPN là ngăn
ngừa xung đột.
2. Những vấn đề pháp lý về hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao
phòng ngừa của Cộng đồng chính trị - an ninh ASEAN.
Các biện pháp xây dựng lòng tin ngoài việc tiến hành trên cơ sở các kinh
nghiệm của ASEAN trong việc xây dựng khu vực hòa bình, tự do và trung lập, khu
vực Đông Nam Á không vũ khí hạt nhân cũng như kinh nghiệm trong việc thiết lập
cơ chế tham vấn, tăng cường hiểu biết lẫn nhau thông qua các chuyến thăm và trao
đổi thường xuyên giữa đại diện cấp cao của các nước ASEAN, đồng thời khuyến
khích các bên tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á theo nguyên
tắc láng giềng thân thiện.
NGPN được áp dụng dựa trên các nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế
như: xử lý mối quan hệ giữa các quốc gia và triển khai hợp tác trong lĩnh vực xây
dựng lòng tin; tôn trọng chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ; kiềm chế tránh
không can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác hay hợp tác an ninh
nhằm trực tiếp chống lại một nước hay một bên thứ ba; coi sự nhất trí của các bên
4


trực tiếp liên quan đến vấn đề là một trong những điều kiện tiên quyết để triển khai
NGPN; giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua biện pháp hòa bình và tránh sử
dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực; thực hiện, duy trì các chính sách quốc phòng với
bản chất phòng vệ, không đe dọa hay làm phương hại đến an ninh và ổn định của
các quốc gia khác bằng lực lượng quân đội; tăng cường hợp tác cùng có lợi giữa
các quốc gia và giao lưu hữu nghị giữa các dân tộc…

Ở châu Á, NGPN được sử dụng chậm hơn so với các khu vực khác, song lại
phát huy tính hiệu quả rất cao, nổi bật là vai trò của ASEAN cũng như Diễn đàn
An ninh khu vực (ARF) mà tổ chức này đứng ra thành lập năm 1994. Hội nghị
ARF lần thứ 8 họp tại Hà Nội (tháng 7-2001) đã thông qua văn kiện về NGPN.
Theo đó, NGPN được hiểu là hành động ngoại giao, chính trị được các quốc gia có
chủ quyền nhất trí với sự đồng ý của các bên liên quan nhằm giúp ngăn chặn các
cuộc tranh chấp, xung đột giữa các quốc gia đe dọa tiềm tàng hòa bình và ổn định
khu vực; ngăn chặn các cuộc tranh chấp và xung đột leo thang thành đối đầu vũ
trang; hạn chế tối thiểu ảnh hưởng của tranh chấp và xung đột khu vực. Văn kiện
này còn đề ra 8 nguyên tắc của NGPN, đó là “hoạt động ngoại giao, không ép
buộc, phù hợp về thời gian, có lòng tin, tham khảo ý kiến và đồng thuận, tự
nguyện, áp dụng trong các cuộc xung đột giữa các quốc gia, phù hợp với Hiến
chương Liên hợp quốc, luật quốc tế, Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á”.
Mặc dù trên thực tế, NGPN đã được ASEAN áp dụng từ khi thành lập
nhưng phải tới năm 1995 khái niệm NGPN mới chính thức được công nhận và đưa
vào tài liệu khái niệm (Concept Paper) của ARF.
Hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa trong ASEAN còn
được nhấn mạnh trong hiến chương ASEAN phần các mục tiêu và nguyên tắc…
điều này chứng tỏ ASEAN không những quan tâm, mà còn rất trú trọng đến vấn đề
này, với mục đích xây dựng một khu vực ASEAN ngày càng phát triển.

5


3. Các sáng kiến, biện pháp, liên kết và chương trình đã được triển khai
VE hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa trong thực tiễn.
Hội nghị ARF lần thứ 2 được tổ chức vào tháng 8 năm 1995 đã xác định
được 3 thách thức mà ARF phải đối mặt cũng như hoạt động của ARF sẽ được
triển khai qua ba giai đoạn là tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin, thúc đẩy
các biện pháp ngoại giao phòng ngừa và thúc đẩy cơ chế giải quyết xung đột.

3.1. Các biện pháp xây dựng lòng tin.
Biện pháp xây dựng lòng tin được chia làm 2 nhóm như sau:
+ Nhóm thứ nhất là những biện pháp được tiến hành ngay;
+ Nhóm thứ hai là đề xuất sẽ được thực hiện trong tương lai và dài hạn ngay thông
qua Kênh II.
Trong thực tiễn hàng loạt đề nghị CBMs đưa ra, có nhiều nội dung đã và
đang được thực hiện dựa trên các kinh nghiệm của ASEAN trong việc xây dựng
khu vực hòa bình tự do và trung lập, khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt
nhân cũng như kinh nghiệm trong việc thiết lập cơ chế tham vấn, tăng cường hiểu
biết lẫn nhau thông qua các chuyến viếng thăm và trao đổi thường xuyên giữa các
đại diện cấp cao của các nước ASEAN, sự hợp tác Đông Nam Á theo nguyên tắc
láng giềng thân thiện.
Qua tám năm đầu thành lập, có hơn 80 biện pháp xây dựng lòng tin được
thực hiện, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hòa bình và ổn định khu vực,
trong đó, chủ yếu tập trung vào các vấn đề an ninh tại Đông Nam Á và Đông Bắc
Á. Các biện pháp cụ thể để xây dựng lòng tin mà CBMs đề cập đến như là trao đổi
các phái đoàn quân sự, thành lập các trung tâm phòng ngừa xung đột khu vực, thỏa
thuận về các biện pháp kiềm chế, giảm bớt sự hiện diện về quân sự ở các khu vực
6


tranh chấp... Bên cạnh đó, những vấn đề mang tính thời sự như tranh chấp ở biển
Đông, tình hình trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, chống
khủng bố quốc tế và tội phạm xuyên quốc gia, phu hạt nhân hóa ở Đông Nam Á,
các vấn đề về an ninh hàng hải như xây dựng năng lực an ninh hàng hải, các
chương trình đào tạo, tăng cường an ninh hàng hải cho các thành viên ARF... cũng
được đề cập tới.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Diễn đàn an ninh khu vực ASEANARF-8 đã thông
qua 3 tài liệu: Khái niệm và các nguyên tắc ngoại giao phòng ngừa; Quy chế hoạt
động của các chuyên gia ARF và Tăng cường vai trò của Chủ tịch ARF. Đây là

những văn kiện cơ sở cho tiến trình xây dựng lòng tin, để bước đầu quá độ chuyển
sang ngoại giao phòng ngừa trên Diễn đàn an ninh ARF.
Văn kiện Tăng cường vai trò của Chủ tịch ARF tập trung vào 5 điểm chính:
ARF sẽ đóng vai trò trung gian để phối hợp với các cuộc họp của ARF; tăng cường
sự tin cậy giữa các nước ARF bằng cách trao đổi thông tin và thực hiện các cuộc
tiếp xúc trong ARF, đồng thời tổ chức các cuộc họp về vấn đề liên quan; đẩy mạnh
quan hệ trong ARF, thúc đẩy các lĩnh vực tiềm năng, thực hiện các cuộc thảo luận
về xây dựng tiêu chuẩn để hiểu biết lẫn nhau; trao đổi thông tin và nêu rõ những
vấn đề có thể tác động để các nước ARF xem xét; giữ vững vai trò là một trung
tâm để tham khảo ý kiến các nước trên cơ sở các nước thành viên.
3.2. Chiến lược ngoại giao phòng ngừa.
NGPN chủ yếu sử dụng các biện pháp hoà bình và mang tính ngoại giao như
thương thuyết, điều tra và hoà giải, không ép buộc, không có hành động quân sự
hay sử dụng vũ lực, phải kịp thời, hành động phải mang tính phòng ngừa, chứ
không phải khắc phục. Các biện pháp PD hiệu quả nhất ở giai đoạn đầu của mâu
thuẫn hay khủng hoảng. Cần phải có sự tin tưởng. PD chỉ có thể thực hiện khi có

7


một nền tảng tin tưởng mạnh mẽ giữa các bên liên quan và khi nó được thực hiện
trên cơ sở trung lập, công bằng và vô tư. Các cố gắng đều phải thông qua đồng
thuận, sau khi đã tham khảo cẩn thận giữa các nước thành viên ARF, đồng thời cân
nhắc đến tính kịp thời. Áp dụng đối với các xung đột giữa các nước thành viên.
NGPN cũng được sử dụng ngày càng phổ biến trong khuôn khổ một số tổ
chức khu vực. Trong hoạt động của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE),
NGPN đã trở thành một hoạt động thường xuyên, thực hiện chủ yếu thông qua các
phái đoàn dài hạn và các cao ủy viên về những nhóm kiều dân thiểu số. Phái đoàn
đầu tiên được đưa vào hoạt động vào năm 1992, là đóng góp của OSCE vào việc
giải quyết xung đột ở Nam Tư. Hai phái đoàn này đã ngăn chặn được cuộc xung

đột ở Nam Tư không lan sang Ma-xê-đô-ni-a và khu vực người Xéc-bi-a ở Cô-xôvô. Trong năm 1998, OSCE đã triển khai 10 phái đoàn dài hạn ở các khu vực có
xung đột trên thế giới, đảm nhiệm chức năng kết hợp giữa kiến tạo và xây dựng
hòa bình - hay còn gọi là chức năng gìn giữ hòa bình “gián tiếp”, chức năng NGPN
tập trung vào các biện pháp cảnh báo sớm, tạo điều kiện thương lượng giữa các
bên tranh chấp và trung gian hòa giải.
Trong Tổ chức Thống nhất châu Phi (OAU), NGPN là một ưu tiên chính trị
quan trọng. OAU nỗ lực phát triển một hệ thống cảnh báo sớm có hiệu quả nhằm
giải quyết những xung đột phát sinh tại khu vực. Nghị quyết của OAU thông qua
năm 1993 về phòng ngừa, xử lý và giải quyết xung đột đã tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động của trung tâm. Tổ chức Các nước châu Mỹ (OAS), tổ chức khu vực ra
đời sớm nhất trên thế giới, từ lâu đã có nhiều hoạt động tích cực trong lĩnh vực giải
quyết xung đột, chủ yếu thông qua phòng ngừa và trung gian hòa giải. Đây cũng là
khu vực thường xuyên có các xung đột cục bộ, các tranh chấp hay nội chiến. Một
trong những bước tiến của NGPN tại khu vực là trong những năm 90, đặc biệt từ
năm 1995, các nước thành viên OAS đã quyết định tiến hành một số nỗ lực xây
8


dựng lòng tin dựa trên trao đổi thường xuyên những thông tin về quân sự và an
ninh, cũng như dựa trên sự tham khảo ý kiến lẫn nhau trong một số lĩnh vực.
Những biện pháp xây dựng lòng tin như vậy tạo cơ sở quan trọng cho NGPN do
OAS tiến hành. ở khu vực Trung Đông, Liên đoàn A-rập cũng thực hiện NGPN
năm 1991, tránh nổ ra xung đột vũ trang giữa I-rắc và Cô-oét.
Một đặc điểm nữa của NGPN của ASEAN là sự hiện diện lợi ích và ảnh
hưởng của các nước lớn luôn thường trực. Điều này khiến ASEAN trong quá trình
thực hiện NGPN phải cân bằng, điều hòa lợi ích của các nước lớn tại khu vực và
đây cũng là một thành công của Hiệp hội. Trên thế giới hiện nay có tới hơn 50 tổ
chức khu vực với tầm cỡ khác nhau, nhưng duy nhất chỉ có ASEAN, với các hoạt
động linh hoạt và có xu hướng "mở" đã thiết lập được quan hệ đối thoại với tất cả
các nước lớn. Có thể nói, trong nền ngoại giao đương đại, khi sự liên kết và phụ

thuộc lẫn nhau tăng cao trong mọi mặt của đời sống, việc giữ gìn hòa bình an ninh
cho phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia trở nên cấp thiết nhưng cũng khó khăn hơn
trước. Điều đó khiến cho NGPN được áp dụng ngày càng nhiều, khẳng định được
vị trí và hiệu quả của nó bên cạnh các hoạt động ngoại giao khác.
Tuy nhiên, cho đến nay, dù được chấp nhận và sử dụng rộng rãi, đặc biệt là
kể từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, việc triển khai NGPN vẫn bộc lộ những
hạn chế nhất định. Việc sử dụng tràn lan khái niệm “phòng ngừa” như trào lưu gắn
khái niệm phòng ngừa với điều chỉnh vũ trang (giải giáp mang tính phòng ngừa),
cứu trợ khẩn cấp (viện trợ nhân đạo mang tính phòng ngừa), hay thậm chí cả với
trừng phạt kinh tế (như trong trường hợp khái niệm do Cộng đồng các quốc gia độc
lập (SNG) đưa ra năm 1996 về phòng ngừa và giải quyết xung đột). Về thực tiễn,
“các quốc gia và tổ chức khu vực vốn phải dồn mọi nỗ lực giải quyết những vấn đề
họ đang gặp phải nên khó hướng sự chú tâm và cống hiến nguồn lực cho việc
phòng ngừa các xung đột chưa xảy ra, bất kể là việc phòng ngừa đó có giá trị thế
9


nào và cho dù NGPN không tốn kém về nhân lực, tài chính và các nguồn lực khác.
Thêm vào đó, có một thực tế làm trầm trọng thêm vấn đề này, đó là những thất bại
của ngoại giao thường bị để ý trong khi những thành công lại không mấy khi được
biết đến. Hơn nữa, thật khó xác định thế nào là thành công của NGPN, nên cũng
khó có được sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự cần thiết phải tiến hành
NGPN”(4).
4. Mối quan hệ giữa hai hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao
phòng ngừa.
Hiện nay, ARF vẫn đang tập trung thực hiện CBMs hơn nhưng không vì thế
mà việc thực hiện các biện pháp PD bị bỏ ngỏ, mà ngược lại các biện pháp đan xen
giữa CBMs và PD lại được tăng cường thực hiện. Ví dụ như tăng cường vai trò của
Chủ tịch ARF, xuất bản Bối cảnh an ninh hàng năm, tự nguyện thông báo về các
vấn đề có thể ảnh hưởng đến an ninh khu vực.

Có thể nói, xây dựng lòng tin là giai đoạn đầu tiên, làm cơ sở nền tảng cho
đối thoại bằng cách giảm căng thẳng, tăng cường lòng tin và sự hiểu biết lẫn nhau,
tạo bầu không khí thuận lợi cho đối thoại. Tiếp đó, NGPN được coi là giai đoạn
“giữ nguyên trạng”, không để cho xung đột hay tranh chấp vốn có nổi lên và leo
thang thành đối đầu vũ trang.
Trong nền ngoại giao đương đại, khi sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau tăng
cao trong mọi mặt của đời sống, việc giữ gìn hòa bình an ninh cho phát triển, bảo
đảm lợi ích quốc gia trở nên cấp thiết nhưng cũng khó khăn hơn trước. Điều đó
khiến cho NGPN được áp dụng ngày càng nhiều, khẳng định được vị trí và hiệu
quả của nó bên cạnh các hoạt động ngoại giao khác. Trong NGPN, điều quan trọng
là ngừa, chứ không phải chữa. Nghĩa là cần được thực hiện tốt nhất trước khi xảy
ra xung đột. Để làm được điều này, cần có một cơ chế cảnh báo sớm và thường

10


xuyên thực hiện các bước xây dựng lòng tin. NGPN đang trở thành một vấn đề
được quan tâm đặc biệt tại khu vực do tính hiệu quả cũng như tính cần thiết của nó
trong việc bảo đảm an ninh hòa bình ổn định ở Đông Nam Á. Quá trình hình thành
cho tới phát triển NGPN của ASEAN, những vận dụng NGPN trong phương cách
ASEAN và hoạt động của ARF là những kinh nghiệm thực tiễn cần được nghiên
cứu, có mối liên hệ trực tiếp tới Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã,
đang và tiếp tục khẳng định vị thế tích cực, có trách nhiệm của mình trong Hiệp
hội.
5. Đánh giá vai trò và triển vọng của các hoạt động xây dựng lòng tin và
ngoại giao phòng ngừa cho đến năm 2015.
Uy tín và ảnh hưởng của ARF ngày một lớn, khiến một số nước muốn tham
gia vào diễn đàn này, nhưng hiện nay ARF vẫn chưa xem xét kết nạp thêm thành
viên. Điều đó phần nào cũng phản ánh được hiệu quả từ những hoạt động của ARF
trong thời gian qua, đồng thời qua đó thấy được vai trò của xây dựng lòng tin và

ngoại giao phòng ngừa trong thời gian vừa qua và triển vọng của nó tới năm 2015:
ARF đã ghi nhận hàng chục đề nghị mới về xây dựng lòng tin để xem xét và
triển khai, những biện pháp này đề cập trên bình diện khá rộng: Từ những vấn đề
chung như tăng cường củng cố hoà bình an ninh khu vực, tới những vấn đề cụ thể
như giảm nhẹ thiên tai, chống tội phạm xuyên quốc gia. Các biện pháp xây dựng
lòng tin chỉ nhằm chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tăng cường hiểu biết và hỗ trợ về
huấn luyện, đào tạo. Nhưng chỉ đơn thuần với hoạt động xây dựng lòng tin thì chưa
đủ để đảm bảo sự hòa bình – an ninh của khu vực mà cần phải chuyển biến đến
giai đoạn tiếp theo để phù hợp với hoàn cảnh hiện thời của ASEAN khi tình trạng
khủng bố ngày càng diễn biến một cách phức tạp. Đứng trước tình thực tế này,
diễn đàn an ninh khu vực ASEAN đang chuyển dần sang giai đoạn mới, giai đoạn

11


ngoại giao phòng ngừa; tuy nhiên, đây sẽ là quá trình lâu dài, đòi hỏi nhiều nỗ lực
và quan trọng nhất là lòng tin giữa các nước phải được đề cao và không ngừng
củng cố; chính vì vậy, các biện pháp xây dựng lòng tin tiếp tục đóng vai trò chủ
đạo và xuyên suốt trong cả tiến trình.
Từ sau Hội nghị lần thứ 10-năm 2003, ARF đã bắt đầu triển khai những biện
pháp đan xen giữa xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa như: Chủ tịch ARF
tiến hành tiếp xúc với bên ngoài và với kênh II (kênh phi chính phủ) trên cơ sở
không chính thức, đồng thời đóng vai trò đầu mối thông tin; Các thành viên ARF
tự nguyện xuất bản những ấn phẩm về quan điểm an ninh hàng năm của các nước ở
kênh I (kênh chính phủ); Bắt đầu tập hợp danh sách chuyên gia và những nhân vật
lỗi lạc của các nước thành viên; Một số nước tự nguyện thông báo tình hình của
mình tại các cuộc họp của ARF. Công việc chuẩn bị để ARF bước sang giai đoạn
kế tiếp là ngoại giao phòng ngừa cũng đã được thực hiện.
Trong thời gian gần đây, cũng nhờ các biện pháp từ hoạt động này mà thời
gian gần đây tình hình cẳng thẳng giữa các quốc gia ở ASEAN trong đó có Việt

Nam với Trung Quốc về vấn đề tranh chấp biển Đông cũng đã phần nào được giai
quyết ổn thỏa. Cụ thể, giữa năm 2011, chủ tịch Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) –
diễn ra ở Bali (Indonesia) đã tuyên bố từ ngày 16 đến 23-7/2011, dự kiến sẽ kêu
gọi thúc đẩy ngoại giao phòng ngừa để giải quyết những tranh chấp lãnh thổ ở
biển Đông. Như vậy, có thể thấy rõ vai trò quan trọng của hoạt động này đối với
sự bình ổn của an ninh khu vực.
Qua đây, ta có thể thấy được các biện pháp xây dựng lòng tin và ngoại giao
phòng ngừa là những công cụ quan trọng nhằm ngăn ngừa xung đột, chúng làm
giảm tình trạng căng thẳng và ngăn chặn tranh chấp nảy sinh giữa các nước
ASEAN cũng như giữa các như các nước ASEAN với các quốc gia bên ngoài,
đồng thời góp phần ngăn chặn tình trạng leo thang của những xung đột hiện tại.

12


Với vai trò rất quan trọng qua từng thời kỳ của ARF, Hoạt động xây dựng
lòng tin và ngoại giao phòng ngừa vẫn sẽ tiếp tục tồn tại song hành với quá trình
hoạt động của diễn đàn ARF nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo hòa bình – an ninh
của khu vực ASEAN, qua đó hướng tới sự thành công của Cộng đồng Chính trị an ninh ASEAN 2015 nói riêng, Cộng đồng ASEAN 2015 nói chung. Và trong
tương lai ARF sẽ hướng đến bàn luận giải quyết những bất đồng giữa các thành
viên của diễn đàn, để đưa ARF chuyển sang giai đoạn thứ tiếp theo là Giải quyết
xung đột.

III. KẾT LUẬN
Với ASEAN làm nòng cốt và nắm vai trò lãnh đạo, đến nay Diễn đàn an
ninh khu vực ASEAN (ARF) đã thu hút được 27 thành viên tham gia bao gồm 10
nước ASEAN và các nước như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… và một trong
những tổ chức khu vực mạnh nhất thế giới là Liên minh Châu Âu (EU). Với tư
cách là diễn đàn đối thoại và hợp tác giữa các nước thành viên về các vấn đề chính
trị và an ninh khu vực, ARF đã chứng tỏ được sức sống và giá trị thực tiễn, nhất là

trong việc tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa các nước trong khu vực
thông qua các hoạt động xây dựng lòng tin và ngoại giao phòng ngừa của Cộng
đồng chính trị - an ninh ASEAN và biện pháp hợp tác cụ thể trên nhiều lĩnh vực
khác nhau.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
(1) Boutros Ghali: Chương trình nghị sự vì hòa bình: Ngoại giao phòng ngừa, kiến
tạo hòa bình và gìn giữ hòa bình (Liên hợp quốc, 1992)
(2) TS. Nguyễn Phương Bình (chủ biên): Ngoại giao phòng ngừa ở Đông Nam Á,
Học viện Quan hệ quốc tế, tr 20
(3) Sđd, tr 28
(4) Sđd, tr 54
Theo />- Cac website:
-

/>
tri-an-ninh-1807737/
-

/>
ngua.htm
- />vuc/10732467/157/
/>id=fea8b5&o=0

14




×