Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật trong triết học mác lênin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.25 KB, 18 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------

BÀI TẬP NHÓM
CHUYÊN ĐỀ 3
Đề tài: Sự hình thành và phát triển của phép biện
chứng duy vật trong Triết học Mác-Lênin
CHUYÊN NGÀNH

:

Triết học

LỚP

:

CH23UD

NHÓM

:

9


Hà Nội - 01/2016

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 9


STT

Họ và tên

Đánh giá

1

Vũ Thị Nguyệt

2

Nguyễn Thị Hồng Nhung

3

Đỗ Kim Oanh

4

Lê Thị Oanh

5

Phạm Văn Oanh

6

Nguyễn Thị Phượng


7

Nguyễn Đức Quang (Nhóm trưởng)

8

Nguyễn Thị Quyền

2


9

Đặng Thúy Quỳnh

10

Nguyễn Thị Thảo

11

Trần Thị Thảo

3


MỞ ĐẦU
Thuật ngữ biện chứng “dialektica” lần đầu tiên xuất hiện ở Hy Lạp cổ
đại và được hiểu là đàm thoại, tranh luận.
Trong triết học Mác, thuật ngữ biện chứng được dùng đối lập với siêu

hình, đó là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên
hệ, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động
không ngừng, phương pháp đó không chỉ nhìn thấy những sự vật, hiện tượng cá
biệt mà còn nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa chúng, không chỉ nhìn thấy sự
tồn tại của sự vật, mà còn thấy quá trình hình thành, phát triển, tiêu vong của sự
vật, không chỉ nhìn thấy sự vật ở trạng thái tĩnh mà còn nhìn thấy sự vật ở trạng
thái động, đó là phương pháp tư duy mềm dẻo, linh hoạt, thừa nhận trong những
trường hợp nhất định bên cạnh cái hoặc là hoặc là….còn có cả cái vừa là cái này
vừa là cái kia nữa!
Như vậy nói đến biện chứng là phải nói đến mối liên hệ phổ biến, sự vận
động và sự phát triển. Trong lịch sử triết học, phép biện chứng đạt tới đỉnh cao
là phép biện chứng duy vật Mác - Lê nin.
Trong giới hạn bài thảo luận này, nhóm 9 chỉ xin trình bày khái quát sự
hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật trong triết học Mác Lê nin.

4


NỘI DUNG
I. Những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành phép biện chứng duy vật
trong triết học Mác – lê nin
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã được
Mác - Ăng ghen sáng lập và được Lê nin phát triển vào đầu thế kỷ XX. Sự hình
thành thế giới quan duy vật biện chứng của Mác – Ăng ghen là một quá trình
đầy khó khăn, phức tạp, dựa trên các tiền đề về kinh tế - xã hội, tiền đề về lý
luận và tiền đề về khoa học tự nhiên.
* Tiền đề kinh tế-xã hội
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX phương thức sản xuất tư bản ở châu Âu
phát triển mạnh mẽ, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, đánh dấu một
bước chuyển biến từ nền sản xuất thủ công sang sản xuất đại công nghiệp. Cùng

với sự ra đời của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản cũng được hình thành và phát
triển mạnh mẽ.
Khi ra đời giai cấp tư sản củng cố địa vị của mình và thiết lập một quan hệ
bóc lột mới, từ sự bóc lột đó đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt,
biểu hiện ra ngoài là các cuộc khởi nghĩa của phong trào công nhân nổ ra ở khắp
các nước châu Âu. Tiêu biểu như: khởi nghĩa của công nhân Pháp 1831 – 1834;
Hiến trương của công nhân Anh 1835 -1848; khởi nghĩa của công nhân Đức
1844…v.v…
Phong trào công nhân cần một hệ tư tưởng soi đường. Xuất phát từ thực
tiễn chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đó.
* Tiền đề lý luận:
- Triết học cổ điển Đức, Mác – Ăngghen phê phán tư tưởng siêu hình của
Phoiơ Bắc, chủ nghĩa duy tâm của Hê Ghen đồng thời kế thừa chủ nghĩa duy vật
của Phoiơ Bắc, Phép biện chứng của Hê Ghen hình thành lên phép biện chứng
duy vật của mình.
5


- Kinh tế chính trị học cổ điển Anh: Mác kế thừa tư tưởng của các nhà
kinh tế chính trị cổ điển Anh như: A. Xmít, Đricacđô kế thừa những yếu tố khoa
học trong lý luận về giá trị lao động và những tư tưởng tiến bộ. Mác đã giải
quyết những bế tắc mà các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh đã không thể vượt
qua để xây dựng lên học thuyết giá trị thặng dư của mình.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp: các nhà tư tưởng Pháp như: Ôoen,
H. Xanh Ximông, S.Phuriê. Các nhà không tưởng đã nêu cao tinh thần nhân đạo
và chỉ ra cảnh khốn cùng của người lao động trong nền sản xuất TBCN. đồng
thời phê phán mạnh mẽ, vạch trần bản chất bóc lột của CNTB. Tuy nhiên các
ông không luận chứng được một cách khoa học về bản chất của chủ nghĩa tư
bản, cũng như không thấy được sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Trên cơ
sở phê phán và kế thừa Mác đã xây dựng lý luận khoa học về chủ nghĩa xã hội

của mình.
* Tiền đề khoa học tự nhiên.
- Mác đã kế thừa những thành quả của khoa học tự nhiên như : Định luật
bảo toàn và chuyển hoá năng lượng; Thuyết tế bào, Thuyết tiến hoá.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã chứng minh về sự
không tách rời nhau, chuyển hoá lẫn nhau được bảo toàn các hình thức vận động
của vật chất.
- Thuyết tế bảo đã chứng minh mọi cơ thể sống đề có nguồn gốc từ tế bào,
đồng thời giải thích rõ nguồn gốc cấu tạo của tế bào.
- Thuyết tiến hoá đã chứng minh sự phát sinh, phát triển của các loài động,
thực vật, phát triển từ vật chất đến vật chất sống từ động, thực vật bậc thấp đến
động, thực vật bậc cao.
Căn cứ vào các học thuyết trên Mác đã chứng minh được tính đúng đắn
quan điểm duy vật biện chứng về thế giới vật chất của mình.

6


II. Quá trình hình thành và phát triển phép biện chứng duy vật trong
triết học Mác – lê nin
Sự hình thành và phát triển của triết học Mác - Lênin có thể chia làm hai
giai đoạn cơ bản. Một là giai đoạn Mác và Ăngghen; hai là giai đoạn Lênin.
Trong mỗi giai đoạn đó lại có thể bao gồm những thời kỳ nhỏ hơn.
Sự hình thành các quan điểm triết học duy vật biện chứng ở Mác và
Ăngghen được diễn ra từ những năm 1842-1843 đến những năm 1847-1848.
Tiếp sau là quá trình phát triển sâu sắc hơn các quan điểm đó.
1. Giai đoạn Mác – Ăng ghen
a. Thời kỳ chuyển biến tư tưởng của Mác & Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm sang chủ nghĩa duy vật
- Bước đầu hoạt động chính trị - xã hội và khoa học của Mác &

Ăngghen
Các Mác (5/5/1818- 14/3/1883) sinh ra trong một gia đình luật sư ở thành
phố Tơrevơ của nước Đức. Bố ông là một luật sư có tư tưởng tiến bộ, đánh giá
cao phái khai sáng Pháp và chế độ dân chủ tư sản được xác lập ở Pháp, nhưng
không có khuynh hướng cách mạng. Ông có một ảnh hưởng lớn đến việc học tập
và phấn đấu của C. Mác. Ông muốn C. Mác trở thành luật sư một viên chức nhà
nước. Năm 1835, sau khi tốt nghiệp trung học, C. Mác vào học luật tại trường
đại học Bon. Đến năm 1836 chuyển sang trường Đại học Tổng hợp Beclin (1836
- 1841). Tại đây, Mác đã nghiên cứu triết học và lịch sử.
Năm 1837 khi học tại trường Đại học Beclin, C. Mác bắt đầu làm quen với
triết học Hegel. Mác say mê nghiên cứu triết học, coi đó như niềm say mê của
nhận thức nhằm giải đáp cho vấn đề giải phóng con người. Cũng thời gian này,
ông tham gia phái Hegel trẻ.
Tác phẩm khoa học đầu tiên của Mác hồi trẻ là luận án tiến sỹ về đề tài: "
Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcơrít và triết học tự nhiên của
7


Êpiquya" được bảo vệ năm 1841. Trong tác phẩm này, về cơ bản Mác vẫn còn
đứng trên lập trường duy tâm của Hegel, coi ý thức của con người là động lực
phát triển của lịch sử nhân loại, song Mác cũng đã bộc lộ những quan điểm vô
thần và tinh thần dân chủ cách mạng trái với Hegel. Ông đánh giá cao vai trò
của Êpiquya trong việc làm phong phú nguyên tử luận của Đêmôcrit. Trong luận
án cũng manh nha tư tưởng về mối quan hệ biện chứng giữa tư duy và tồn tại
thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Tham gia trong phái Hegel trẻ nhưng Mác có quan niệm trái với Hegel và
phái Hegel trẻ về vai trò của phép biện chứng và triết học nói chung. Ông nói
rằng phép biện chứng là "dòng suối cuồn cuộn" phá vỡ và lật đổ mọi hiện thực
cũ lỗi thời, hạn chế.
Như vậy, ngay từ buổi đầu hoạt động chính trị, xã hội và khoa học, mặc dù

còn chịu ảnh hưởng tư tưởng duy tâm của Hegel, song Mác đã bộc lộ rõ khuynh
hướng dân chủ cách mạng cũng như những bất đồng nhất định với Hegel và phái
Hegel trẻ trong việc giải quyết nhiều vấn đề triết học quan trọng của thời kỳ này.
Cũng trong thời gian này, quá trình hình thành thế giới quan cách mạng của
Ăngghen diễn ra độc lập với Mác. Phriđrích Ăngghen (28/11/1820 - 5/8/1895)
sinh ra trong một gia đình chủ xưởng sợi ở thành phố Bácmen (Đức) ông không
được học đại học, thậm chí phải bỏ dở trung học để theo cha làm công việc của
nghề kinh doanh mà ông không thích thú bởi cha ông muốn ông sớm trở thành
nhà kinh doanh.
Năm 1838 Ăngghen được phái đi làm thư ký trong hãng buôn ở Bacmen.
Ông vừa làm vừa kiên trì tự học, tham gia hoạt động khoa học và chính trị và tự
lựa chọn con đường cách mạng của cuộc đời mình. Năm 1939 ông bắt đầu
nghiên cứu triết học Đức.
Năm 1841, Ăngghen tới Beclin làm nghĩa vụ quân sự và dự thính các bài
giảng tại trường Đại học Tổng hợp Beclin. Cũng thời gian này ông làm quen và
gia nhập phái Hegel trẻ.
8


Cuối năm 1842, Ăngghen sang Mansestơ (Anh) làm công trong một xưởng
sợi mà bố ông là một trong những chủ xưởng. Ở đây, ông bắt đầu nghiên cứu
kinh tế chính trị học cổ điển Anh và phong trào công nhân. Đó là bước chuẩn bị
quan trọng cho sự chuyển biến thế giới quan và lập trường chính trị của ông sau
này.
Như vậy, nhìn chung cho đến giữa năm 1842 Mác & Ăngghen vẫn còn
đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết các vấn đề triết
học và trong quan điểm chính trị vẫn là những nhà dân chủ cách mạng. Mặc dù
vậy, hai ông cũng đã có những cố gắng lớn để vượt ra khỏi khuôn khổ của nó
song chưa thực hiện được.
- Sự chuyển biến tư tưởng của Mác & Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm

sang chủ nghĩa duy vật biện chứng
Sự chuyển biến bước đầu diễn ra trong thời kỳ Mác làm việc ở báo
sông Ranh (từ tháng 5/1842 đến 4/1843). Nội dung cơ bản của những bài báo
của ông ở đây là bảo vệ lợi ích của những người lao động nghèo khổ, đấu tranh
cho dân chủ và tự do thực sự. Vì thế ngày 1/4/1843 chính phủ Phổ ra lệnh đóng
cửa tờ báo.
Ở thời kỳ này, Mác ngày càng xa rời chủ nghĩa duy tâm. Lênin nhận xét
rằng, Báo sông Ranh năm 1842 đã để lộ rõ bước đầu chuyển hướng của Mác...
từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Tủ tháng 5/1843-10/1843, sau khi báo sông Ranh bị đóng cửa, Mác tiến
hành viết cuốn "Phê phán triết học pháp quyền của Hegel" đồng thời nghiên cứu
lịch sử một cách cơ bản. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hegel, Mác
đã nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của triết học Phoiơbắc. Song Mác lại
thấy được những mặt yếu trong triết học của Phoiơbắc. Ông không tán thành đạo
đức học của Phoiơbắc, việc Phoiơbắc cố gắng đi tìm ý nghĩa đạo đức trong tín
ngưỡng tôn giáo, nhất là việc quá nhấn mạnh đến tự nhiên mà xa rời những vấn
9


đề chính trị thực tiễn. Khi từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của Hegel, Phoiơbắc vứt bỏ
luôn cả phép biện chứng- hạt nhân hợp lý nhất của triết học Hegel mà theo Mác
cần phải giữ lại và phát triển lên.
Tháng 11/1843, Mác chuyển sang Pari để xuất bản tờ Niên giám Pháp Đức. Ông có điều kiện để nghiên cứu phong trào công nhân, CNXH không
tưởng Pháp & Anh, triết học duy vật Pháp TK XVIII. Các bài báo của Mác Góp
phần vào vấn đề châu Âu và Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel.
Lời nói đầu đăng trong tạp chí Niên giám Pháp - Đức được xuất bản tháng
2/1844 đã đánh dấu bước hoàn thành sự chuyển biến của Mác từ CNDT sang
CNDV. Trong các tác phẩm này, Mác đã dứt khoát đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy
tâm và chống lại lãnh tụ của phái Hegel trẻ là Brunô Baue. Các tác phẩm này

chứa đựng những tư tưởng duy vật sâu sắc.
Tờ Niên giám Pháp - Đức thời gian đó cũng đăng những tác phẩm của
Ăngghen gửi từ Mansester đến như: "Phác thảo góp phần phê phán kinh tế học
chính trị"; "Tô mát Các lây"; "Quá khứ và hiện tại". Vào hồi ấy, Ăngghen cũng
hoàn thành việc chuyển biến tư tưởng từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy
vật biện chứng và từ chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa
học.
Nhìn chung, đến năm 1844, thông qua việc nghiên cứu lý luận gắn với cuộc
đấu tranh chính trị thực tiễn, Mác & Ăngghen đã hoàn thành việc chuyển từ
CNDT và dân chủ cách mạng sang CNDV và chủ nghĩa xã hội khoa học để sau
đó từng bước xây dựng quan điểm triết học mới. Điều này thể hiện một cách
trực tiếp là sự tách khỏi (đoạn tuyệt) với triết học Hegel và phái Hegel trẻ để trở
thành một khuynh hướng độc lập.
b. Thời kỳ đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử.

10


Thỏi gian từ 1844 đến 1848là thời kỳ Mác & Ăngghen cộng tác cùng nhau
tùng bước xây dựng những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử.
Năm 1844 Mác bắt đầu việc nghiên cứu có tính phê phán kinh tế - chính trị
học cổ điển Anh trên lập trường của chủ nghĩa xã hội. Kết quả của việc nghiên
cứu đó được thể hiện trong tác phẩm chưa hoàn thành có tên là Bản thảo kinh tế
triết học năm 1844. Trong tác phẩm này, Mác đã khởi thảo những nguyên lý
xuất phát của CNDVBC & CNDVLS, áp dụng chúng vào việc nghiên cứu kinh
tế chính trị học và luận chứng cho thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. Ở tác phẩm
này, tuy vẫn còn chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc,
nhưng những nguyên lý quan trọng nhất lại chứng tỏ rằng, về cơ bản, Mác đã

khắc phục được hạn chế của triết học Phoiơbắc.
Đồng thời với Mác, những quan điểm triết học và chính trị của Ăngghen
cũng phát triển thêm. Năm 1844, Ăngghen sống ở Anh. Ông đã tiếp xúc với
phong trào công nhân, tìm hiểu đời sống của công nhân và viết tác phẩm: "Tình
cảnh của giai cấp công nhân Anh" (viết cuối năm 1844- đầu năm 1845, xuất bản
năm 1845).
Như vậy, đến cuối năm 1844, Mác & Ăngghen hoạt động độc lập với nhau
nhưng đã đi đến những quan điểm giống nhau trên nhiều vấn đề cơ bản của triết
học, của đời sống xã hội và nhiệm vụ của giai cấp vô sản. Một trong những đặc
điểm nổi bật của quá trình này là sự chuyển hướng hoàn toàn từ CNDT sang
CNDVBC và từ lập trường chính trị dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội
khoa học.
Từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1844, Mác & Ăngghen viết chung tác phẩm
"Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính phê phán. Chống
Brunô Bauơ và đồng bọn" xuất bản vào tháng 2/1945. Trong tác phẩm này, Mác
& Ăngghen đã phê phán một cách có hệ thống quan điểm sai lầm duy tâm về
lịch sử của phái Hegel trẻ, đứng đầu là anh em nhà Bauơ. Vạch rõ ranh giới giữa
11


mình với phái Hegel trẻ về quan điểm triết học và chính trị, từ đó, trình bày
những nguyên lý của CNDVBC & CNDVLS.
Cùng với việc xuất bản tác phẩm "Gia đình thần thánh..." đầu năm 1845,
Mác viết "Luận cương về Phoiơbắc". Trong tác phẩm này, Mác đã vạch rõ
những thiếu sót cơ bản của chủ nghĩa duy vật trước Mác bao gồm cả triết học
của Phoiơbắc.
Năm 1845- 1846 hai ông đã viết chung tác phẩm: "Hệ tư tưởng Đức" (bắt
đầu từ tháng 11/1845 và hoàn thành vào tháng 4/1846). Đây là tác phẩm triết
học quan trọng của Mác & Ăngghen, đánh dấu bước tiến mới trong thời kỳ hình
thành chủ nghĩa Mác.

Vừa tích cực hoạt động khoa học và lý luận, Mác và Ăngghen vừa tích cực
tham gia hoạt động thực tiễn nhằm thành lập đảng cộng sản. Năm 1847 tổ chức
đó được hình thành với tên gọi là "Đồng minh những người cộng sản" mà cương
lĩnh của nó được Mác-ăngghen soạn thảo từ tháng 12/1847 đến tháng giêng
1848với tên gọi "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản". Đây là văn kiện có tính chất
cương lĩnh đầu tiên của thế giới quan mác-xit, hoàn thành quá trình hình thành
chủ nghĩa Mác và cơ sở triết học của nó: chủ nghĩa duy vật biện chứng (bao
gồm cả chủ nghĩa duy vật lịch sử). Lênin nhận xét rằng, trong tác phẩm này đã
trình bày hết sức rõ ràng thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật triệt để bao trùm
cả lĩnh vực đời sống xã hội, phép biện chứng như là học thuyết về sự phát triển,
lý luận đấu tranh giai cấp và vai trò cách mạng có tính lịch sử toàn thế giới của
giai cấp vô sản- giai cấp sáng tạo ra xã hội mới.
c. Thời kỳ Mác và Ăngghen tiếp tục bổ sung và phát triển những quan
điểm triết học của mình.
Sau năm 1848,tình hình kinh tế, chính trị xã hội có bước chuyển biến mới.
Các quan điểm triết học và thế giới quan triết học mới của Mác và Ăngghen
được tiếp tục phát triển trong các tác phẩm tiếp theo.

12


Trong những năm 1848- 1852 Mác và Ăngghen đã xuất bản một loạt tác
phẩm, tổng kết kinh nghiệm cách mạng như: Đấu tranh giai cấp ở Pháp 18481850 (Mác viết từ tháng 1 - 3/1850), Ngày mười tám tháng sương mù của Lui
Bônapác (Mác viết từ tháng 12/1851 đến tháng 3/1752); Cách mạng và phản
cách mạng ở Đức (Ph.Ăngghen viết vào năm 1851 - l852). Trong các tác phẩm
này, chủ yếu các ông phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là học thuyết về chuyên chính vô sản và cách mạng.
Trong nửa cuối những năm 50, Mác ráo riết nghiên cứu kinh tế chính trị
học. Nhiều vấn đề triết học, đặc biệt là những vấn đề phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử được Mác phát triển trong các tác phẩm nghiên cứu

kinh tế - chính trị, đặc biệt là trong Tư bản (tập I được xuất bản vào năm l867).
Hai ông đã vận dụng các nguyên lý của CNDVBC & CNDVLS như là cơ sở
phương pháp luận khoa học để nghiên cứu những vấn đề kinh tế, chính trị, xã
hội, phát hiện ra những quy luật chi phối sự vận động phát triển của xã hội nói
chung và xã hội tư bản nói riêng.
Thời kỳ Công xã Pari (1871) Mác viết Nội chiến ở Pháp nhằm tổng kết
kinh nghiệm đấu tranh của Công xã và tiếp tục phát triển những nguyên lý của
CNDVLS về các vấn đề nhà nước, cách mạng. Từ sau 1871, Mác chủ yếu đi vào
nghiên cứu các vấn đề lý luận kinh tế - chính trị, tiếp tục viết tác phẩm "Tư bản",
còn Ph.Ăngghen đi vào các vấn đề lý luận của khoa học tự nhiên.
Năm 1875, Mác viết tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gôta. Đây là tác phẩm
lý luận quan trọng bậc nhất của chủ nghĩa Mác sau "Tuyên ngôn Đảng cộng sản"
và bộ "Tư bản". Trong tác phẩm này, Mác làm sâu sắc và phong phú hơn học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, phát triển hơn nữa học thuyết mác xít về nhà
nước và cách mạng; ông đã đưa ra và luận chủng về tính tất yếu lịch sử của một
thời kỳ quá độ đặc biệt từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Tác phẩm Ông Đuyrinh đảo lộn khoa học (chống Đuyrinh) của Ăngghen
được viết từ năm 1876 - 1878có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển triết
học Mác và chủ nghĩa Mác nói chung. Trong tác phẩm này, Ăngghen đã khái
13


quát lịch sử phát triển của triết học từ cổ đại, khái quát các thành tựu của khoa
học tự nhiên đến giữa thế kỷ XIX để luận chứng một cách sâu sắc và rõ ràng
những nguyên lý của triết học mác xít, những phạm trù, những quy luật của
phép biện chứng duy vật của CNDVBC & CNDVLS. Quan điểm duy vật biện
chứng trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học thể hiện một cách sâu
sắc. Ông đã phát triển những luận điểm cơ bản của triết học duy vật đưa ra định
nghĩa kinh điển về vận động của vật chất và phép biện chứng. Cuốn sách có một
ý nghĩa to lớn, được coi như cuốn tóm tắt có tính chất bách khoa về quan niệm

của Mác & Ăngghen đối với các vấn đề triết học, khoa học tự nhiên và lịch sử.
Trong khoảng thời gian từ năm 1873 đến năm 1883, Ph.Ăngghen viết tác
phẩm triết học nổi tiếng: Biện chứng cửa tự nhiên.
Trong Biện chứng của tự nhiên Ăngghen cũng thử phân loại các hình thức
vận động của vật chất. Điều này có một ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Về thực chất, Ăngghen trình bày giả thuyết về mối
liên hệ phổ biến và sự phát triển của thế giới vật chất, và cố gắng phác hoạ một
sơ đồ về bức tranh của giới tự nhiên.
Sau khi Mác mất (l883), Ph.Ăngghen một mặt, tập trung sức lực và trí tuệ
chuẩn bị cho việc xuất bản tập 2 và tập 3 bộ"Tư bản". Mặt khác, tiếp tục lãnh
đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và hoàn thành các tác phẩm
triết học quan trọng của mình, trong đó đặc biệt có tác phẩm Nguồn gốc của gia
đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước (1884) và Lutvích Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức (1886)
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà
nước, Ăngghen dựa vào những tài liệu của Moocgăng để phát triển quan điểm
duy vật biện chứng về lịch sử xã hội nguyên thuỷ và quá trình chuyển biến từ xã
hội không giai cấp sang xã hội có giai cấp. Ăngghen chứng minh rằng, sự phát
triển của sản xuất vật chất đã làm cho chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã và hình
thành xã hội có giai cấp dựa trên sở hữu tư nhân.
14


Trong tác phẩm Lutvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển
Đức, Ăngghen đã trình bày một cách rõ ràng quá trình phát sinh và phát triển
của thế giới quan mác xít. Chỉ rõ nguồn gốc triết học của thế giới quan vô sản,
nhấn mạnh sự khác nhau về nguyên tắc giữa thế giới quan mới này với những
học thuyết triết học trước đó; Phân tích ý nghĩa lịch sử, những thiếu sót của triết
học Hegel và Phoiơbắc, đồng thời trình bày những nguyên lý của CNDVBC &
CNDVLS một cách có hệ thống, khúc chiết, rõ ràng. Đây là tác phẩm khẳng

định sự chín muồi của thế giới quan triết học mác xít.
2. Thời kỳ Lê nin
V.I. Lênin (1870 - 1924) đã phát triển triết học Mác lên một giai đoạn mới
cao hơn, phản ánh yêu cầu của thời đại mới.
Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác được chia thành hai thời
kỳ chủ yếu: Một là thời kỳ 1893 - 1907 và hai là thời kỳ 1907 đến 1917 và sau
đó.
Thời kỳ 1893 – 1907 là thời kỳ Lênin tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết
chống phái dân tuý, chông chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình của nó,
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong thời kỳ này, Lênin đã viết hàng loạt tác phẩm quan trọng như:
Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ
- xã hội ra sao ? (1894); Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân túy và sự phê phán
trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó (1894); Chúng ta từ bỏ di sản
nào? (l897); Làm gì? (1902); Hai sách lược của Đảng dân chủ- xã hội trong
cách mạng dân chủ (1905) v.v.
Lênin đã phát triển nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung và
triết học Mác nói riêng, gắn việc phát triển lý luận với thực tiễn phong trào đấu
tranh cách mạng của công nhân Nga, chống lại sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác dưới
nhiều hình thức khác nhau, tạo điều kiện cho sự phát triển ở thời kỳ sau.

15


Thời kỳ 1907 – 1917, Lênin đã tiến hành cuộc đấu tranh kiên quyết chống
lại mọi trào lưu triết học phản mác xít, bảo vệ và phát triển triết học Mác. Năm
1908 người viết tác phẩm triết học nổi tiếng: Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán (xuất bản tháng 5/1909). Ông đã khái quát về mặt triết
học những thành tựu mới nhất của KHTN, phê phán toàn diện triết học duy tâm
và chủ nghĩa xét lại trong triết học, phát triển lý luận duy vật biện chứng về nhận

thức.
Từ sau thời kỳ thoái trào của cuộc cách mạng 1905 - 1907 đến trước Chiến
tranh thế giới thứ nhất (1914- 1918), Lênin còn viết nhiều tác phẩm bảo vệ và
phát triển triết học Mác. Trong đó, các tác phẩm: Ba nguồn gốc và ba bộ phận
cấu thành của CN Mác; Số phận lịch sử học thuyết Mác; Các Mác. v. v đã làm
nổi bật ý nghĩa to lớn của triết học Mác đối với việc cải tạo thế giới.
Trong thời gian từ 1914 - 1916, Lênin viết tác phẩm "Bút kí triết học". Vấn
đề phép biện chứng là tư tưởng trung tâm của tác phẩm. Lênin coi phép biện
chứng là khoa học về sự phát triển. Trong "Bút ký triết học", Lênin cũng tiếp tục
làm sâu sắc và chính xác hơn những quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy
vật; nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận
nhận thức, vạch ra nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là do không vận
dụng phép biện chứng vào quá trình nhận thức, tuyệt đối hoá một giai đoạn, một
mặt nào đó của quá trình nhận thức.v..v. Đó là những cống hiến vô giá vào kho
tàng triết học Mác.
Cùng với "Bút ký triết học", trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần I, Lênin
còn viết các tác phẩm như: "Bàn về khẩu hiệu liên bang châu Âu" (1915); Chủ
nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của CNTB (1916); Nhà nước và cách mạng
(1917). Trong các tác phẩm đó, Lênin đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào
việc phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội đang có nhiều biến đổi, vạch ra
tính biện chứng đặc thù của quy luật phát triển xã hội, chống lại các quan điểm
sai lầm của bọn cơ hội trong quốc tế II.

16


Ngay đêm trước của cuộc cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin viết tác
phẩm Nhà nước và cách mạng (l 917), trong đó, Người đã làm phong phú thêm
lý luận về nhà nước và cách mạng của chủ nghĩa Mác.
Sau cách mạng tháng Mười, để bảo vệ và phát triển phép biện chứng mác

xít, Lênin đã tiến hành cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống phép siêu
hình, chủ nghĩa chiết trung và thuyết nguỵ biện. Điều đó được thể hiện rõ trong
các tác phẩm Lênin viết ở thời kỳ này như: "Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong
trào cộng sản (l920)"; "Lại bàn về công đoàn, về tình hình trước mắt và về
những sai lầm của các đồng chí Tơrôtxki và Bukharin (1921) "; "Về chính sách
kinh tế mới" (1921).
Đặc biệt, cần phải kể đến bài báo của Lênin viết năm 1922: Về tác dụng
của chủ nghĩa duy vật chiến đấu - có thể coi là di chúc triết học của Lênin.

17


KẾT LUẬN
Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát triển từ phép
biện chứng cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hê ghen của triết học cổ
điển Đức và đạt tới đỉnh cao là phép biện chứng duy vật mác xít thì phép biện
chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khóa giúp con người nhận thức và cải tạo
thế giới để phục vụ nhu chính bản thân con người.
Thực tiễn cách mạng chứng minh sự cần thiết phải nghiên cứu và vận dụng
phép biện chứng duy vật mác xít vào hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực
của con người. Điều này đặt ra một nhu cầu tất yếu của lịch sử nhân loại là tiếp
tục phát triển và hoàn thiện phép biện chứng duy vật mác xít cho phù hợp với
điều kiện mới…Với tính chất cách mạng và khoa học của mình, phép biện
chứng duy vật đã mở ra một phương pháp nhận thức thế giới toàn diện nhất và
khoa học nhất cho lịch sử nhân loại mãi về sau.
Việc nghiên cứu sự hình thành và phát triển của phép biện chứng duy vật
Mác - Lê nin là một việc làm cần thiết, không chỉ có ý nghĩa lý luận sâu sắc mà
còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn.

18




×