Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý trong lịch sử triết học tây âu thế kỷ XVII – XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.39 KB, 16 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa duy kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý là hai khuynh hướng nhận thức đối lập nhau đấu tranh gay gắt với
nhau trong suốt chiều dài lịch sử triết học. Cho đến thế kỉ XVII – XVIII, trước những biến đổi của xã hội Tây âu, sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học, sự đối của hai khuynh hướng nhận thức này càng thể hiện rõ nét. Để tìm hiểu rõ hơn về hai
khuynh hướng nhận thức này, nhóm 08 lựa chọn đề tài: “Sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy cảm và chủ
nghĩa duy lý trong lịch sử triết học Tây âu thế kỷ XVII – XVIII” làm đề tài nghiên cứu trong chuyên đề thứ nhất. Do
thời gian và tài liệu hạn chế, mặc dù đã cố gắng nhưng bài làm của nhóm còn nhiều thiếu xót. Rất mong nhận được ý kiến
phê bình, đánh giá của quý thầy, cô và các bạn để bài làm của nhóm được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. SỰ HÌNH THÀNH CHỦ NGHĨA DUY CẢM VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
TÂY ÂU THẾ KỶ XVII – XVIII
Thời kỳ cận đại ở châu Âu là thời kỳ diễn ra và thắng thế của cách mạng tư sản. Giai cấp tư sản thiết lập nền thống trị
của mình, nhà nước tư sản được thiết lập, dân tộc tư sản được hình thành... Điều này đòi hỏi các nhà lý luận phải trả lời
nhiều câu hỏi liên quan đến pháp luật; quan hệ của con người với xã hội và quan hệ giữa con người với con người trong xã
hội, vấn đề nhà nước...
Kinh tế tư bản chủ nghĩa đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi khoa học phải thoát khỏi xiềng xích của tôn giáo,
thần học và triết học kinh viện.Vì vậy triết học duy vật có điều kiện phát triển mạnh mẽ


2

Phương thức sản xuất tư bản được xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị, công nghiệp và kỹ thuật rất
phát triển. Đây là thời kỳ chuyển từ nền “ văn minh nông nghiệp” sang “văn minh công nghiệp”, là thời kỳ phát triển mạnh
mẽ thị trường, tạo ra thị trường thống nhất toàn quốc và mở rộng thị trường quốc tế. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
cũng tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kỹ thuật phát triển mà trước hết là khoa học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt
tới trình độ là cơ sở cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên - thực nghiệm. Đặc trưng
này tất yếu dẫn đến “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức trong sự trừu tượng, tách rời cô lập, không vận động, không
phát triển có đề cập tới sự vận động thì chủ yếu là sự vận động cơ giới, máy móc. Nhiều phát minh sáng chế ra đời như sự
phát hiện ra sự tuần hoàn của máu; phát hiện ra tính chất sóng và hạt của ánh sáng; sáng chế ra kính thiên văn, hàn thử


biểu... Những phát minh, sáng chế này đã hậu thuẫn cho triết học duy vật biện chứng ra đời.
Thời kỳ cận đại của châu Âu cũng là thời kỳ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ hình thành.Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện
chiến tranh xâm lược thuộc địa để mở rộng lãnh thổ và thị trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở các vùng đất thuộc địa,
chiến tranh tôn giáo nảy sinh.Tất cả những điều này đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi các nhà tư tưởng phải
giải quyết.
Từ những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và sự phát triển khoa học đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của
triết học.
Triết học Tây Âu thời kỳ thế kỷ XVII – XVIII đi sâu nghiên cứu lý luận nhận thức và chia thành hai trường phái cơ
bản: Chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa duy lý.
1. Sự hình thành chủ nghĩa duy cảm trong lịch sử triết học Tây âu thế kỷ XVII – XVIII
Chủ nghĩa duy cảm (hay còn gọi là chủ nghĩa duy kinh nghiệm) là khuynh hướng nhận thức luận cho nguồn gốc tri
thức duy nhất là kinh nghiệm cảm tính. Đồng thời với việc đề cao giá trị của cảm giác, chủ nghĩa duy cảm lại coi thường vai


3

trò của lý tính trong quá trình nhận thức. Các nhà triết học duy vật đồng thời là các nhà hoạt động xã hội, tiêu biểu như: Tômát Hốp-xơ (1588 – 1679), Giôn Lốc-cơ (1632 – 1704), các nhà triết học duy vật Pháp...
Các nhà ngụy biện là những nhà duy cảm đầu tiên trong triết học Tây Âu cổ đại khi họ phủ nhận các suy đoán duy lý
về bản chất thế giới, khẳng định vai trò của nhận thức giác quan. Tiếp sau đó là Aristote khi ông đưa ra nguyên lý đầu tiên
của chủ nghĩa duy kinh nghiệm “không có gì trong lý tính mà nó lại không đến từ các giác quan”. Nguyên lý này được
Thomas Aquino tiếp thu xây dựng học thuyết triết học của mình và ông được coi là một đại diện của chủ nghĩa duy kinh
nghiệm Trung cổ cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học thực nghiệm, các nhà triết học Teledio, Bruno… vai trò của
tri thức kinh nghiệm trong nhận thức.
Đến thế kỉ XVII – XVIII thì đây là thời kì mà khoa học tự nhiên thực nghiệm phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành
tựu. Chính điều này đã ảnh hưởng đến phương pháp luận của các nhà triết học duy cảm. Điều này thể hiện rõ nhất ở Bêcơn
khi ông đưa phương pháp thực nghiệm của khoa học tự nhiên thực nghiệm vào phương pháp luận triết học, hình thành
phương pháp qui nạp - thực nghiệm. Điều đó cũng thể hiện sự cố gắng gắn kết trình độ của triết học với trình độ khoa học
tự nhiên đương thời.
2. Sự hình thành chủ nghĩa duy lý trong lịch sử triết học Tây âu thế kỷ XVII – XVIII
Chủ nghĩa duy lý là khuynh hướng nhận thức luận cho rằng nguồn gốc duy nhất của tri thức đúng đắn là lý tính.

Tuyệt đối hóa tư duy logic, khuynh hướng này đề cao tính phổ biến và tính tất yếu của tri thức, đồng thời hạ thấp giá trị của
cảm tính. Các nhà triết học duy lý vừa là các nhà triết học duy vật, vừa là các nhà khoa học (toán học), với các đại biểu tiêu
biểu như: Bê-kê-nít Xpi-nô-za (1632 – 1677), người Hà Lan; Gô-phrít Vin-hem Lép-nít (1646 – 1716), người Đức…
Chủ nghĩa duy lý lại bắt đầu từ Parmenide khi ông phủ nhận hoàn toàn các tri thức giác quan và khẳng định vai trò
của lý tính trong nhận thức thế giới. Tiếp theo đó, Socrate coi tri thức có tính bẩm sinh trong linh hồn và ông là người đầu


4

tiên nhấn mạnh vai trò của tri thức khái niệm trong nhận thức. Chịu ảnh hưởng của Socrate, Platon được coi là đại biểu điển
hình của chủ nghĩa duy lý trong triết học Tây Âu cổ đại khi ông khẳng định nhận thức là sự hồi tưởng của linh hồn về những
điều nó đã có trước đây nhưng rồi lại quên đi. Thời trung cổ, chịu ảnh hưởng của Socrate và Platon. Augustin cho rằng tri
thức không phải được rút ra từ khách quan mà là sự hồi nhớ của con người về những gì mình đã từng có trong quá khứ.
Đến thế kỉ XVII – XVIII thì đây là thời kì mà toán học phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu. Chính điều này đã
ảnh hưởng đến phương pháp luận của các nhà triết học duy lý. Điều đó thể hiện rõ nhất ở Đê các tơ, khi ông đưa ra phương
pháp tiên đề và diễn dịch của toán học vào phương pháp luận triết học.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA DUY CẢM VÀ CHỦ NGHĨA DUY LÝ TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
TÂY ÂU THẾ KỶ XVII – XVIII
1. Sự phát triển của chủ nghĩa duy cảm trong lịch sử triết học Tây âu thế kỷ XVII – XVIII
Phranxi Bêcơn(1561 - 1621) người sáng lập triết học duy vật Anh.
* Thế giới quan: Bêcơn thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Khoa học không biết một cái gì khác ngoài thế giới
vật chất, ngoài giới tự nhiên.
Bêcơn cho rằng những thuộc tính cơ bản của vật chất là vận động, vật chất luôn ở trong trạng thái vận động vĩnh viễn,
vật chất có nhiều tính chất, do đó, vận động cũng có tính đa dạng.
* Lý luận nhận thức:
Ông cho rằng con người cần thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện được hay không, tất cả phụ
thuộc vào sự hiểu biết của con người.Bêcơn cho rằng tri thức là sức mạnh, sức mạnh là tri thức.
Nhằm xây dựng một cách nhìn mới, ông đã liệt kê và phê phán hai cách phương pháp đang sử dụng phổ biến lúc bấy giờ:



5

Một là phương pháp của các nhà kinh viện chủ nghĩa.Ông ví họ như những con nhện (phương pháp con nhện), chỉ
biết nhả tơ và đan lưới, đưa ra những tiền đề vô căn cứ về bản chất của sự vật.
Hai là phương pháp của các nhà kinh nghiệm chủ nghĩa. Ông ví họ như như những con kiến (phương pháp con
kiến), chỉ biết tha mồi không biết chế biến, chỉ biết sưu tầm lượm lặt, mô tả từng li từng tý các sự kiện vụn vặt.
Ông cho rằng các nhà khoa học chân chính phải như con ong (phương pháp con ong), vừa biết kiếm nguyên liệu
trong các loài hoa, vừa biết chế ra mật tinh khiết.
Để tránh những sai lầm, theo Bêcơn, phương pháp nhận thức tốt nhất là phương pháp quy nạp tức là phương pháp đi
từ cái riêng lẻ, ít chung hơn đến cái khái quát trừu tựơng, nhiều chung hơn. Tri thức chân chính chỉ có thể đạt được bằng
cách giải thích những liên hệ nhân quả.Bêcơn coi phương pháp thực nghiệm là công cụ chủ yếu của nhận thức khoa học;
khoa học cần nhận thức giới tự nhiên, chứ không cần những giáo lý của thần học.
Theo Bencơ thì cơn người là sản phẩm của tạo hóa, do vậy khoa học về con người cũng chính là sản phẩm của khoa
học tự nhiên. Ôn chia linh hồn thành hai dạng là “linh hồn thực vật”, “linh hồn động vật” và lý tính. Trong con người
chúng ta là một dạng chất lỏng được pha loãng trong cơ thể. Chúng vận động theo các dây thần kinh điều khiển chức năng
sống của con người
Còn phần linh hồn lý tính thì có nguồn gốc từ thượng đế. Đó là một khả năng kỳ diệu mà chúa ban tặng con người do
vậy nó mang tính thần thánh
Nhận xét về triết học của Bêcơn, Mác viết: “ở Bêcơn, người đầu tiên sáng tạo ra nó, chủ nghĩa duy vật còn che giấu,
dưới những hình thức ngây thơ, những mầm mống của sự phát triển mọi mặt. Vật chất mỉm cười với toàn bộ con người,
trong vẻ lộng lẫy của cái cảm tính nên thơ của nó”.


6

Chủ nghĩa duy vật của Bêcơn là chủ nghĩa duy vật siêu hình nhưng đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của
khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của giáo hội và tôn giáo.
Tômát Hốpxơ (1588 - 1679)
Hốpxơ là nhà triết học duy vật nổi tiếng của Anh thế kỷ XVII, ông đã hệ thống hoá chủ nghĩa duy vật Bêcơn, loại bỏ
nhiều yếu tố thần học và tiếp tục cuộc đấu tranh rất kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm và thần học. Hốpxơ cho rằng, sự sợ

hãi và ngu dốt sinh ra tôn giáo.
* Bản chất và đối tượng của triết học:
Ông cho rằng tri thức là sức mạnh, như vậy phải tang cường phát triển các khoa học, nhất là triết học.lý luận triết học
phải phục vụ thực tiến của con người vì nó giúp con người hiểu biết về các sự vật. Hốpxơ là người cụ thể hóa các quan niện
duy vật của Bencơ trong việc giải quyết các vấn đề của xã hội. Theo ông các vấn đề chính trị xã hội phải được đặt lên hang
đầu. Nhưng khác với Bencơ, Hốpxơ khẳng định thần học là vấn đề hoàn toàn thuộc về tôn giáo
* Về thế giới quan:
Theo ông giới tự nhiên tồn tại một cách khách quan, không do thần thánh tạo ra và cũng không phụ thuộc vào ý thức
con người.
Hốpxơ chia triết học thành “triết học tự nhiên”, và “triết học xã hội”.
- Triết học tự nhiên: Thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giowis có trước con người và không phải do chúa trời
tạo ra. Ông cho rằng thế giới quan chỉ tồn tại đơn lẻ. Mọ khái niệm như “Vật thể”, “vật chất”… chỉ là khái niệm. Ông nói
“Trong thế giới chẳng có cái gì chung, ngoài các tên gọi”.
- Triết học xã hội:


7

+ Về con người, theo ông là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. về bản tính tự nhiên thì con người
khi khai sinh đều như nhau. Ông viết: “Giới tự nhiên đã tạo ra như nhau cả về thể xác và tinh thần. Nhưng sự khác nhau nhất
định giữa thể xác và tinh thần giữa họ không lớn tới mức để có bất kỳ người nào dựa trên điều đó để có thể kỳ vọng kiếm lợi
được điều gì cho bản thân mình mà những người khác lại không thể làm được”. Theo ông con người ai cũng có khát vọng và
nhu cầu riêng của mình và dây là tiền đề để con người làm điều ác.
Theo Mác thì Hốpxơ đã sai lầm coi tính ích kỷ cũng như nhiều tính cách khác nhau mang tính xã hội của con người là
những tính cách thuộc về bẩm sinh của tạo hóa
+ Về nhà nước : Mõi dân tọc trải qua sự phát triển của mình đều trải qua 2 giai đoạn: giai đoạn tự nhiên và giai đoạn
xã hội công dân. Nhà nước là sự cao nhất mà con người có thể làm được.
Hốpxơ là nhà vô thần, nhưng không triệt để.Ông cho rằng tôn giáo và giáo hội có thể có lợi ích đối với nhà nước để
làm “dây trói buộc trong xã hội”.
Nhìn chung triết học của Hốpxơ còn nhiều hạn chế trong quan niệm về bản chất và nguồn gốc của nhà nước.

Trong một mức độ nhất định, Hốpxơ đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối tượng của khoa học cụ thể. Tuy
nhiên, cách đặt vấn đề của ông về đối tượng và nhiệm vụ của triết học theo hướng tiến bộ, nhằm chống lại chủ nghĩa kinh
viện. Hốpxơ mong muốn đưa ra một hệ thống triết học bao gồm hết thảy, gạt bỏ tính chất thần học và chống lại thuyết về
“chân lý hai mặt” của Bêcơn.
Khác với Bêcơn, Hốpxơ là một nhà duy vật cơ học điển hình.Ông coi cơ học và toán học là mẫu mực của bất kỳ tư
duy khoa học nào. Theo Hốpxơ, vận động là sự thay đổi vị trí của các vật thể, vận động không phải là cái vốn có bên trong
của vật chất.


8

Là một nhà cơ học, Hốpxơ không thấy đặc điểm riêng của giới hữu cơ. Ông cho rằng trái tim là gì, nếu không phải là
chiếc lò xo, dây thần kinh là gì, nếu không phải là những sợi dây chỉ, còn khớp xương là gì, nếu không phải là những bánh
xe làm cho toàn thể cơ thể chuyển động.
* Lý luận nhận thức:
Hốpxơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho rằng, cơ sở nhận thức là tri giác cảm tính. Nhưng do hạn chế về mặt lịch
sử, Hốpxơ vẫn chưa thể hiểu được mối quan hệ biện chứng của nhận thức cảm tính và lý tính.
Giôn Lốccơ (1632 - 1704)
Là đại biểu duy cảm điển hình của chủ nghĩa duy vật Anh.Lốccơ chủ yếu đề cập đến vấn đề nhận thức và ông đã đưa
ra các học thuyết:
* Phê phán về học thuyết các tư tưởng bẩm sinh. Nguyên lý tabula rasa (tấm bảng sạch)
Mở đầu bằng việc phê phán học thuyết bẩm sinh của Đềcáctơ. Theo Đềcáctơ, trong con người có sẵn tư tưởng bẩm
sinh mà chân lý của chúng rất xác thực và do vậy dễ dàng được mọi người thà nhận. sau đó Lépnít phát triển tiếp quan niệm
trên, sửa đổi lại rằng trong con người tồn tại các khả năng bẩm sinh. Phê phán các học thuyết trên, Lốccơ tìm cách luận
chứng sự vô lý của nó. Theo ông “để thuyết phục những độc giả không có thành kiến gì về sự giải dối của các quan niên
trên, chỉ cần vạch ra tại sao con người chỉ đơn thuần dựa vào những khả năng tự nhiên của mình, không cần đến những ý
niệm bẩm sinh, mà vẫn có thể có được toàn bộ tri thức của mình và đi đến chân lý”
Đối lập với học thuyết duy tâm trên, Lốccơ đưa ra nguyên lý tabula rasa (tấm bảng sạch): “linh hồn chunhs ta khi
mới sinh ra, có thể nói như một tờ giấy trắng, không có một ký tự hay ý niệm nào cả”. việc phê phán học thuyết về tư tưởng
bẩm sinh, cũng như trong sự khẳng định nguyên lý rabula rasa, Lốccơ đứng trên lập trường tư tưởng duy vật

* Cấu trúc của kinh nghiệm và quá trình nhận thức. Học thuyết về chất có trước và chất có sau:


9

Lốccơ khẳng định “mọi tri thức đều dựa trên kinh nghiệm, và suy nghĩ cho cùng đều xuất phát từ đó. Sự quan sát của
chúng ta hướng đến các sự vật bên ngoài hoặc là hướng và chính hoạt động của linh hồn… Đó là nguồn gốc chính mà từ đó
xuất phát mọi ý niệm”. Coi kinh nhiệm là nguồn gốc của mọi tri thức . Toàn bộ các tri thức mà con người có được nhờ nhận
thức đều được Lốccơ gọi là “ý niệm”.
Quá trình nhận thức được chia làm hai giai đoạn đó là:ý niệm đơn giản là sản phẩn của tự nhiên và mang tính quy luật
của các sự vật xung quang ta và thực sự tác động vào chúng ta và ý niệm phức tạp tức là phạm trù khái niệm chung kết quả
hoạt động của riêng lý tính hoàn toàn chủ quan của con người chứ không phản ánh đặt tính nào của sự vật cả
Lốccơ phân chia tính chất của sự vật thành các chất có trước là đặc tính khách quan vốn có của sự vật như khối
lượng, quảng tính… chúng không thể mất đi dù sự vật có biến đổi thế nào đi chăng nữavà chất có sau là những chất có đặc
tính dễ biến đổi chẳng hạn như âm thanh, mùi vị, màu sắc…
Gióocgiơ Béccli (1684 - 1753)
Là đại biểu lớn của chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Điểm xuất phát của triết học Béccli là kinh nghiệm cảm tính được
giải thích theo nghĩa “những tập hợp ý niệm” “những phức hợp cảm giác”.
Một thế hệ sau, mục sư người Gióocgiơ Béccli xác định rằng quan niệm của Lốccơ đã mở ngay một cánh cửa mà cuối
cùng sẽ dẫn tới chủ nghĩa vô thần. Để phản ứng lại Locke, trong cuốn "Luận về các nguyên lý của tri thức con người"
(Treatise Concerning the Principles of Human Knowledge) năm 1710, ông đã đề xuất một hình thức khác rất cực đoan của
chủ nghĩa kinh nghiệm, trong đó sự vật chỉ tồn tại do chúng đang được tri giác hoặc bởi thực tế rằng chúng là các thực thể
đang thực hiện việc tri giác. (Đối với Béccli, Chúa trời thực hiện công việc tri giác giúp con người mỗi khi con người không
ở quanh một sự vật để làm việc đó. Nhờ đó mà sự vật có thể tồn tại mà không cần lúc nào có người đang nhìn/nghe/ngửi/sờ
thấy nó.) Trong tác phẩm Alciphron, Béccli đã khẳng định rằng bất cứ trật tự nào mà con người có thể nhìn thấy trong thiên


10

nhiên đều là ngôn ngữ hay chữ viết tay của Chúa trời. Sau này, cách tiếp cận của Béccli đối với chủ nghĩa kinh nghiệm đã

được gọi là chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Đavít Hium (1711 - 1766)
Nhà triết học Anh tiếp tục đường lối duy tâm chủ quan của Béccli. Nhưng khác với Béccli, Hium đi đến chủ nghĩa
hoài nghi và thuyết “không thể biết”. Hium không thừa nhận bất cứ một thực thể nào. Thực thể, theo ông, chỉ là một sự trừu
tượng giả dối được hình thành trên cơ sở của thói quen tâm lý giản đơn.
Chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII
Các nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ XVIII mà các đại biểu xuất sắc là LaMettri (1709 -1751), Hônbách (1729 1789), Điđơrô (1713 - 1784), Henvêtruýt (1715 - 1771) đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của triết học duy vật và vô
thần. Họ đấu tranh kiên quyết chống lại tôn giáo, kêu gọi đẩy mạnh nghiên cứu với giới tự nhiên. Họ cho rằng, không nắm
được các quy luật của tự nhiên thì con người không thể có hạnh phúc. Mục đích của khoa học và triết học là phải nhận thức
và chinh phục giới tự nhiên.
Trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, các nhà duy vật Pháp thừa nhận vật chất, giới tự nhiên là cái có
trước, ý thức là cái có sau. Các nhà duy vật Pháp quan niệm rằng, vật chất là vĩnh cửu và vô tận, không thể biến đổi vật chất
thành hư vô, cũng như không thể từ hư vô tạo nên vật chất, vật chất không do ai sáng tạo ra và không thể tiêu diệt được;
không gian và thời gian là thuộc tính cơ bản của vật chất. Vận động theo họ, biểu hiện hoạt tính của vật chất và gắn liền với
vật chất. Nhờ vận động mà giới tự nhiên luôn chuyển động từ trạng thái này sang trạng thái khác.
Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII là những nhà nhất nguyên luận duy vật, nhưng cũng như các nhà duy vật trước
Mác, họ chưa thấy được ý thức không chỉ là sản phẩm của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người, mà còn là sản
phẩm của sự phát triển xã hội.


11

Từ những phân tích trên, nhóm cũng đưa ra một số đánh giá về chủ nghĩa duy cảm trong triết học Tây Âu thế kỉ XVII,
XVIII như sau:
- Thành tựu: CNDC có vai trò chống lại triết học và lối tư duy kinh viện, ủng hộ khoa học. Với phương pháp luận
thực nghiệm quy nạp, Bê cơn đã đặt cơ sở phương pháp luận cho khoa học tự nhiên thực nghiệm. CNDC trong triết học Tây
Âu thế kỉ XVII, XVIII còn được biết đến với tinh thần ủng hộ sự phát triển khoa học và phương pháp nghiên cứu khoa học.
Bê cơn đưa ra khẩu hiệu “tri thức là sức mạnh”. Ông mong muốn những người đương thời và thế hệ mai sau quan tâm đến
sự phát triển khoa học và làm điều đó vì lợi ích của cuộc sống và thực tiễn, vì lợi ích và phẩm giá của con người. Cho đến
nay, khẩu hiệu này vẫn chưa mất đi ý nghĩa và tính thời sự của nó.

- Hạn chế: Tuyệt đối hóa nhận thức cảm tính, chưa đánh giá đúng mức vai trò của nhận thức lý tính.
2. Sự phát triển của chủ nghĩa duy lý trong lịch sử triết học Tây âu thế kỷ XVII – XVIII
Rơnê Đêcáctơ (1596 - 1654).
Đêcáctơ là nhà triết học xuất sắc nhất của Pháp thế kỷ XVII, ông vừa là nhà triết học, toán học, vật lý học, vừa là nhà
bách khoa trên nhiều lĩnh vực khác.
Về triết học ông là nhà triết học nhị nguyên điển hình.Với tính chất nhị nguyên.Ông cho rằng, hai thực thể vật chất và
tinh thần tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả hai thực thể này đều phục tùng nguyên thể thứ ba - nguyên thể tối cao là thần
linh.Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu hiện tính chất thoả hiệp của hệ tư tưởng tư sản.
Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Đêcáctơ đưa lý trí lên vị trí hàng đầu trong lý luận về nhận thức.Đềcáctơ
cho rằng sự ghi nhớ là điểm xuất phát của phương pháp khoa học.Đêcáctơ nhấn mạnh dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không
thể nghi ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: tôi tư duy, vậy tôi tồn tại, và ông cho đó là nguyên lý cơ bản, bất di bất dịch. Ý
nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên là ở chỗ, nó đề cao vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối tất cả những gì người ta


12

mê tín.Nhưng nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm vì Đêcáctơ đã không nhìn thấy rằng không thể đi tìm tiền để xuất
phát của nhận thức ở ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân đời sống thực tiễn xã hội.
Trong học thuyết về tự nhiên, ông cho rằng tự nhiên là một khối thống nhất gồm những hạt nhỏ vật chất có quảng tính
và vận động vĩnh viễn theo đúng những quy luật cơ học.
Đêcáctơ thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong quá trình vận động.Nhưng ông chưa thấy sự
khác nhau về chất giữa thế giới sinh vật, coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng, sự khác biệt của con
người với động vật là ở chỗ: con người không chỉ là một cơ thể vật chất mà còn là thực thể có lý trí. Nhưng lý trí, theo ông
không phụ thuộc vào quá trình vật chất. Điều này biểu hiện quan điểm duy tâm trong triết học Đêcáctơ.
Bêkênít Xpinôda (1632 - 1677) người Hà Lanlà một trong những nhà triết học vĩ đại của thế kỷ XVII.
*Vấn đề trung tâm của triết học Xpinôda là thuyết thực thể.
Theo Xpinôda, thực thể là nguyên nhân đầu tiên của mọi cái đang tồn tại. Vì thực thể đồng nghĩa với bản chất vô tận
cho nên thuộc tính của nó cũng nhiều vô tận.Thực thể đồng nhất với tự nhiên không chỉ ở quảng tính mà còn ở tư duy. Theo
Xpinôda giới tự nhiên như một thực thể có những đặc tính sau:
- Nó đang tồn tại trọn vẹn và đầy đủ. Điều này xuất phát từ chihs bản thân khách quan của các thực thể giới tự nhiên

- Thực thể tồn taijhoanf toàn độc lập. Mọi sự vật chỉ là các dạng khác nhau của một thực thể
- Thực thể là vô cùng tân về không gian và vĩnh hằng về thời gian
Nếu Đêcáctơ quan niệm quảng tính và tư duy là những thuộc tính của hai thực thể khác nhau - thực thể vật chất và
thực thể tinh thần - thì đối với Xpinôda, hai thuộc tính này cũng là một thực thể thống nhất. Như vậy, học thuyết của
Xpinôda về thực thể đã bác bỏ quan niệm nhị nguyên luận của Đêcáctơ, đồng thời còn chống lại quan niệm cổ truyền của
mọi tôn giáo cho rằng thượng đế là đấng sáng tạo ra tự nhiên và con người.


13

Tuy nhiên, học thuyết về thực thể của Xpinôda cũng chưa thoát khỏi tính siêu hình. Ông cho rằng, thực thể bất động
và bất biến, vận động không phải là thuộc tính vốn có thực thể mà là một dạng thức vận động vô tận tách rời thực thể, dùng
để chuyển từ thực thể bất động thành thế giới của dạng thức vận động. Đấy là hạn chế của Xpinôda trong việc giải thích
nguồn gốc của vận động.
Xpinôda là một nhà vô thần, trong hệ thống triết học duy vật của mình, ông đã phê phán tôn giáo, nêu ra nguồn gốc
vai trò xã hội và bản chất tôn giáo.Song, chủ nghĩa vô thần của Xpinôda còn có những hạn chế vì ông quan niệm rằng mê tín
là cần thiết để xác định đạo đức, hành vi của quần chúng.
* Nhân bản học và nhận thức học:
Xuất phát từ học thuyết thực thể Xpinôda xây dựng quan niệm về con người. Theo ông con người không là cái gì
khác, mà chính là dạng thức của thực thể, là sản phẩm của tự nhiên. Vì thế mọi hoạt động của nó phải tuân theo quy luật tự
nhiên. Là một dạng của thực thể con người không thể không thể hiện các thuộc tính của tư duy quảng tính. Trong con người
điều đó thể hiện dưới dạng linh hồn và thể xác. Theo ông thể xác con người mà không còn khả năng suy nghĩ thì không còn
là nó nữa mà chỉ là một vật vô dụng. . Mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn là mối quan hệ hữu cơ giữa khả năng và cấu
trúc.
Luận điểm cơ bản trong nhận thức luận của Xpinôda là “giới tự nhiên mãi mãi và khắp nơi đều có nhau và do vậy
cách thức nhận biết sự vaatjnhw chúng có cũng đều như nhau cả”
Gophrit Vinhem Lépnít (1646 - 1716)
*Quan niệm về Triết học và mối liên hệ của nó với các khoa học khác
Qúa trình sung bái và trung thành với truyền thống siêu hình học, Lépnít cho rằng: mỗi bước đi người ta đều sử dụng
các thuật ngữ siêu hình học. Vấn đề bây giờ là nên quan niệm về siêu hình học như thế nào?



14

*Phương pháp luận
Lépnít với luận điểm coi : “chủ thể phong phú hơn khách thể, lấy trí tuệ con người làm thước đo để phán xét mọi cái”
Phương pháp luận của Lépnít gồm 11 nguyên lý:
1.Nguyên lý khác nhau phổ biến. Nó khẳng định “Mặc dù tồn tại nhiều sự vật cùng 1 loại, tuy nhiên không bao giờ có
thể tồn tại những sự vật hoàn toàn như nhau”
2.Nguyên lý đồng nhất của các sự vật không khác nhau: khẳng định nếu 2 vật, trong đó mọi tính chất của vật này cũng
là tất cả các tính chất của vật kia và ngược lại, thì chúng đồng nhất với nhau, tức là cùng 1 vật. Nguyên lý này bổ trợ cho
nguyên lý 1
3.Nguyên lý liên tục: đối lập với nguyên lý 1 và 2. Theo nó thì trong quá trình phát triển luôn luôn có sự kế
thừa.Lépnít khẳng định “cái hiện tại là kết quả của quá khứ, đồng thời lại là tiền đề của tương lai và mọi trạng thái hiện tại
chỉ có thể được giải thích thông qua trạng thái trực tiếp của nó. Phủ nhận điều đó có nghĩa là thừa nhận sự tồn tại của các
khoản trống rỗng”
4.Nguyên lý về gián đoạn: đối lập với nguyên lý 3, khẳng định tính gián đoạn trong sự phát triển của tất thảy mọi vật.
Nó khẳng định thế giới là là 1 thể thống mở, thừa nhận giới hạn tương đối trong sự phân chia của sự vật.
5.Nguyên lý đầy đủ: khẳng định thế giới chúng ta chứa đựng trong mình 1 cách trọn vẹn và đầy đủ mọi sự vật, với tất
cả các tính chất của chúng. Giới tự nhiên sẽ sản sinh ra các sự vật “mà nó thấy là cần thiết”.
6.Nguyên lý hoàn thiện: khẳng định mọi sự vật cũng như giới tự nhiên đều đang không ngừng vận động hướng tới
ngày càng hoàn thiện.
7.Nguyên lý thứ 7 chỉ ra mối liên hệ giữa thế giới của các khả năng xét về phương diện logic. Với thế giới hiện thực
của nó, tức là thế giới của vật thể.


15

8.Nguyên lý thứ 8 đề cập quan niệm của Lépnít đối với logic hình thức trước đó. Đề cao vai trò của tam đoạn luận
quy tụ cả 3 quy luật của logic hình thức trước đó (quy luật đồng nhất, quy luật cấm mâu thuẫn và quy luật loại trừ cái thứ 3).

9.Nguyên lý thứ 9 là quy luật cơ sở đầy đủ: khẳng định mọi luận đề, quan niệm, tư tưởng của chúng ta đều phải được
lí giải, chứng minh 1 cách chặt chẽ trên cơ sở và nền tảng đủ để thực hiện sự đúng đắn và hợp lý của chung.
10.Nguyên lý thứ 10 khẳng định mối liên hệ phổ biến giữa các sự vật, cũng như giữa các tư tưởng, ý niệm. Mọi lĩnh
vực nhận thức của con người đều không tách rời nhau.
11.Nguyên lý cực đại và cực tiểu: nó cho rằng cực tiểu của bản chất sinh ra cực đại của tồn tại
*Siêu hình học
Ở Lépnít, siêu hình học không chỉ bao gồm học thuyết về bản chất của sự vật, mà còn cả thần học nữa, vì theo ông thế
giới chúng ta là do Thượng Đế sinh ra.
*Nhân bản học và nhận thức luận
Con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác. Thể xác là cái vỏ bên ngoài trong đó tiềm ẩn linh hồn con người.
Phê phán nguyên lý Tabularasa của Lốccơ, cho rằng nó mang tính thụ động.Lépnít ví linh hồn con người như 1 viên
đá trắng trong đó tiềm ẩn vô số những đường vân.
Quá trình nhận thức là quá trình sàng lọc các ý niệm để đi đến các ý niệm đúng đắn về sự vật. Hoạt động của lý tính
độc lập với các khả năng của cảm tính.
Từ đó, nhóm cũng đưa ra một số đánh giá về chủ nghĩa duy lý trong triết học Tây Âu thế kỉ XVII, XVIII như sau:
- Thành tựu: Là thế giới quan của giai cấp tư sản trong giai đoạn đang lên của nó, CNDL trong triết học Tây Âu thế kỉ
XVII, XVIII được biết đến như một xu hướng tích cực đấu tranh chống lại tất cả những gì là kinh viện, giáo điều, vô căn cứ,
phản khoa học mới được xây dựng trên một tư duy lý luận có tính phê phán. Người đi tiên phong trong cuộc cách mạng về


16

tư tưởng này là ông Đê các tơ. Ông vạch ra sự bức thiết phải phá hủy những định kiến vô căn cứ để có thể xây dựng nền
tảng triết học và khoa học vững chắc bắt nguồn từ ánh sang tự nhiên của lý trí. Ông cũng cho rằng cần phải xây dựng một
triết học thực dụng “giúp con người trở thành chủ nhân của thiên nhiên”
- Hạn chế: Mặc dù lên tiếng chống lại triết học kinh viện giáo điều nhưng bản thân nó vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng
của tôn giáo và triết học kinh viện. Nó vẫn chưa thoát khỏi quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. Mặt khác,
trong khi phê phán tính giáo điều của triết học kinh viện thì chính nó lại rơi vào giáo điều bằng việc sùng bái một lý tính có
trước sự phát triển của các khoa học.
KẾT LUẬN

Từ những phân tích trên cho thấy tính phức tạp của cuộc đấu tranh giũa chủ nghĩa duy kinh nghiệm và chủ nghĩa duy
lý. Tuy nhiên chúng lại có những điểm chung. Cả hai cùng là cơ sở thế giới quan của giai cấp tư sản, là tiếng nói của giai
cấp tư sản chống lại triết học Kinh viện, thế giới quan của chế độ phong kiến. Các nhà duy lý và các nhà duy cảm đều ủng
hộ khoa học, coi khoa học là chìa khó giúp con người làm chủ tự nhiên. Họ đều đi tìm phương pháp luận cho các khoa học.



×