Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Tài liệu Tiểu luận - Sự hình thành và phát triển xã hội học Đức cuối thê kỷ XIX đầu thế kỷ XX docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.06 KB, 40 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC

MÔN : LỊCH SỦ XÃ HỘI HỌC
BÀI TIỂU LUẬN:
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI HỌC ĐỨC
CUỐI THẾ KỈ XIX ĐẦU THẾ KỈ XX

GV:TS.VŨ QUANG HÀ
SV: TRẦN QUYẾT THẮNG
MSSV:0769141
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THÁNG 06 NĂM 2009
2
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
MỤC LỤC
PHẦN NỘI DUNG 6
I. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI NƯỚC ĐỨC 6
1.1. Điều kiện về kinh tế 6
1.2. Về chính trị 7
1.3 Về xã hội 9
II MỘT SỐ NHÀ TƯ TƯỞNG CỦA XÃ HỘI HỌC 9
1.G. W.F.Hegel 9
2. Ludwig Feuerbach 11
3. Karl Marx (1818-1883) 12
3.1. Sơ lược tiểu sử 12
3.2. Lý luận học thuyết Marx 14
3.3. Quan niệm của học thuyết Marx về bản chất của xã hội và con người 16
3.4. Quy luật phát triển lịch sử xã hội 18
3.5. Những tư tưởng của Marx ảnh hưởng tới sự phát triển của Xã hội học Đức vào


đầu thế kỉ XX 21
4. Max Weber: (1864-1920) 22
4.1. Sơ lược về tiểu sử của Max Weber 22
4.2. Những quan niệm và lý thuyết của Max Weber 24
4.3. Quan niệm của Max Weber về Xã hội học 26
4. Lý thuyết về hành động xã hội của Weber 28
5. Lý thuyết chủ nghĩa tư bản của Max Weber 30
6. Lý thuyết phân tầng xã hội 32
7. Tư tưởng của Weber có ảnh hưởng đối với Xã hội học Đức vào đầu thế kỉ XX. .36
PHẦN KẾT LUẬN 38
CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
3
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
MỞ ĐẦU
Nói đến nước Đức là người ta thường nhắc tới nền triết học cổ điển
Đức, nó gắn liền với tên tuổi như kant, Hegel, Feuerbach. Chính triết học cổ
điển Đức cũng là điều kiện, nền tảng, là tiền đề cho sự hình thành Xã hội
học ở nước Đức.
Xã hội học Đức sinh ra trong một tương tác phức tạp giữa lý thuyết
Marx và nhiều dòng tư tưởng khác. Nhân vật tiêu biểu hàng đầu của Xã hội
học Đức thời kì đầu là Max Weber và Georg simmel.
Xã hội học ở Đức được hình thành tương đối sớm, nhưng nó thật sự
phát triển và được nhắc tới nhiều là vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, gắn
liền với tên tuổi của Marx và Max Weber và chính cả hai nhân vật tên tuổi
này đều xuất phát là một nhà triết học, kinh tế học, chính trị học…nhưng do
những thay đổi mạnh mẽ về kinh tế của nước Đức đã kéo theo những biến
đổi mạnh mẽ về xã hội điều đó đã thu hút các ông nghiên cứu những vấn đề
có liên quan đến sự vận động và biến đổi xã hội. Điều đó được thể hiện qua
các lý thuyết xã hội, Marx thì cho ra đời những lý thuyết như: lý thuyết xung
đột, lý thuyết hình thái kinh tế xã hội, lý thuyết phân tầng xã hội…, còn Max

Weber cho ra dời những lý thuyết như; lý thuyết về hành động xã hội, lý
thuyết về phân tầng xã hội.
Những đóng góp của các ông trong sự hình thành và phát triển của
Xã hội học Đức, đặc biệt là Xã hội học Đức ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX là rất lớn. Mặc dù vậy những quan điểm và lý thuyết của các ông đều
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
chịu ảnh hưởng của triết học cổ điển Đức gắn với những nhân vật như kant,
hegel, feuer bach. ảnh hưởng của kant đối với Weber và Xã hội học Đức,
nhìn chung cho thấy Xã hội học Đức và chủ nghĩa Marx có những nguồn
gốc triết học khác nhau, như chúng ta thấy chính hegel không phải là kant là
tác nhân quan trọng đối với lý thuyết Marx và những người Marxist đi tìm
mỗi quan hệ các xung đột và mâu thuẫn, thì triết học kant ít nhất đã dẫn dắt
một số nhà Xã hội học Đức tìm kiếm tiền đồ trong những bối cảnh ổn định
hơn.
Tuy vậy trong khuôn khổ là một bài tiểu luận nhỏ nên Tôi chỉ nêu ra
những tư tưởng của hegel và Feuer bach đây là hai nhân vật có tác đông và
ảnh hưởng mạnh mẽ tới quan điểm và lý thuyết của Marx và Max Weber
cũng như đối với Xã hội học Đức sau này.
5
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
PHẦN NỘI DUNG
I. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI NƯỚC ĐỨC
1.1. Điều kiện về kinh tế
Chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng, vuơn lên đứng hàng thứ hai
của thế giới, trong giai đoạn này ở nước Đức đầu xuất hiện các công ty độc
quyền.
Từ những năm 70 của thế kỉ XIX, nước Đức đã trở thành một nước
thống nhất,đức đã áp dụng được những kinh nghiệm và phát minh kỹ thuật
mới nhất trong sản xuất. nền kinh tế nước Đức lớn lên nhanh chóng. Từ một
nước nông nghiệp, Đức dần dần trở thành một nước công nghiệp quan trọng

ở Châu Âu. Và thế giới. sản lượng các nghành công nghiệp nặng tăng lên
nhanh chóng, chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng sản lượng thế giới, các nghành
công nghiệp mới như điện, hóa chất tăng mạnh mẽ, chiếm vị trí hàng đầu
Châu Âu.
Sự phát trển nhanh chóng của công nghiệp đưa tới hiện tượng tập
trung sản xuất và hình thành các tổ chức lũng đoạn sớm hơn các nước khác.
Hình thức lũng đoạn phổ biến nhất là các ten và xanhđica.
Bên cạnh công nghiệp hiện đại, Đức còn duy trì thủ công nghiệp trong
thời gian khá lâu. Nông nghiệp nước Đức cũng có những bước tiến bộ,
nhưng chậm chạp vì sự tiến hành không triệt để của cuộc cách mạng dân chủ
tư sản.
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
Đến đầu thế kỉ XX, tốc độ phát triển của công nghiệp Đức có những
bức chuyển biến mạnh mẽ, về tổng sản lượng cũng như về những nghành cơ
bản, Đức đứng vào hàng đầu châu âu và thứ hai trên thế giới.
Thu hoạch nông nghiệp cũng tăng nhanh chóng trên cơ sở cơ giới hóa
lao động và sử phân bón hóa học. Quá trình tập trung sản xuất và hình thành
những tổ chức lũng đoạn được đẩy mạnh trên quy mô rất lớn, số cacsten
tăng lên nhanh chóng năm 1905 có 385 đến 1911 có 550-600. Lực lượng
kinh tế nước Đức tập trung trong tay 3 chục “vua công nghiêp” như
krup,titxen,ximen…giai cấp tư sản Đức còn chú ý xuất khẩu ra nước ngoài
chủ yếu là đông Nam Âu, Cận Đông và Nam Mỹ.
1.2. Về chính trị
Nước Đức xuất hiện liên bang chế độ quân chủ lập hiến, Đức dùng
sức mạnh quân sự để đàn áp nhân đân và gây chiến tranh thống trị thế giới.
Đế quốc Đức là một quốc gia có nền độc tài quân sự được tổ chức
theo lối quan liêu, được bảo vệ bằng cảnh sát, được trang sức bằng những
hình thức nghị viện,với một mớ hỗn hợp những yếu tố phong kiến và đồng
thời chịu ảnh hưởng của giai cấp tư sản.
Cuối thế kỉ XIX ở nước Đức lúc này hình thành ra các Đảng. Đảng

bảo thủ đại diện cho quyền lợi của địa vị quý tộc địa chủ vùng đông phổ.một
bộ phận của Đảng bảo thủ tách ra thành Đảng đế quốc hay Đảng bảo thủ tự
do, đại diện cho lợi ích của đại địa chủ, tổ chức nhà thờ thành lập Đảng,
“trung tâm cơ đốc giáo” các Đảng trên đều đứng trên lập trường của giai cấp
bóc lột, bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.
7
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
Cuối thế kỉ XIX giai cấp công nhân Đức bị bốc lột năng nề, đồng
lương thấp, điều kiện lao động khắc khổ, phong trào đấu tranh đòi cải thiện
đời sống phát triển mạnh, nhưng mang lại ít hiệu quả.
Năm 1875, phái Aidơ Năc và phái Lat Xan đã họp đại hội ở thành phố
Gôta thành lập ra một chính Đảng thống nhất lấy tên là Đảng thống nhất lấy
tên “Đảng công nhân xã hội dân chủ Đức” đưa ra cương lĩnh Gôta, những
cương lĩnh nó thể hiện tính chất cơ hội chủ nghĩa bị phê phán.
Phong trào công nhân và đảng của gia cấp công nhân Bix Mac đại
diện cho sự cấu kết của hai tập đoàn tư bản và Gioongke tấn công mạnh và
người lãnh đạo Đảng tuyên bố giải tán Đảng, năm 1890 Đảng xã hội dân chủ
lại ra hoạt động công khai, nhiều cuộc biểu tình nổ ra và họ thông qua cương
lĩnh mới tiến bộ hơn cương lĩnh Gota.
Đầu thế kỉ XX, phong trào công nhân Đức đạt tới đỉnh cao mới. Nhiều
cuộc bãi công nổ ra và số lượng người tham gia tăng. Những tin tức của
cuộc Cách mạng Nga 01/1905 lan truyền nhanh sang Đức, làn sóng đấu
tranh ở nước Đức lại bùng lên mạnh mẽ.
Đầu thế kỉ XX, mâu thuẫn giữa các đế quốc ngày càng gay gắt. Đức
đã chuẩn bị kế hoạch chiến tranh chống Nga và Pháp. Việc tăng ngân sách
quân sự và các hoạt động chiến tranh đè lên vai quần chúng, thuế khóa tăng,
ngày làm vệc kéo dài, giá sinh hoạt lên cao, đời sống rất khó khăn, nhiều
cuộc đấu tranh của công nhân bùng nổ, có khả năng dấn tới một cuộc cách
mạng. Những Đảng xã hội dân chủ Đức không lãnh đạo dược quần chúng
tiến lên hoạt động cách mạng, hơn nữa các lãnh tụ Đảng lại đầu hàng bọn cơ

hội làm suy yếu lực lượng của giai cáp công nhân.
8
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
1.3 Về xã hội
Nhà nước đế quốc Đức được thành lập sau khi cuộc đấu tranh thống
nhất thắng lợi. Vua là người đứng đầu nhà nước. Nhà vua có quyền rất lớn
như thống lĩnh quân độ, bổ nhiệm và cách chức chức thủ tướng, ký ước,
ngoại dao, tuyên chiến…vua có quyền triệu tập, giải tán và hoãn các phiên
họp của hội đồng liên bang và quốc hội…
Vai trò của quý tộc Giooke (quý tộc tư sản hóa)còn rất lớn, thế lực
kinh tế của quý tộc khá mạnh, nhất là miền đông phổ. Hầu hết đất đai ở
trong tay họ, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho nông thôn phân hóa
sâu sắc, phần lớn nông dân nghèo túng hay phá sản phải đi làm thuê. Cho
các địa chủ, phú nông hoặc đi làm ăn ở các cơ sở công nghiệp, do vậy giai
cấp công nhân Đức rất lớn mạnh.
Đại đa số quần chúng nhân dân bị bóc lột nặng nề, bị tước đoạt quyền
tuyển cử, bị gạt ra ngoài sinh hoạt chính trị của nhà nước. Giai cấp tư sản
công nghiệp lớn mạnh, có vai trò rất lớn trong nền kinh tế và chính trị của
nước Đức.
II MỘT SỐ NHÀ TƯ TƯỞNG CỦA XÃ HỘI HỌC
1.G. W.F.Hegel
Hegel là một trong những nhân vật có ảnh hưởng về tri thức đối với
Marx, quan điểm triết học to lớn của của ông đã dạy cho những người người
Đức trong đó có Marx cách thảo luận về lịch sử , chính trị văn hóa.
Hai khái niệm nền tảng của Hegel là phép biến chứng và chủ nghĩa
duy tâm. Tư tưởng về phép biến chứng rất phức tạp, phếp biến chứng vừa là
một phương pháp tư duy, vừa là một cách hình dung về thế giới. Ở mặt này,
9
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
nó là cách thức tư duy nhấn mạnh sự quan trọng của các tiến trình, các mối

quan hệ, các động lực các xung đột và các mâu thuẫn một phương thức tư
duy năng động chứ không phải là tĩnh tại về thế giớ. Ơ mặt kia, nó nhìn nhận
rằng, thế giới được tạo nên không phải là một cấu trúc bất động mà là từ cấc
tiến trình các mỗi quan hệ, các động lực, các xung đột và mâu thuẫn.
Hegel gắn liền với trết học duy tâm, nhấn mạnh đến quan trọng của trí
tuệ và các sản phẩm tinh thần hơn là thế giới vật chất, cái đáng lưu tâm nhất
là các định nghĩa xã hội về các định nghĩa về vật lý và vật chất chứ không
phải về chính bản thân chúng, ở hình thức cực đoan, chủ nghĩa duy tâm
khẳng định rằng chỉ có trí tuệ và các thiết chế tâm lý là tồn tại. Hegel rất lưu
tâm đến sự phát triển của những tư tưởng đó, đặc biệt là cái mà ông cho rằng
“tinh thần” của xã hội.
Hegel đề ra một loạt thuyết tiến hóa của thế giới trong phạm vi tư
tưởng. Đầu tiên mọi người chỉ được phú cho khả năng đạt được một sự hiểu
biết cảm tính về thế giới xung quanh họ. Họ có thể hiểu sự vật bằng cách
nhìn, ngửi, cảm nhận về vật lý xã hội. Sau đó người ta phát triển năng lực
nhận thức để hiểu biết chính bản thân họ. Với sự tự nhận biết và thấu hiểu
bản thân, mọi người bắt đầu hiểu rằng họ có thể trở nên khá hơn trước đây.
Ở phạm vi phép biến chứng của Hegel một mỗi mâu thuẫn phát triển dần
giữa cái mà mọi người đã từng làm và cái mà họ cảm thấy họ có khả năng
trở nên. Giải pháp của mâu thuẫn này nằm trong sự phát triển của nhận thức
của một cá thể về vị trí của mình trong tinh thần to lớn của xã hội.
Hegel đề ra một lý thuyết chung về sự tiến hóa của thế giới, đó là một
lý thuyết duy tâm chủ quan, trong đó sự thay đổi được tác động để xảy ra ở
10
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
cấp độ ý thức. Tuy nhiên sự thay đổi này xảy ra một cách rộng lớn và nằm
ngoài sự kiểm soát của những người thực hiện. Những người thực hiện bị
giảm thiểu, thành những dòng chảy bị cuốn theo chiều tiến hóa không thể
cưỡng lại của ý thức.
2. Ludwig Feuerbach

Ông là một chiếc cầu nối quan trọng giữa Marx và Hegel, là một
người thuộc phái Hegel trẻ Feuerbach phê phán Hegel về sự đề cao thái quá
của ông đối với ý thức và tinh thần xã hộ.quan điểm của Feurebach về triết
học duy vật, dẫn ông ta tới lý luận rằng, diều cần thiết là phải chuyển từ chủ
nghĩa duy tâm chủ quan của Hegel sang một trọng tâm không phải về các ý
tưởng mà về thực tiễn duy vật của con người trong thực tại.
Trong các bài viết phê phán Hegel của Feuerbach ông tập trung vào
tôn giáo, theo Feuerbach thượng đế chỉ đơn giản là một hình ảnh phóng
chiếu của mọi người đối vớ bản chất con người của họ vào một lực lượng
phi nhân hóa. Mọi người đặt thuợng đế lên cao trên đầu họ và kết quả là họ
trở nên tha hóa khỏi thượng đế và tạo ra một loạt các đặc tính tích cực cho
thượng đế. Trông khi họ tự hạ thấp mình xuống, trở nên không hoàn thiện,
không quyền nằng, và đầy tội lỗi. Feuerbach lý luận rằng, kiểu tôn giáo này
phải dược khắc phục và việc đánh bại nó có thể phải được hỗ trợ bằng một
triết học duy vật, trong đó mọi người trở nên đối tượng cao nhất của riêng
họ, tự bản thân họ là đỉnh điểm. Chính con người thực sự chứ không phải
các ý tưởng trìu tượng như tôn giáo, cần được thần thánh hóa bởi một hệ
thống triết học duy vật.
11
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
3. Karl Marx (1818-1883)
3.1. Sơ lược tiểu sử
Karx Marx nhà triết học và kinh tế học của Đức mà nhà lý luận của
phong trào công nhân thế giới, nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa cộng sản khoa học, sinh ra ở Treves mất ở London.
Marx học lấy bằng tiến sĩ luật ở trường đại học tổng hợp Bonn, sau
học lấy bằng tiến sĩ triết học ở trường đại học tổng hợp Berlin. Sauk hi tốt
nghiệp năm 1841 Marx bắt đầu lấy Jenny Von Wesphaler và chuyển gia
đình tới Pari. Ông kết bạn với Friedrich Engels, con trai của một ông chủ
nhà máy dệt giàu có người Đức, làm quản lí trong một nhà máy dệt. Cả hai

người đã trở thành bạn chiến đấu thân thiết của nhau, cùng viết tuyên ngôn
Đảng cộng sản vào 1848 và cùng phát triển hoàn thiện học thuyết Marx.
Cuộc đời Marx là cuộc đời hoạt động cách mạng và hoạt động nghiên
cứu khoa học. Với tư cách là một nhà cách mạng lỗi lạc, Marx đã tham gia
tổ chức và lãnh đạo các hoạt động nhằm đấu tranh xóa bỏ chế độ người bóc
lột người, hướng tới xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong “Tuyên
ngôn Đảng cộng sản” năm 1848, Marx và Engels viết : “thay cho xã hội tư
sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một
liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tư do của tất cả mọi người”.
Theo Engels nhận xét rằng : “Hai phát hiện vĩ đại đó là quan niệm duy
vật lịch sử và việc bóc trần bí mật của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nhờ giá
trị thặng dư, là công lai của Marx. Nhờ hai phát hiện ấy, chủ nghĩa xã hội đã
12
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
trở thành một khoa học và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên
cứu trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ tương hỗ của nó”.
Các tác phẩm vĩ đại của Marx gồm có: “Gia đình thần thánh’’
(1845), “Sự khốn cùng của triết học’’: trả lời cuốn “Triết học về sự khốn
cùng của ông Pru – đông” (1847), “Tuyên ngôn Đảng cộng sản’’ (1848), góp
phần phê phán kinh tế chính trị (1859)…
Trong số di sản lý luận đồ sộ của Marx và Engels, Tuyên ngôn Đảng
cộng sản (1848) là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của những người
cộng sản trên toàn thế giới. Bộ tư bản phê phán khoa kinh tế chính trị (1867)
đã trình bày một cách khoa học các kết quả của sự phân tích sâu sắc phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích
ứng với phương thức ấy. Trong các tác phẩm của mình Marx vạch ra quy
luật lịch sử tự nhiên của sự vận động kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa và
chỉ ra con đường và xu hướng phát triển tất yếu của xã hội loài người là tiến
tới chủ nghĩa cộng sản. .

Marx không tự xem mình là một nhà Xã hội học, mặc dù công trình
của ông quá rộng lớn để có thể bao hàm phạm vi Xã hội học. Nhưng chúng
ta phát hiện một phạm vi Xã hội học trong công trình của ông. Ngay từ buổi
đầu, đã có những người chịu ảnh hưởng của Marx vấn đang tiếp tục có một
bộ phận Xã hội học Marxian. Nhưng đối với phần đông nhưng nhà Xã hội
học thời kì đầu, thường nhìn nhận những công trình của ông một cách phiến
diện, như một cái gì đó chống lại Xã hội học của họ. Mãi tới gần đây, lý
thuyết Xã hội học nhất là ở Mỹ, đã có sự tìm hiểu nghiên cứu lý thuyết
Marx.
13
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
3.2. Lý luận học thuyết Marx
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận và phương pháp luận Xã hội học
của Marx. Chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận Xã hội học của Marx. Các
tác phẩm của Marx chứa đựng hệ thống lý luận Xã hội học hoàn chỉnh cho
phép vận dụng để nghiên cứu bất kỳ một xã hội nào. Mặc dù Marx không tự
xem mình là nhà Xã hội học vĩ đại của mọi thời đại, là người đặt nền mõng
vững chắc cho sự phát triển của Xã hội học hiện đại. Quan niệm duy vật
biện chứng của Marx về các quá trình và hiện tượng xã hội là sự thống nhất
của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng về lịch sử và xã hội.
Luận điểm gốc của chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng: Sản xuất và
tiếp theo sau sản xuất là trao đổi sản phẩm của sản xuất là cơ sở của mọi chế
độ xã hội. Theo Marx nghiên cứu đời sống xã hội phải hướng vào phân tích
cuộc sống thực, phải xuất phát từ tiển đề - “là những cá nhân hiện thực, là
hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”. Tiền đề đầu
tiên của lịch sử của loài người là sự tồn tại của những cá nhân con người
sống, là “người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. Sự
tồn tại và cuộc sống của con người phụ thuộc vào việc con người sản xuất ra
cái gì và như thế và như thế nào, tức là bản chất của con người phụ thuộc
vào các điều kiện vật chất quy định sản xuất.

Xuất phát điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử là việc phân tích các quá
trình lịch sử xã hội từ góc độ hoạt động vật chất của con người từ góc độ cơ
sở kinh tế của xã hội, từ quan điểm tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Marx kế thừa có phê phán và phát triển sang tạo phép biện chứng của Hegel
trong nghiên cứu của giới tự nhiên, hiện thực xã hội và con người. Phép duy
vật biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ qua
14
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
lại trong mâu thuẫn và vận động, phát triển không ngừng của lịch sử xã hội.
Khi nghiên cứu cấu trúc xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa, Marx đặc biệt
chú trọng tới cơ cấu giai cấp và chỉ ra rằng với tư cách là một chỉnh thể, xã
hội tư bản chủ nghĩa gồm haiphe, hai giai cấp lớn đối mặt nhau là giai cấp tư
sản và giai cấp vô sản.
Theo quan điểm của Marx, các bộ phận của xã hội không chỉ tác động
qua lại với nhau mà còn mâu thuẫn, thậm chí đối kháng. Đó là nguồn gốc
thúc đẩy sự phát triển xã hội Marx chỉ ra rằng chế độ phong kiến mang lại
cho mình các quan hệ xã hội tất yếu dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Xã hội tư bản chứa đựng những quan hệ xã hội mâu thuẫn, đối kháng nhất
định sẽ đưa tới sự phát triển xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu xã hội. Một điểm cơ bản quan trọng của
phương pháp luận Xã hội học mà ta cần học tập từ tác phẩm của Marx. Marx
để lại cho chúng ta một mẫu mực về phương pháp nghiên cứu Khoa Học Xã
Hội trong bộ tư bản. Trong nghiên cứu đồ sộ này, Marx chỉ rõ rằng đối với
việc tìm hiểu, phân tích các sự vật và hiện tượng xã hội ta không thể dung
công cụ của Khoa Học Tự Nhiên như kính hiển vi hay các chất thử khoa
học. Đối với hiện trượng xã hội nhà khoa học cần phải phát huy sức mạnh
của trí tuệ, của tư duy trừu tượng, phải sử dụng và phát triển bộ công cụ gồm
các thuật ngữ, khái niệm, phạm trù khoa học.
Kế thừa di sản, phương pháp luận của Marx, Xã hội học hiện đại ra
sức phát triển và sử dụng sức trừu tượng hóa, thao tác hóa khái niệm, giả

định hóa để gạt sang một bên những hiện tượng bên ngoài và tập trung vào
15
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
nghiên cứu, vạch ra thuộc tính, bản chất bên trong của sự vật hiện tượng xã
hội.
3.3. Quan niệm của học thuyết Marx về bản chất của xã hội và con
người.
Lý luận Marx chỉ ra rằng bản chất của xã hội và con người bắt nguồn
từ quá trình sản xuất thực của xã hội, từ trong hoạt động làm ra của cải vật
chất, tức là từ trong lao động bản chất đó được thể hiện như sau:
+ Thứ nhất: Bản chất của các cá nhân và bản chất con người đều bị
quy định bởi hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Khác với động vật chỉ
biết sống nhờ vào những gì sẵn có trong tự nhiên, con người phải sản xuất ra
các phương tiện để tồn tại và để sống. Lao động không chỉ là nguồn gốc của
mọi của cải trong xã hội mà lao động còn tạo ra con người và tạo ra nhân
cách con người. Luận điểm này có ý nghĩa xã hội rất quan trọng, đó là cần
phân tích sự nảy sinh và diễn biến mối quan hệ giữa con người và con
người, giữa con người và xã hội trong việc sản xuất ra các phương tiện để
sinh tồn và phát triển.
+ Thứ hai: Cùng với việc sản xuất ra các phương tiện để thỏa mãn nhu
cầu tồn tại, con người không ngừng tạo ra các nhu cầu mới cao hơn. Marx
nhấn mạnh rằng sản xuất và tiêu dùng là hai mặt của quá trình sống. Sau khi
đã đáp ứng được các nhu cầu tối thiểu để tồn tại, con người phải nên văn
minh hơn với ý nghĩa là có điều kiện để bộc lộ các năng lực người tiềm tàng,
mà những năng lực đó không thể có ở động vật.
Marx đã vạch ra: Sự bóc lột và sự tha hóa lao động. Ông chỉ ra rằng
sự phân công lao động trong các xã hội đã không cho phép con người tự do
16
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
biểu hiện và phát triển các năng lực người của mình. Marx đã chỉ rõ: “Do sự

phát triển của việc dùng máy móc và phân công, nên lao động của người vô
sản mất hết tính chất độc lập do đó họ mất hết hứng thú, người công nhân
trở thành một vật phụ thuộc giản đơn của máy móc. Người ta chỉ đòi hỏi
người công nhân làm một việ đơn giản nhất, đơn điệu nhất, dễ học nhất mà
thôi”. Cách phân tích của Marx có ý nghĩa rất quan trọng đối với Xã hội học
hiện đại. “tha hóa lao động” trở thành một khái niệm cơ bản, một chủ đề
trọng tâm trong nghiên cứu Xã hội học hiện đại.
+ Thứ ba: Trình độ sản xuất của xã hội phụ thuộc vào sự phân công
lao động xã hội. Học thuyết Marx chỉ ra rằng: nhân tố quyết định lịch sử loài
người là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Do đó trình độ phát
triển của xã hội do trình độ phát triển của lao động và trình độ phát triển của
gia đình quyết định.
Cấu trúc phân tầng xã hội:
Lý luận của Marx vạch rõ tính giai cấp của xã hội và tính bất bình
đẳng trong quan hệ xã hội. Theo quan điểm của Marx: cơ sở của sự phân
chia giai cấp và sự phân tầng xã hội theo giai cấp là trình độ sản xuất còn
thấp. Marx chỉ ra rằng: chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sinh ra cấu
trúc phân tầng xã hội gồm hai tầng bậc. Trong cấu trúc xã hội như vậy, quan
hệ giữa hai phe nhóm, hai giai cấp này mang tính chất bất bình đẳng sâu sắc
về kinh tế, chin trị, văn hóa xã hội. Marx chỉ rõ trong xã hội tư bản chủ
nghĩa giai cấp tư sản và giai cấp những nhà tư bản hiện đại, những người sở
hữu tư liệu sản xuất xã hội và sử dụng lao động làm thuê.
17
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
Theo Marx cho rằng ở mọi xã hội, mọi thời đại ý thức được xã hội
bao gồm hệ tư tưởng, chính trị, pháp luật, đạo đức ,và quan niệm của con
người đều xuất hiện trong nền tảng sản xuất vật chất và đều biến đổi cùng
với sự thay đổi trong điều kiện sinh hoạt, trong quan hệ xã hội, trong đời
sống xã hội. Đối với một xã hội phân chia giai cấp, Marx khẳng định rằng:
“Tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của

giai cấp thống trị” và phục vụ cho giai cấp thống trị.
3.4. Quy luật phát triển lịch sử xã hội
Quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội.
Marx lập luận rằng: lịch sử xã hội loài người trải qua năm phương
thức sản xuất tương ứng với năm hình thái kinh tế xã hội và năm thời đại
lịch sử: cộng sản nguyên thủy; nô lệ; phong kiến; tư bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa. Học thuyết Marx về lịch sử tự nhiên của xã hội mở ra bước
ngoặt có tính cách mạng trong nhận thức của con người về sự phân chia giai
đoạn lịch sử. Marx đã thay thế quan niệm duy tâm về lịch sử xã hội, chẳng
hạn quan niệm về các thời đại, tôn giáo, bằng quan niệm duy vật về lịch sử
phát triển các giai đoạn kinh tế xã hội. Vượt lên trên tất cả các học thuyết
trước đó và đương thời, học thuyết Marx chỉ ra rằng: sự biến đổi xã hội và
sự phát triển lịch sử bắt nguồn từ hệ thống sản xuất, cơ cấu kinh tế xã hội.
Hình thái kinh tế xã hội và cấu trúc xã hội
Quy luật phát triển lịch sử xã hội được làm sang tỏ qua một hệ thống
các khái niệm quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong số đó
khái niệm hình thái kinh tế xã hội, tư liệu sản xuất, quan hệ sản xuất, lực
lượng sản xuất, phương thức sản xuất và các khái niệm khác, Marx cho rằng:
18
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
Chính chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là cơ sở phân chia xã hội
thành cơ cấu giai cấp, gồm một bên là những người không sở hữu và một
bên là những người không sở hữu tư liệu sản xuất, điều này quy định tính
chất của quan hệ sản xuất, tức là quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất.
Qua phân tích quan hệ sản xuất xã hội, Marx chỉ ra một đặc điểm
quan trọng, đặc biệt là Xã hội học đó là quan hệ sản xuất có thể trở thành
mối quan hệ cơ bản trong xã hội được hợp pháp hóa và thiết chế hóa qua hệ
thống chính trị, luật pháp, tư tưởng văn hóa. Marx và Engel nhận định rằng
toàn bộ lịch sử xã hội loài người là cuộc đấu tranh giai cấp. Marx khẳng

định rằng: những quy luật tự nhiên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa nói
riêng, của sự vận động xã hội nói chung đang tác động và đang được thực
hiện với một tất yếu gang thép do vậy Marx viết: “Một bước phải học hỏi và
có thể học hỏi ở các nước khác. Một xã hội, ngay cả khi phát hiện các quy
luật tự nhiên của sự vận động của nó cũng không thể nào nhảy qua các giai
đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó.
Nhưng nó có thể rút ngắn và làm dịu bớt được những cơn đau của sự biến
đổi quan hệ xã hội trên từng bước phát triển của nó.
Học thuyết Marx nói chung và chủ nghĩa duy vật nói riêng có ý nghĩa
và tầm quan trọng vô cùng to lớn đối với lý luận Xã hội học nói riêng và các
Khoa Học Xã Hội nói chung, học thuyết Marx là cơ sở lý luận, hệ tư tưởng
và phương pháp luận của nền Xã hội học Mác xít. Lý luận Xã hội học Marx
được quan tâm và nghiên cứu một cách rộng rãi, công lao của Marx đối với
sự hình thành và phát triển Xã hội học hiện đại thật là to lớn, các nhà Xã hội
19
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
học khắp nơi trên thế giới đều nhất trí thừa nhận sự đóng góp vĩ đại cho học
thuyết Marx đối với nhân loại. Học thuyết Marx là học thuyết vạn năng vì
nó là học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ, nó
cung cấp cho con người ta một thế giới quan hoàn chỉnh. Nó là người thừa
kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất và loài người đã tạo ra hồi
thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã
hội Pháp.
Các quan niệm của Marx về lịch sử xã hội và cấu trúc xã hội tào thành
bộ khung lý luận và phương pháp luận nghiên cứu Xã hội học theo nhiều
hướng khác nhau, chẳng hạn Xã hội học Marx ảnh hưởng tới trường phái lý
thuyết xã hội phê phán lý thuyết về mâu thuẫn và xung đột xã hội. Lý thuyết
về hệ thống thế giới, lý luận về nhà nước, lý luận về văn hóa, tư tưởng, lý
thuyết về cấu trúc xã hội và nhiều trường phái lý thuyết khác.
Các nhà Xã hội học Mác xít cần vận dụng phép duy vật biện chứng

của Marx để nghiên cứu cấu trúc xã hội, mâu thuẫn xã hội và sự phân tầng
xã hội. Cần vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích thực trạng và
nguyên nhân sự biến đổi xã hội. Dựa vào quan niệm duy vật biện chứng, Xã
hội học hiện đại cần nghiên cứu mối tác động qua lại giữa một bên là các
hiện tượng xã hội, các quá trình xã hội, các quan hệ xã hội và hoạt động của
con người, và một bên là phương thức sản xuất, phân công lao động xã hội
và cơ cấu kinh tế. Việc Marx nhấn mạnh cấu trúc giai cấp của xã hội đã mở
ra hướng nghiên cứu xã hôi học giai cấp và phân tầng xã hội theo giai cấp.
Điều quan trọng nhất là, làm theo lời Marx, các nhà Xã hội học tiến bộ
không những có nhiệm vụ giải thích thế giới mà còn góp phần vào công
20
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
cuộc đổi mới xã hội, để xây dựng xã hội phát triển công bằng, dân chủ văn
minh.
3.5. Những tư tưởng của Marx ảnh hưởng tới sự phát triển của Xã hội
học Đức vào đầu thế kỉ XX
Những tư tưởng của Marx đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
của Xã hội học Đức không chỉ ở cuối thế kỷ XIX mà nó còn góp phần thúc
đẩy sự phát triển của Xã hội học Đức vào đầu thế kỷ XX điều đó nó được
thể hiện rõ trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX, chủ nghĩa Marx đã được
thừa nhận như một học thuyết xã hội quan trọng và gợi ra nhiều cuộc nghiên
cứu về xã hội. Học thuyết Marx không chỉ phát triển mạnh mẽ trong phong
trào xã hội chủ nghĩa châu Âu mà còn có tác động mạnh mẽ tới Khoa Học
Xã Hội, đặc biệt là kinh tế học và Xã hội học.
Những ảnh hưởng của tư tưởng Marx trong thời kì này bị ảnh hưởng
bởi hai điều kiện. thứ nhất là tình hình chính trị xã hội ở châu Âu trong cuộc
chiến tranh thế giới thứ nhất, và thứ hai là phong trào tư tưởng nhằm chống
thực chứng luận. Chiến tranh thế giới và tình hình châu Âu những năm sau
chiến tranh đã tạo ra những khung cảnh mới cho sự phát triển của chủ nghĩa
Marx .Chủ nghĩa Marx trong những lĩnh vực nghiên cứu cụ thể kết quả thu

dược từ những bộ môn Khoa Học Xã Hội khác nhau làm xuất hiện về một
nhu cầu về một Khoa Học Xã Hội chung nhằm thống nhất các kết quả đó.
Theo qua điểm của nhiều học giả, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx có thể
đóng vai trò đó. Giới nghiên cứu ở châu Âu đều nhận thấy tầm ảnh hưởng
sâu sắc của chủ nghĩa Marx đối với sự phát triển của Xã hội học với tư cách
là một cách nhìn mới về hiện thực xã hội. và có lẽ không ở đâu mà nhận
21
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
thức này về tầm quan trọng của chủ nghĩa Marx lai rõ rệt như vậy ở nước
Đức.
Tại Đức chủ nghĩa Marx ảnh hưởng quan trọng đối với Tonnies và
Simmel trong cách phân tích của các ông về quan hệ xã hội, về bước quá độ
từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế tiền tệ. Tonnies chịu ảnh hưởng nhiều
của Marx và ông cho rằng Marx là nhà triết học xã hội sâu sắc nhất, người
đã phân tích một cách tòan diện phương thức sản xuất tư bản. còn tác giả
triết lý tiền tệ hẳn đã tiếp thu không ít những phân tích của Marx trong
những suy nghĩ về các chức năng xã hội của tiền tệ. như vậy ta thấy những
tư tưởng của Marx đã có ảnh hưởng, góp phần quan trọng và là nền tảng cho
sự phát triển của Xã hội học Đức nói riêng và Xã hội học ở châu Âu nói
chung vào đầu thế kỷ XX.
4. Max Weber: (1864-1920)
4.1. Sơ lược về tiểu sử của Max Weber
Max Weber là một nhà kinh tế học, nhà sử học, nhà Xã hội học bách
khoa toàn thư, ông sinh ra trong một gia đình đạo tin lành ở Erfurt thuộc
miền đông nam nước Đức, cha Weber là một luật sư chính khách có tiếng
nhưng ít ảnh hưởng tới sự nghiệp của Weber. Mẹ của Weber có ảnh hưởng
lớn tía sự nghiệp của ông.
Weber học rất giỏi. sau khi tốt nghiệp trung học,

Weber tiếp tục học

lên đại học. ông đã tốt nghiệp Đại học và bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ
luật về đề tài liên quan tới lịch sử các hãng thương mại trong thời trung cổ
tại trường đại học tổng hợp Berlin.
22
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
Weber bắt đầu cóp vị trí khoa học, giảng dạy môn luật trong trường
Đại học tổng hợp Berlin năm 1892, khi ông 29 tuổi. năm 18944, Weber
được bổ nhiệm nhiệm làm giáo sư kinh tế học chính trị học tại trường Đại
học Tổng hợp Freibung, sau đó vào năm 1897 ông đuợc bổ nhiệm làm giáo
sư kinh tế học tại trường Đại học Tổng hợp Heidel Burg. Lúc đó Weber 33
tuổi bị côi là quá trẻ để giữ chúc giáo sư kinh tế học tại một trường Đại học
lớn ở Đức , mặc dù kiến thức của ông là Bách Khoa uyên thâm.
Nhưng cũng trong năm 1897 vì lí do sức khỏe nên Weber tạm ngưng
giảng dạy để đi du lịch khắp các nước châu âu.và cũng trong thời gian này
ông đã cho ra đời nhưng tác phẩm hết sức có ý nghĩa,những tác phẩm chính
của ông viết vào lúc này chủ yếu bàn về các vấn đề phương pháp luận Khoa
Học Xã Hội. Ví dụ như “tính khách quan” trong Khoa Học Xã Hội và chính
sách công cộng (1903). Năm 1904 Weber đi du lịch sang Mỹ, khi trở về ông
cho xuất bản cuốn sách được cho là “Kinh thánh” của Xã hội học đó là: đạo
đức tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Đây là một công trình nghiên
cứu đồ sộ duy nhất đuợc xuất bản khi Weber còn sống.
Năm 1909 Weber đảm nhận nhiệm vụ chủ bút nhà xuất bản Xã hội
học. cũng trong nhưng x năm 1909 Weber bắt đầu viết công trình lý luận và
lịch sử đồ sộ,cuốn sách kinh tế và xã hội.
Weber tiếp tục nghiên cứu vấn đề tôn giáo ,nguồn gốc của thành thị
và phương pháp luận Khoa Học Xã Hội và viết một loạt các tác phẩm có giá
trị, trong đó quan trọng nhất là những cuốn như: Xã hội học về tôn giáo
(1912) tôn giáo Trung Quốc (1913), tôn giá Ân Độ (1916).
23
XÃ HỘI HỌC ĐỨC

4.
2. Những quan niệm và lý thuyết của Max Weber.
4.2.1. Quan niệm của Weber về phuơng pháp khoa học
Đối với cuộc tranh luận về phương pháp,Weber chỉ ra những sự khác
biệt cơ bản giữa Khoa Học Xã Hội và Khoa Học Tự Nhiên.ông cho rằng:
+ Thứ nhất: Đối với nghiên cứu Khoa Học Tự Nhiên là sự kiện vật lý
của giới tự nhiên, trong đó đối tượng của Khoa Học Xã Hội là hoạt động xã
hội của con người.
+ Thứ hai: Tri thức Khoa Học Tự Nhiên là hiểu biết về giới tự nhiên,
tức là thế giới bên ngoài cá nhân. Có thể giải thích các hiện tượng tự nhiên
bằng các quy luật khách quan, chính xác. Trong đó, tri thức Khoa Học Xã
Hội là hiểu biết về xã hội, tức là thế giới “chủ quan” do con người tạo ra và
gán cho sự vật khách quan. Vì vậy, cần hiểu biết được bản chất của hành
động cảm tính, chủ quan của con người trước khi giải thích các hiện tượng
xã hội bên ngoài.
+Thứ ba: Về mặt phương pháp nghiên cứu, đối với Khoa Học Tự
Nhiên chỉ cần quan sát các sự kiện của thế giới tự nhiên và tường thuật lại
kết quả quan sát là đủ. Trong khi đó, Khoa Học Xã Hội cần phải vượt ra
ngoài phạm vi quan sát, để lý giải động cơ, quan niệm và thái độ của cá nhân
,đặc biệt giải thích xem những chuẩn mực văn hóa, hệ giá trị và những hiểu
biết của cá nhân ảnh hưởng như thế nào tới hành động của họ.
Theo quan điểm của ông thi Khoa Học Xã Hội cần phải thực sự khoa
học trung lập, khách quan và tự do không bị ràng buộc bởi hệ thống chuẩn
mực giá trị trong quá trình nghiên cứu. Ông thừa nhận rằng Khoa Học Xã
Hội có thể “phi khoa học” và rất chủ quan trong việc giải quyết vấn đề thứ
24
XÃ HỘI HỌC ĐỨC
nhất. Nhưng theo ông, một khi đã xác định được đối tượng và nhiệm vụ
nghiên cứu thì cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn, thủ tục phân tích khoa học
để thực hiện quá trình nghiên cứu một cách hệ thống. Quan niệm này thì

Weber có nhiều điểm giống với Dukheim cả hai nhà Xã hội học này cùng
cho rằng quá trình nghiên cứu phải đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống và
khách quan với nghĩa là xác định rõ khái niệm, xây dựng được các chỉ báo
nghiên cứu tuân theo quy tắc lập luận logic và phải có bằng chứng xác thực.
Với quan niệm phương pháp luận của Weber và Durkheim đã có những
đóng góp quan trọng cho sự phát triển Xã hội học với tư cách là một nền
khoa học cụ thể có vị trí độc lập với mọi khoa học khác.
4.2.2. Loại hình lý tưởng
Weber cho rằng Xã hội học cần tiến tiowis hình thành những phương
pháp đặc thù có khả năng kết hợp nghiên cứu được các cái chung và cái
riêng của hiện thực xã hội. Một trong những phương pháp đặc trung của Xã
hội học Weber là Phương pháp loại hình lý tưởng.
Đối với Weber, loại hình lý tưởng là công cụ khái niệm không phải
để mô tả mà để phân tích và nhấn mạnh những thuộc tính, những đặc trưng
chung, cơ bản, quan trọng nhất của hiện tượng hay sự kiện lịch sử xã hội. Để
dễ hiểu, ta có thể hình dung phương pháp loại hình lý tưởng phần nào đó
tương tự như phương pháp điển hình hóa. Ông phân biệt ra làm ba dạng loại
hình lý tưởng sau;
+ Dạng thứ nhất: loại hình lý tưởng- sự kiện
+Dạng thứ hai: loại hình lý tương-khái niệm
+Dạng cuối cùng: loại hình lý tưởng –lý thuyết
25

×