Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tiểu luận môn triết học chủ đề Phân tích các trình độ phát triển của nhận thức khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.2 KB, 11 trang )

1

I. Cơ sở lý luận về nhận thức
1. quan niệm duy vật biện chứng về nhận thức
Theo quan niệm duy vật biện chứng, nhận thức là một quá trình phản ánh
tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở
thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi
hoạt động phản ánh của con người (với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới
khách quan (với tư cách khách thể nhận thức) được tiến hành thông qua hoạt động
thực tiễn và nhằm sáng tạo tri thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy
thực tiễn là tiêu chuẩn để xác định tính chân lý của những tri thức đó.
2. Phân loại nhận thức
Có nhiều cách phân loại nhận thức, dựa vào tính tự phát hay tự giá của sự
nhận thức xâm nhập vào bản chất của sự vật ta có thể phân loại nhận thức thành
nhận thức thông thường và nhận thức khoa học.
Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát,
trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện
tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau
của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn
liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó có vai trò thường
xuyên và phổ biến chi phối hoạt động của con người trong xã hội.
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và
gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng
nghiên cứu. Sự phản ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng logic. Đó là các khái
niệm, phạm trù và các qui luật khoa học. nhận thức khoa học vừa có tính khách
quan, trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.
Nó vận dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ


2



thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả sâu sắc bản chất và qui luật của đối
tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học có vai trò ngày càng to lớn
trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau
về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thông thường
có trước nhận thức khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các
khoa học. Mặc dù đã chứa đựng những mầm móng của những tri thức khoa học,
song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài,
ngẫu nhiên, không bản chất của đối tượng và tự nó không thể chuyển thành nhận
thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải thông qua quá
trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của các nhà khoa học. Ngược lại, khi
đạt tới trình độ nhận thức khoa học nó lại có tác động trở lại nhận thức thông
thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường
phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế
giới.
Lý luận nhận thức được coi là học thuyết về khả năng nhận thức của con
người, về sự xuất hiện và phát triển của nhận thức cũng như về con đường, phương
pháp nhận thức... Từ trước đến nay, vấn đề nhận thức luôn là một trong những bộ
phận cơ bản của khoa học triết học. Hiện tại, vấn đề nhận thức khoa học vẫn đang
tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và phát triển nhằm giúp cho con người ngày
càng hoàn thiện hơn những tri thức của mình về bức tranh thế giới hiện thực, và do
vậy, tiến gần hơn đến chân lý.
II. Các thành tố của nhận thức khoa học
Nhận thức khoa học có cấu trúc phức tạp và có thể tiếp cận từ nhiều góc độ;
chẳng hạn, theo nguồn gốc, trình độ, các vòng khâu hoặc theo các giai đoạn của
quá trình nhận thức... Tiếp cận cấu trúc nhận thức khoa học từ các thành tố của nó,



3

như tri thức khoa học, phương pháp tư duy khoa học, khả năng vận dụng khoa học
hệ thống tri thức vào thực tiễn... là một trong những cách tiếp cận cơ bản, hệ thống
và toàn diện nhất.
1. Tri thức khoa học.
Con người cải biến tự nhiên thông qua hoạt động thực tiễn của mình. Hoạt
động đó ngày càng trở nên tự giác vì nó được dẫn dắt, chỉ đạo bởi "bộ não thông
minh", bởi tri thức khoa học. Trong lịch sử triết học, tri thức luôn được đề cao.
Hêraclít đã coi tri thức là mặt trời thứ hai; Ph.Bêcơn đưa ra quan niệm cho rằng, tri
thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức và do vậy, con người cần phải thống trị, làm
chủ thế giới tự nhiên và khả năng đó thực hiện được hay không phụ thuộc vào sự
hiểu biết của con người. Và, theo Ph.Ăngghen, trước khi nghiên cứu những sự biến
đổi của một đối tượng nào đó, cần phải sơ bộ tiếp nhận dù chỉ là một số tri thức về
đối tượng đó.
Với tư cách thành tố của nhận thức khoa học, tri thức bao gồm toàn bộ
những hiểu biết sâu sắc, phong phú và đa dạng của con người về thế giới khách
quan. Nó bao hàm tri thức - nguồn, tri thức - tiền đề và tri thức - kết quả của quá
trình nhận thức. Khác với nhận thức thông thường, tri thức trong nhận thức khoa
học phải đúng đắn, chân thực và phản ánh sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về
thế giới khách quan. Tri thức khoa học có thể được tiếp cận ở nhiều lĩnh vực, phạm
vi, v.v.. Song, xét về trình độ phản ánh qua các giai đoạn của quá trình nhận
thức, tri thức khoa học như một chỉnh thể bao gồm các cấp độ trực quan khoa học,
kinh nghiệm khoa học, lý luận khoa học.
Tri thức trực quan khoa học là kết quả của quá trình nhận thức và phản ánh
trực tiếp thế giới khách quan của chủ thể. Nội hàm của nó phản ánh các mặt, các bộ
phận bên ngoài sự vật, hiện tượng, thông qua các hình thức cảm giác, tri giác, biểu
tượng. Cảm giác là cơ sở nền tảng cho các giai đoạn nhận thức tiếp theo, như
V.I.Lênin khẳng định: "Tiền đề đầu tiên của lý luận về nhận thức chắc chắn là ở



4

chỗ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết của chúng ta". Tri thức
trực quan khoa học không đồng nhất với trực quan "thuần" cảm tính. Cảm giác, tri
giác, biểu tượng với tư cách thành tố của trực quan khoa học đã vượt qua cái giới
hạn "cảm tính thuần tuý" để thể hiện một trình độ khoa học của nhận thức. Bởi vậy,
như nhận định của Goócki, "không có cơ sở nào để phủ định sự phản ánh cảm tính,
coi thường vai trò của nó như là nấc thang đặc thù của nhận thức, mà nó có ý nghĩa
cơ bản, trong sự hình thành tư duy khoa học".
Kinh nghiệm khoa học là những tri thức khoa học được đúc kết trực tiếp
trong quá trình lao động sản xuất, hoạt động chính trị - xã hội hoặc thực nghiệm
khoa học dưới sự chỉ đạo của nhận thức lý tính. "Trong kinh nghiệm, cái quan
trọng chính là trí tuệ mà người ta dùng để tiếp xúc với hiện thực. Một trí tuệ vĩ đại
thực hiện được những kinh nghiệm vĩ đại, và thấy được cái gì là quan trọng trong
sự vận động muôn vẻ của các hiện tượng". Kinh nghiệm khoa học là sự tiếp tục với
chất lượng mới của trực quan khoa học, nó dựa trên cơ sở cảm tính nhưng đồng
thời là điều kiện của nhận thức lý luận, là cầu nối giữa thực tiễn với lý luận khoa
học.
Lý luận khoa học là trình độ cao của nhận thức khoa học, mang tính trừu
tượng, khái quát cao, phản ánh đối tượng nghiên cứu bằng cách "tước bỏ" những
mặt, những thuộc tính không bản chất. Nó là kết quả của quá trình nhận thức, trong
đó chủ thể nhận thức đạt đến bản chất, quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng và
dựa vào đó, xây dựng các giả thuyết, lý thuyết khoa học và dự báo khoa học.
Những hình thức cơ bản nhất của lý luận khoa học bao gồm: khái niệm, phán đoán,
suy lý.
Như vậy, với tư cách là bộ phận cấu thành của nhận thức khoa học, tri thức
khoa học bao gồm nhiều tầng bậc, trình độ khác nhau, song có mối quan hệ thống
nhất biện chứng với nhau. Trong đó, tri thức trực quan khoa học và kinh nghiệm
khoa học phải có sự dẫn dắt của lý luận khoa học. Tri thức trực quan khoa học là cơ



5

sở trực tiếp hình thành kinh nghiệm khoa học, và đến lượt nó, kinh nghiệm khoa
học lại là cơ sở trực tiếp hình thành lý luận khoa học. Sự gắn bó hữu cơ của tri thức
khoa học thuộc mọi cấp độ luôn dựa trên cơ sở thực tiễn.
Trong hệ thống tri thức, xét từ góc độ các khoa học, tri thức triết học đương
nhiên là có tính chất nền tảng về mặt lý luận. Nó "có khả năng vũ trang cho các nhà
khoa học thế giới quan và phương pháp luận tối ưu để người ta có thể xử lý mối
quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết nhằm tiếp tục chiếm lĩnh những bí ẩn vô
tận của thế giới". Đặc biệt, đối với các khoa học, phép biện chứng duy vật trở thành
công cụ, phương pháp phổ biến của nhận thức khoa học.
2. Phương pháp tu duy khoa học
Phương pháp tư duy khoa học là thành phần cơ bản trong cấu trúc của nhận
thức khoa học, giữ vai trò trực tiếp quy định hiệu quả quá trình tiếp nhận, hình
thành, phát triển và phát huy tri thức khoa học. Những người theo chủ nghĩa duy
tâm coi phương pháp tư duy như một phạm trù thuần tuý chủ quan, là tổng hợp các
quy tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để "tiện" cho hoạt động nhận thức. Trái lại,
theo quan điểm duy vật biện chứng, phương pháp tư duy là những cách thức chung
nhất của tư duy trong tiếp cận hiện thực, nghiên cứu các đối tượng trong sự vận
động, phát triển, biến hoá không ngừng của nó. Phương pháp tư duy khoa học phải
được hiểu như một hệ thống tổng hợp các cách thức, biện pháp tư duy nhất định và
được tổ chức, sắp xếp sao cho có thể phối hợp được với các tri thức "nền", tri thức
tiền đề. Nó đóng vai trò như các công cụ, phương tiện cho hoạt động nhận thức,
sáng tạo những tri thức khoa học mới từ hệ thống tri thức khoa học đã có.
Đề cập đến vấn đề phương pháp tư duy trong nhận thức khoa học không thể
không quan tâm tới những đặc tính sáng tạo của nó, như tính độc lập, tính phê
phán, tính mềm dẻo, linh hoạt, kiên định..., cũng như làm rõ các hình thức của tư
duy như khái niệm, phạm trù, phán đoán... Phương pháp tư duy khoa học còn chứa

đựng các thao tác tư duy khoa học bảo đảm cho nhận thức đi từ hiện tượng đến bản


6

chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn, từ nhận thức cảm tính đạt tới
nhận thức lý tính, từ nhận thức kinh nghiệm tới lý luận khoa học. Vai trò của thao
tác tư duy khoa học được thể hiện ở tất cả các giai đoạn khác nhau, đặc biệt là giai
đoạn tư duy trừu tượng trong quá trình nhận thức khoa học.
Hệ thống phương pháp tư duy khoa học bao gồm các phương pháp lý thuyết
và phương pháp thực nghiệm. Trong các phương pháp lý thuyết ngày càng được sử
dụng rộng rãi hiện nay, cần phải chú ý phương pháp trừu tượng hoá và khái quát
hoá, bởi đó là một trong những công cụ chủ yếu để nhận thức chân lý, nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của con người. Các phương pháp giả định - suy diễn,
phương pháp tiền đề - kết luận, phương pháp thuật toán - toán học không ngừng
được nghiên cứu và hoàn chỉnh thêm. Các phương pháp hệ thống - cấu trúc, hình
thức hoá và mô hình hoá... ngày càng có vai trò quan trọng trước sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học hiện đại. Mặc dù vai trò của phương pháp lý thuyết ngày
càng tăng lên, song không vì thế mà ý nghĩa của các phương pháp thực
nghiệm (quan sát, thí nghiệm, đo đạc) bị suy giảm. Trong nhiều trường hợp, nhất là
đối với khoa học tự nhiên, các phương pháp thực nghiệm còn đóng vai trò kiểm tra,
thẩm định tính chân thực của các kết luận hoặc giả thuyết khoa học được rút ra nhờ
phương pháp lý thuyết. Thậm chí, một số thực nghiệm cụ thể nào đó còn có thể
quyết định một hướng nghiên cứu, hoặc một lý thuyết khoa học đang hình thành.
Trình độ thực nghiệm sẽ ngày càng tinh vi, phức tạp với các dụng cụ, phương tiện
ngày càng hiện đại. Cùng với sự phát triển của nhận thức khoa học, đặc biệt trong
khoa học - công nghệ hiện đại, trình độ thực nghiệm cũng như các phương tiện,
công cụ của hoạt động đó sẽ phát triển hiện đại hơn và hữu ích hơn đối với nhận
thức của con người.
3. Khả năng vận dụng hệ thống tri thức vào thực tiễn

Khả năng vận dụng hệ thống tri thức vào thực tiễn là một thành tố đặc biệt
quan trọng, một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc của nhận thức khoa học.


7

Nhờ nó, các thành phần khác mới bộc lộ hết giá trị hiện thực của mình. Con đường
biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan như
V.I.Lênin đã chỉ rõ, đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy
trừu tượng đến thực tiễn. Con người khám phá, tìm hiểu thế giới hiện thực không
phải chỉ vì muốn biết nó là cái gì, như thế nào..., mà hơn thế, trước hết và chủ yếu
là để cải tạo, biến đổi cái "vật tự nó" thành cái "vật cho ta" dựa trên những hiểu
biết, tri thức đã có về nó. Sự phê phán của C.Mác rằng, "các nhà triết học đã
chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới"
chính là với ý nghĩa như vậy.
Nhận thức khoa học là một quá trình mà mục đích của nó là đạt tới chân lý. Một kết
luận hay giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng đắn, là chân lý khi nó được xác
nhận bởi thực tiễn. Trong quan hệ với nhận thức, thực tiễn không chỉ là cơ sở của
nhận thức mà còn là tiêu chuẩn của chân lý. Thông qua thực tiễn, nhận thức phát
huy được vai trò chỉ đạo hoạt động của con người trong cải tạo hiện thực khách
quan; đồng thời, được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện. Tuy
nhiên, không phải mọi sự vận dụng tri thức khoa học vào thực tiễn đều được bao
hàm trong phạm trù nhận thức khoa học. Sự áp đặt, gán ghép một lý thuyết nào đó
vào cuộc sống một cách thô thiển, cứng nhắc không những không đem lại hiệu quả,
mà còn bộc lộ tính phản khoa học trong quá trình nhận thức.
Các thành tố trên đây của nhận thức khoa học có mối liên hệ thống nhất, biện
chứng, tác động qua lại và chuyển hoá lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Trong
đó, nếu tri thức nền làcơ sở ban đầu, nguồn "dự trữ năng lượng" cần thiết cho các
thành tố sau, thì phương pháp tư duy khoa học là "hệ công cụ" cần thiết để "giải
phẫu" những tri thức đang có và tiếp tục tìm kiếm chân lý; đồng thời, khả năng vận

dụng đúng đắn hệ thống tri thức vào thực tiễn là thành tố "hoạt hoá" các tri thức
khoa học đã được tiếp nhận, làm cho nhận thức khoa học thực sự xuất phát từ thực
tiễn và quay trở lại phục vụ hoạt động thực tiễn. Việc phát huy vai trò của nhận


8

thức khoa học trong hoạt động thực tiễn thực chất là quá trình phát triển, hoàn thiện
các thành tố của nhận thức khoa học, song phải bảo đảm sự thống nhất chặt chẽ
giữa chúng, bởi sự vận động, biến đổi của mỗi thành tố không tách rời cấu trúc
tổng thể của nhận thức khoa học.

III. Lịch phát triển của nhận thức khoa học
Lịch sử phát triển của triết học cho thấy, vấn đề nhận thức khoa học được đặt
ra từ rất sớm, đầu tiên là trong triết học Hy - La cổ đại, khoảng thế kỷ VI - IV TCN.
Tuy nhiên, trong thời kỳ cổ đại, do những hạn chế về các phương tiện, phương
pháp nhận thức cũng như khả năng của mình, nhận thức của con người đối với thế
giới khách quan còn giản đơn, mang tính phỏng đoán hoặc chỉ dựa vào suy lý.
Luận bàn về vấn đề nhận thức khoa học mới chỉ là bước đầu, làm cơ sở cho sự phát
triển, hoàn thiện lý luận về nhận thức sau này.
Đến thời trung cổ, người ta đã cố gắng tìm cách giải thích thế giới thông qua
tính tích cực của nhận thức con người. Tuy nhiên, việc giáo dục trí tuệ khi đó còn
là sự độc quyền của các cha cố và có xu hướng thiên về thần học. Điều này dẫn đến
khó tránh khỏi cách đặt vấn đề: phải chăng có thể nhận thức được "Thượng đế" và
linh hồn của con người là linh hồn của "Chúa"? ... Do vậy, trong suốt thời kỳ trung
cổ, tri thức lý luận và các phương pháp nhận thức khoa học gần như không xuất
phát từ thực tiễn, không gắn với thực tiễn sản xuất.
Phủ nhận tính phi khoa học của triết học kinh viện, nhận thức luận cổ điển đã
giải thích thế giới bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, phương pháp duy lý.
Cantơ đi xa hơn khi ông dùng cả những yếu tố biện chứng lẫn siêu hình của

phương pháp "tiên nghiệm" để lý giải thế giới. Mặc dù có nhiều đóng góp về vấn
đề nhận thức luận, song Phoiơbắc coi sự khác nhau giữa nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính chỉ đơn thuần về mặt số lượng, tư duy chỉ là sự tập hợp giản đơn


9

những tri thức cảm tính. Với phương pháp biện chứng tư biện duy tâm, Hêgen đã
cung cấp một công cụ vĩ đại phục vụ cho quá trình nhận thức. Song, trong phương
pháp của ông, phép biện chứng chỉ là phương tiện mang tính tư biện, duy tâm để
giúp cho việc "tha hoá" của "ý niệm tuyệt đối".
Có thể nói rằng, do hạn chế về mặt lịch sử và khoa học, nhận thức luận trước
Mác còn nhiều thiếu sót; về cơ bản, nó mới dừng lại và được coi như một công cụ
để giải thích thế giới, mà chưa thấy được nhiệm vụ lớn hơn là cải tạo thế giới hiện
thực.
Khắc phục những thiếu sót của triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
đưa ra những quan điểm, nguyên tắc có tính nền tảng về lý luận nhận thức, thực
hiện bước ngoặt cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng.
C.Mác cho rằng, khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật, kể cả chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc, là đã không thấy được vai trò của thực tiễn cũng như
của chủ thể nhận thức; rằng, đối với nó, các "... sự vật, hiện thực, cái cảm giác
được, chỉ được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không
được nhận thức về mặt chủ quan". Với ông, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý và
"vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan
không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn";
rằng, đời sống xã hội, về bản chất, là có tính thực tiễn. Như vậy, nhận thức khoa
học đã được C.Mác coi như một hình thức hoạt động đặc thù, một quá trình phản
ánh tích cực về hiện thực thông qua những chủ thể xã hội và là sự thu nhận tri thức
vào ý thức con người.

V.I.Lênin đã kế tục tư tưởng vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, phát triển sâu
sắc lý luận nhận thức nói chung và nhận thức khoa học nói riêng như một bộ phận
cấu thành hệ thống triết học mácxít hoàn chỉnh. Ông cho rằng, nhận thức là sự phản
ánh giới tự nhiên bởi con người, bao gồm cả một chuỗi những sự trừu tượng, sự


10

cấu thành, sự hình thành các khái niệm, quy luật...; rằng, "nhận thức là quá trình,
xâm nhập (của trí tuệ) vào giới tự nhiên..." và nó "... là sự tiến gần mãi mãi và vô
tận của tư duy đến khách thể...". Đặc biệt, trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán, V.I.Lênin đã chỉ ra những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức
khoa học, như đối tượng nhận thức, khả năng nhận thức thế giới khách quan của
con người và biện chứng phức tạp của quá trình nhận thức. Điều đó đã khẳng định
vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường duy vật biện chứng. Hơn thế, trong khi
khái quát về nhận thức khoa học và khả năng nhận thức của con người đối với thế
giới khách quan, V.I.Lênin đã phê phán sâu sắc các quan điểm duy vật siêu hình,
duy tâm, thuyết không thể biết... liên quan đến vấn đề này.
Lý luận nhận thức trong triết học Mác - Lênin là một trong những thành quả
vĩ đại của khoa học triết học và nó tiếp tục được các nhà triết học mácxít sau này
vận dụng, phát triển. Nhà triết học Nga V.I.Cúpxốp chỉ ra rằng, nhận thức khoa học
có thể chia thành kết quả nhận thức và quá trình thu nhận tri thức đó. Nếu tiếp cận
nhận thức khoa học như một quá trình thì nó được bắt đầu từ việc thu thập những
sự kiện. Song, sự tích luỹ các sự kiện khoa học không diễn ra một cách tự phát, mà
là hoạt động có mục đích, có kế hoạch và có ý thức. Bởi vì, trên thực tế, trước khi
triển khai việc nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhà khoa học đã chủ động xác định
cần phải thu thập những sự kiện, tài liệu nào, ở đâu và sử dụng các phương tiện,
phương pháp gì để đạt được mục tiêu đề ra v.v.. Xét về tư duy khoa học, nhận thức
khoa học là hình thái có tính trừu tượng và khái quát cao nhất, nhằm mục đích tìm
kiếm, phát hiện các nguyên lý, sơ đồ khoa học mới có tính tổng quát hơn, sâu sắc

hơn. Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy rằng, nhận thức khoa học được hình
thành một cách tự giác và mang tính trừu tượng, khái quát ngày một cao; đồng thời,
nó thể hiện tính năng động, sáng tạo của tư duy trừu tượng. Theo đó, những thuộc
tính, kết cấu, những mối quan hệ bản chất, những quy luật của thế giới khách quan
được phản ánh dưới dạng lôgíc trừu tượng. Mục đích của hoạt động nhận thức khoa


11

học là hướng tới nắm bắt được cái có tính quy luật, cái bản chất chứ không dừng lại
ở cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, cái đơn nhất của đối tượng được nhận thức.
Tựu trung lại, theo quan điểm mácxít, nhận thức khoa học được tiếp cận với
tư cách một loại hình nhận thức đạt đến trình độ cao, khác với nhận thức thông
thường. Nó là quá trình phản ánh tự giác, tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan
của con người thông qua thực tiễn; nhằm đạt tới hệ thống tri thức đúng đắn về tự
nhiên, xã hội và các lĩnh vực cụ thể khác, nâng cao khả năng tư duy và hiệu quả
hoạt động thực tiễn của con người.



×