MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
CV (%) : Hệ số biến động (Coefficient of varation)
đ/c : Đối chứng
FAO : Tổ chức nông lương thế giới
LSD : Sai số nhỏ nhất (Least Significant Defference Test)
LSD
05
: Sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 95 %
NN & PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
STT : Số thứ tự
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
4
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cây có múi (Citrus) là loại cây có giá trị dinh dưỡng cao, có hương vị
thơm ngon, được nhiều người ưa chuộng. Cây cho quả sớm và có sản lượng
cao, năm thứ ba sau trồng cây đã bắt đầu cho quả, những năm về sau năng
suất tăng dần và thời gian kinh doanh kéo dài, nếu chăm sóc tốt có thể trên 50
năm. Có nhiều giống chín sớm muộn khác nhau, nên có thể kéo dài thời gian
cung cấp quả tươi cho thị trường tới 6 tháng trong năm. Mặt khác quả chín
đúng vào dịp Tết Nguyên Đán nên càng có giá trị.
Ngày nay đời sống xã hội đã được cải thiện thì nhu cầu của con người
ngày càng cao. Ngoài giá trị về mặt kinh tế, cây ăn quả còn có vai trò quan
trọng trong việc cung cấp những giá trị dinh dưỡng cho con người. Quả tươi
là một phần rất cần thiết trong bữa ăn của mỗi gia đình, tăng khẩu phần quả
tươi trong mỗi bữa ăn là mức phấn đấu của nhiều nước có nền kinh tế phát
triển. Đáp ứng đủ nhu cầu quả tươi trong mỗi bữa ăn hàng ngày là bảo đảm
dinh dưỡng và an toàn cho mỗi người.
Cam quýt là loại quả được nhiều người, nhiều nước trên thế giới ưa
chuộng và được bán rộng rãi trên thị trường, chúng đã trở thành loại quả có
giá trị vô cùng to lớn trong lĩnh vực kinh tế và dinh dưỡng cho con người.
Nghề trồng cam, quýt cũng ngày càng được quan tâm phát triển, không chỉ về
diện tích mà cả năng suất và sản lượng. Trong nhiều năm qua cam, quýt đã trở
thành loại cây ăn quả chủ lực ở nhiều vùng, nhiều địa phương và điển hình là
một số địa phương đã xây dựng thành công thương hiệu cam, quýt như: cam
sành Hàm Yên (Tuyên Quang), cam sành Bắc Quang (Hà Giang), quýt vàng
Bạch Thông (Bắc Kạn)…
Việt Nam là một trong những nước nằm trong trung tâm phát sinh cây
có múi (Trung tâm Đông Nam Á), nên cây có múi đã được trồng rất lâu đời
và phân bố rộng khắp từ Bắc đến Nam. Nhiều địa danh đã nổi tiếng với tên
4
4
5
gọi như: cam Canh, cam Xã Đoài, cam Sông Con, cam Vân Du, quýt Bố Hạ,
quýt Lạng Sơn… Trong những năm gần đây cam quýt đóng vai trò quan trọng
trong phát triển kinh tế của một số tỉnh như: Cần Thơ, Vĩnh Long, Nghệ An,
Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn…
Điều kiện tự nhiên tỉnh Tuyên Quang rất thích hợp cho trồng cây ăn
quả có múi. Đã hình thành vùng cây ăn quả tập trung mang lại hiệu quả kinh
tế cao, trong đó huyện Hàm Yên là vùng trồng cam tập trung của tỉnh Tuyên
Quang. Toàn huyện hiện có tới 1218.4 ha trồng cam với quy mô là các trang
trại trồng cam nhỏ, chủ yếu tập trung ở các xã Phù Lưu, Minh Dân, Minh
Khương, Bạch Xa, Yên Phú, Yên Lâm, Yên Thuận, thị trấn Tân Yên, sản
lượng cam ở vùng này đạt năng suất bình quân 11 - 12 tấn/ha. Nhiều hộ nông
dân có thu nhập từ 100 - 200 triệu đồng/năm.
Tuy nhiên, hiện nay quy mô các trang trại cam ở Hàm Yên còn nhỏ,
phát triển chưa có chiến lược rõ ràng, người dân vẫn phải tự tìm đầu ra cho
sản phẩm của mình là chính. Công tác quản lý giống còn nhiều bất cập. Các
giống cam chất lượng cao chưa được trồng đại trà, chủ yếu là trồng cam sành
Hàm Yên. Chưa thực sự chú trọng đến chất lượng quả, đại đa số hộ nông dân
trồng cam trong vùng là người dân tộc thiểu số, việc áp dụng khoa học kỹ
thuật vào sản xuất chưa được chú trọng, chăm sóc chưa đúng quy trình kỹ
thuật nên vườn cam tàn cỗi nhanh, sâu bệnh nhiều. Chưa tạo ra được sản
phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế cao, diện tích đất trồng cam có xu hướng
ngày càng giảm.
Để góp phần khắc phục những tồn tại trên nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế trồng cây cam quýt, mở rộng diện tích trồng một số giống cam quýt có
năng suất cao và chất lượng tốt phù hợp với điều kiện đất đai và khí hậu của
huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang chúng tôi thực hiện đề tài: "Nghiên cứu
đặc điểm hình thái, tình hình sinh trưởng, phát triển của một số giống cam
quýt có triển vọng tại huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên Quang".
1.2. Mục đích nghiên cứu
5
5
6
Nghiên cứu đặc điểm hình thái, khả năng sinh trưởng của 3 giống cam
(cam B1, cam VO2, cam sành Hàm Yên) tại Yên Lâm - Hàm Yên - Tuyên
Quang. Trên cơ sở đó lựa chọn được giống cam thích hợp với điều kiện đất
đai và khí hậu của vùng để đưa vào nhân rộng trong sản xuất.
1.3. Yêu cầu
- Điều tra điều kiện tự nhiên (đất đai, khí hậu), tình hình sản xuất cam
của huyện Hàm Yên.
- Theo dõi khả năng sinh trưởng và phát triển của một số giống cam có
triển vọng trên đất trồng mới.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp sinh viên củng cố và hệ thống hóa những kiến thức đã học
trong nhà trường vào nghiên cứu khoa học và trau dồi kiến thức, kinh
nghiệm thực tế.
- Giúp sinh viên nắm được cách tiến hành một đề tài nghiên cứu khoa học.
- Giúp sinh viên biết phương pháp thu thập, xử lý số liệu và trình bày
một báo cáo khoa học.
- Là cơ sở để lựa chọn, áp dụng các biện pháp kỹ thuật mới trong trồng
và chăm sóc cây có múi.
- Là cơ sở để tiến hành nghiên cứu sâu hơn về việc lựa chọn giống cam
quýt phù hợp cho từng vùng.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
- Lựa chọn được giống cam thích hợp nhất đối với điều kiện sinh thái
của vùng để đưa vào nhân rộng trong sản xuất.
- Giúp cho người dân bước đầu tiếp cận các biện pháp kỹ thuật mới
trong việc trồng và chăm sóc cây cam quýt nói riêng và cây ăn quả nói chung,
6
6
7
góp phần tăng năng suất, chất lượng quả, hạn chế sâu bệnh nâng cao thu nhập
cho người làm vườn.
7
7
8
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
Cam quýt được trồng lâu đời ở nước ta, tuy nhiên không phải nơi nào
cây cũng phát huy được ưu thế như nhau, không phải giống nào cũng thích
hợp với bất kỳ một điều kiện tự nhiên của từng vùng. Mỗi vùng đều có những
điều kiện sinh thái nhất định ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển,
khả năng cho năng suất và phẩm chất quả. Trong thời gian qua nông nghiệp
Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng về nhiều loại cây trồng như:
chè, mía, cà phê, hồ tiêu… cây ăn quả đặc sản khác như: cam, quýt, bưởi đã
đang phát triển thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung tạo ra sản phẩm chủ
lực có giá trị kinh tế và xuất khẩu cao.
Cam quýt là cây ăn quả lâu năm, chịu ảnh hưởng rất rõ của các điều
kiện ngoại cảnh như: nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng, kỹ thuật chăm sóc… và nó
được phản ánh ra cây đó bằng các biểu hiện của quá trình sinh trưởng, phát
triển, phẩm chất của quả. Tùy vào tuổi cây và điều kiện sinh thái nơi trồng,
trong chu kỳ sống một năm cam quýt thường ra bốn đợt lộc: lộc xuân, lộc hè,
lộc thu, lộc đông. Các đợt lộc có sự liên quan khá chặt chẽ với nhau, quá trình
ra lộc năm trước là tiền đề cho sự ra hoa kết quả năm sau. Hiểu biết rõ về các
quy luật trên có các biện pháp kỹ thuật hợp lí điều khiển quá trình ra lộc, hạn
chế hoặc loại bỏ hoàn toàn hiện tượng ra quả cách năm, điều chỉnh cân đối
giữa bộ phận trên mặt đất và dưới mặt đất, hạn chế sâu bệnh, góp phần nâng
cao năng suất và chất lượng [1].
Cũng như các cây trồng khác thì cây cam quýt sâu bệnh có thể phá hoại
tất cả các bộ phận của cây trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển, chính
vì vậy nó có thể làm giảm năng suất, phẩm chất thậm chí dẫn tới không cho
thu hoạch. Ở cam quýt nói chung vào độ tuổi cây cho thu hoạch có thể cho
một khối lượng sản phẩm lớn từ 15 - 20 tấn/ha. Vì vậy cây lấy đi từ đất một
lượng dinh dưỡng tương đối lớn để nuôi thân, rễ, lá, và các bộ phận kiến tạo
8
8
9
các sản phẩm quả. Chính vì vậy bón phân cung cấp dinh dưỡng vào đất hoặc
bón phân qua lá sẽ quyết định nhiều đến năng suất chất lượng cam [3].
Tuy nhiên sức sản xuất và sản lượng cây có múi ở Việt Nam luôn
luôn thấp hơn so với các nước phát triển khác. Đây là tình hình chung mà
theo đánh giá của Bộ NN & PTNT thì vấn đề lớn là do sự gây hại nghiêm
trọng của nhiều côn trùng và bệnh hại đặc biệt là bệnh Greening (bệnh
vàng lá gân xanh), sâu vẽ bùa ăn lá cam non làm cho lá xoăn lại không phát
triển được, nhện… [1].
Hiện nay tại Hàm Yên - Tuyên Quang việc áp dụng khoa học kỹ thuật
để phát triển vùng cam đồng thời đưa ra các biện pháp phòng trừ sâu bệnh kịp
thời chưa được rộng rãi nên năng suất chưa cao, mẫu mã không đẹp, chất
lượng thấp.
Vì vậy nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn hiện nay đặt ra cho các cấp
các ngành, người sản xuất cam của huyện Hàm Yên nói riêng và những người
sản xuất cam trong cả nước nói chung là phải chọn tạo ra giống cam có khả
năng sinh trưởng, phát triển tốt, có tính thích ứng cao với điều kiện ngoại
cảnh và có thể duy trì nhân rộng ra sản xuất bằng phương pháp duy trì, chọn
tạo, nhân giống vô tính hiện đại.
Để đáp ứng được nhiệm vụ cấp bách đó thì việc nghiên cứu tình hình
sinh trưởng, phát triển của cây cam là cơ sở tìm ra những quy luật sinh
trưởng, phát triển của chúng. Từ đó xác định được khả năng thích ứng của
giống với điều kiện ngoại cảnh của địa phương là cơ sở để chúng ta đưa
những biện pháp kỹ thuật tác động thích hợp để giống cam tạo ra có khả năng
sinh trưởng, phát triển tốt, có tính thích ứng cao và có thể nhân rộng ra sản
xuất, đáp ứng nhu cầu của người dân trong việc tìm ra giống tốt phù hợp với
điều kiện sinh thái của vùng.
Việc đưa giống cam sạch bệnh vào trồng thí nghiệm khắc phục những
khó khăn hiện tại mà giống địa phương mắc phải. Là cơ sở cho việc tạo ra
giống mới phù hợp cho từng loại đất để có thể đưa vào sản xuất mở rộng ra
toàn huyện.
9
9
10
2.2. Một số đặc điểm thực vật học của cam quýt
2.2.1. Bộ rễ
Nhìn chung cam quýt có bộ rễ ăn nông. Theo V. P. Ekimop (Nga) thì
biểu bì của rễ non có nấm cộng sinh. Nấm có tác dụng tốt cho rễ cam quýt
như vai trò của lông hút với các cây trồng khác. Sự phân bố của rễ cam quýt
phụ thuộc vào đặc tính của giống, mực nước ngầm, chế độ canh tác, chăm
bón, nhưng nhìn chung rễ cam quýt ăn nông từ 0 - 30cm. Bộ rễ cam quýt hoạt
động mạnh vào 3 thời kỳ:
- Trước khi ra cành xuân (từ tháng 2 đến tháng 3).
- Sau khi rụng quả sinh lý đợt đầu đến lúc cành hè xuất hiện (từ tháng 6
đến tháng 8).
- Sau khi cành mùa thu đã sung sức (khoảng tháng 10) [2].
2.2.2. Thân, cành, lá
* Thân, cành: Cam quýt có đặc điểm là “tự rụng ngọn’’ nghĩa là sau khi
cành đã phát triển đến nhất định thì ngừng lại lúc đó ngọn và 1- 2 mầm sẽ
rụng đi. Hiện tượng này xảy ra với các đợt lộc khiến cho cam quýt không có
thân chính rõ rệt, cành lá rậm rạp đây chính là cơ sở cho việc tỉa hàng năm.
- Một năm cam quýt ra nhiều đợt cành:
+ Cành Xuân ra vào tháng 2, 3 là cành mang hoa và quả, cành thường
ngắn, mật độ lá dày thích hợp để lấy mắt ghép, ghép vào mùa thu.
+ Cành Hè được mọc ra từ cành Xuân cùng năm thường ra vào tháng 5 - 7.
+ Cành Thu mọc vào tháng 8 - 9 phát sinh ra chủ yếu từ cành Xuân và
cành Hè cùng năm.
+ Cành Đông mọc vào tháng 11 - 12 thường sinh ra trên cành quả.
- Cành cam quýt được phân chia làm 3 loại:
+ Cành mẹ là cành sinh ra cành quả. Nó có thể là cành xuân, hè, thu
năm trước. Qua theo dõi cho thấy tuỳ theo giống, thường cành thu hoặc cành
hè làm cành mẹ thì số cành quả nhiều và tỷ lệ đậu quả cao.
10
10
11
+ Cành dinh dưỡng cành không ra hoa, quả, chỉ có lá xanh, có nhiệm
vụ là quang hợp, thực ra giữa cành mẹ và cành dinh dưỡng không có giới hạn
rõ, năm nay là cành dinh dưỡng, sang năm có thể là cành mẹ. Thuộc loại cành
dinh dưỡng có một loại cành đặc biệt thường mọc vào mùa hè đó là “cành
vượt”. Cành này mọc từ trong thân chính đâm thẳng ra, dài 30cm đến 1,5m,
có gai dài và to, đốt lá dài, lá to màu xanh nhạt. Khi còn nhỏ có thể lợi dụng
loại cành này để tạo tán hoặc khi cây già yếu cần phục tráng cho cây. Còn đối
với cam kinh doanh thì cắt bỏ tránh cho cây khỏi rụng quả và bớt sâu bệnh.
+ Cành quả tuỳ giống cam quýt mà cành quả có độ dài từ 3 - 25cm,
thông thường từ 3 - 9cm. Cành quả có lá thường đậu quả tốt hơn cành quả
không có lá. Cành quả phần lớn ra trong mùa xuân [2].
* Lá: theo quan điểm tiến hoá thì cam quýt vốn có lá kép. Dấu vết còn
lại là eo lá dưới gốc lá đơn. Eo lá là đặc điểm để phân biệt các giống. Tuổi
thọ của lá thay đổi tuỳ điều kiện khí hậu và điều kiện dinh dưỡng của cây. Ở
Việt Nam trung bình tuổi thọ của lá từ 15 - 24 tháng, ở vùng Á nhiệt đới có
thể kéo dài hơn. Những lá hết thời kỳ sinh trưởng sẽ rụng rải rác trong năm, ở
nước ta rụng nhiều vào mùa đông. Tuỳ theo giống và mùa lá có thể khác nhau
về hình dạng, độ lớn, màu sắc… Lá có quan hệ chặt chẽ với sản lượng, nhất là
với trọng lượng quả. Theo nghiên cứu trên cam Washingtơn Navel (Mỹ) thấy:
Nếu có 10 lá/quả thì quả nặng 70g, nếu có 35 lá/quả thì quả nặng 120g, nếu
có 50 lá/quả thì quả nặng 180g [2].
2.2.3. Hoa quả, hạt
* Hoa: công thức hoa: K
5
C
5
A
20 - 40
G
(8 - 15)
Là loại hoa đầy đủ, hoa thường ra đồng thời với cành non và thường ra
rõ. Một cây cam có thể nở tới 60.000 hoa nhưng chỉ có 7% đậu quả là có thể
đạt sản lượng 100 kg/cây. Hoa cam quýt là hoa lưỡng tính, thông thường tỷ lệ
đậu quả của cam quýt dao động trong khoảng 3 - 11%.
Hoa cam quýt cơ bản được phân chia làm 2 loại:
- Hoa phát dục đầy đủ: hoa có đầy đủ đài hoa, tràng hoa, nhị hoa, nhụy
hoa và bầu hoa.
11
11
12
- Hoa dị hình: những hoa có các bộ phận phát triển không đầy đủ những
hoa này ít có khả năng đậu quả.
* Quả: quả cam quýt thuộc loài quả mọng có múi, số múi tùy thuộc vào
loài: cam Bố Hạ có từ 9 - 10múi, cam Xã Đoài có từ 10 - 13múi, cam Giấy 8 -
9múi, quýt Bắc Sơn có từ 10 - 12múi. Khi còn xanh chứa nhiều acid đến khi
chín lượng acid giảm, hàm lượng đường và chất tan tăng lên.
Cấu tạo quả gồm 2 phần: vỏ ngoài và vỏ giữa.
- Phần vỏ ngoài: gồm lớp biểu bì trên là: biểu bì của tử phòng do các tế
bào có chất sừng dày hình thành xen kẽ có các khí khổng.
- Phần vỏ giữa gồm 2 lớp: lớp sắc tố và lớp trắng.
+ Lớp sắc tố do mấy chục tầng tế bào chứa nhiều sắc tố hợp thành một
lớp mỏng. Khi quả còn xanh nhờ diệp lục mà quả có thể quang hợp được. Khi
quả già và chín thì quả có màu vàng hoặc đỏ.
+ Lớp trắng dưới lớp sắc tố là lớp trắng (lớp cùi) lớp này có thể màu
trắng, màu vàng hoặc hồng nhạt, độ dày của lớp trắng thay đổi tùy giống.
Sự phát triển của quả trái qua hai đợt rụng quả sinh lý:
- Đợt 1: sau khi ra hoa khoảng 1 tháng (tháng 3 - tháng 4) quả còn nhỏ
khi rụng mang theo cả cuống.
- Đợt 2: quả đạt đường kính 3 - 4cm (vào cuối tháng 4) khi quả rụng
không mang theo cuống. Sau 2 đợt rụng quả tốc độ quả lớn nhanh, tốc độ
trung bình từ 0,5 - 0,7 mm/ngày.
Quả lớn nhanh do có sự kích thích của các chất sinh trưởng, chất này
được tạo từ vách tử phòng hoặc từ hạt. Việc bổ sung thêm chất kích thích sinh
trưởng như NAA, IAA, GA3 có thể sẽ nâng cao tỷ lệ đậu quả, giảm số lượng
hạt và tăng kích thước quả.
* Hạt: tùy theo giống mà có sự khác nhau về kích thước, số lượng màu
sắc và phôi hạt, các loại quả có múi phần lớn là hạt đa phôi, riêng bưởi là hạt
đơn phôi [2].
12
12
13
2.2.4. Lộc
Trong điều kiện khí hậu nước ta cây cam, quýt thường ra 3 - 4 đợt lộc
trong 1 năm.
- Lộc Xuân: ra từ cuối tháng 2 đầu tháng 3, nếu thời tiết ấm lộc Xuân có
thể ra sớm hơn từ đầu tháng 1. Ở các tỉnh phía bắc 50 - 60% lộc Xuân tạo
thành cành hoa, cành quả tỷ lệ này thay đổi tùy thuộc vào từng giống, theo
điều kiện ngoại cảnh và tùy thuộc vào mức độ thâm canh.
- Lộc Hè: xuất hiện từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7, lộc Hè ra sớm hay
muộn, nhiều hay ít tùy thuộc vào từng giống cây, điều kiện ngoại cảnh và
trình độ thâm canh.
- Lộc Thu: xuất hiện từ cuối tháng 8 đến đầu tháng 9. Người ta có thể
nhìn vào lộc Hè và lộc Thu mà dự đoán được năng suất quả của năm sau.
- Lộc Đông: là đợt lộc thường hình thành ở các cây non và hiện tượng
này thường chỉ xuất hiện trên cây ăn quả có múi như cam quýt. Ở các tỉnh
phía Bắc nước ta đợt lộc này thường chiếm tỷ lệ ít (khoảng 54%) và ra vào
tháng 11 - 12.
Những cây sống lâu năm và những cây trưởng thành mà năm trước ra
nhiều quả thì vào mùa Hè, mùa Thu, mùa Đông rất ít ra lộc hoặc không ra lộc,
quýt ra lộc muộn hơn cam từ 10 - 20 ngày, trên mặt cây quýt thường có nhiều
cấp cành và được phân bố theo kiểu hợp trục do hiện tượng rụng ngọn (hiện
tượng tự hủy)
2.2.5. Các thời kỳ sinh trưởng và phát dục của cam, quýt
2.2.5.1. Thời kỳ kiến thiết cơ bản
Giai đoạn này cây chủ yếu sinh trưởng dinh dưỡng, cây phát triển thân
cành liên tục trong năm, cành sinh trưởng mạnh, to khỏe, số lượng cành nhiều
trong mỗi đợt ra cành, bộ rễ phát triển mạnh nên cây phát triển rất nhanh.
2.2.5.2. Thời kỳ đầu kinh doanh
Cây cần tiếp tục sinh trưởng dinh dưỡng, cành vẫn ra nhiều tuy nhiên
số lần ra trong năm giảm từ 3 - 4lần, số lượng cành ít hơn, cành ngắn và ít, bộ
13
13
14
rễ phát triển rất khỏe, số cành ra quả tăng dần. Thời kỳ này xảy ra sự mất cân
đối giữa sinh trưởng tán cây và bộ rễ, cây vẫn sinh trưởng sinh dưỡng mạnh
đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng nuôi tán cây và quả vì không đủ dinh dưỡng nên
rễ phát triển ra khỏi mô trồng và đi xuống tầng đất, rễ chật làm ảnh hưởng đến
khả năng sinh trưởng của rễ đồng thời cũng xảy ra sự mất cân đối giữa sinh
trưởng dinh dưỡng và hoa, có thể cây chậm ra hoa cho quả hoặc trên những
cây sinh trưởng dinh dưỡng kém, cây có khuynh hướng ra hoa nhiều ảnh
hưởng đến sinh trưởng thân tán của cây.
2.2.5.3. Thời kỳ khai thác
Cây ở giai đoạn thuần thục, tán cây đã ổn định, sinh trưởng kém cành
nhỏ, ngắn, ít lá, chủ yếu là cành mang quả, số lần ra cành trong năm (ít 1 -
2lần). Thời kỳ này thường xảy ra hiện tượng cây giao tán và sản lượng không
ổn định do có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa sinh trưởng dinh dưỡng và sự
cung cấp dinh dưỡng cho quả, cành lá ra quả nhiều làm cây giao tán rậm rạp,
quang hợp không hiệu quả, chất hữu cơ tạo ra không đủ dự trữ để tiến hành
phân hóa mầm hoa, dinh dưỡng không đủ để cung cấp cho hoa phát triển cũng
như để nuôi quả khi đậu.
2.2.5.4. Thời kỳ già cỗi
Cây sinh trưởng dinh dưỡng kém, cành lá phát triển ít, nhỏ, lá ít, tán lá
thưa, cành vượt phát triển nhiều, cây ra hoa và đậu quả thấp, quả nhỏ, rụng
nhiều, năng suất thấp.
Chu kỳ sinh trưởng của cam, quýt gồm các thời kỳ phát triển căn bản,
thời kỳ trước là nền tảng cho thời kỳ sau phát triển do vậy cần ứng dụng đồng
loạt nhiều biện pháp kỹ thuật để thúc đẩy cây sinh trưởng, phát triển tốt.
2.3. Yêu cầu sinh thái của cam quýt
2.3.1. Nhiệt độ
Cây cam quýt có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới nóng ẩm, vì vậy chúng ưa
khí hậu ấm, nhưng do có phạm vi phân bố rộng, cho nên một số loài chịu được
nhiệt độ thấp. Phần lớn cam quýt sinh trưởng trong phạm vi nhiệt độ 12 - 39
0
C.
14
14
15
Quýt sinh trưởng thích hợp nhất ở nhiệt độ 25 - 27
0
C, cam sinh trưởng tốt ở
nhiệt độ 23 - 29
0
C. Một số loài có thể chịu được nhiệt độ - 5
0
C trong thời gian
ngắn. Quýt Unshiu chỉ bị hại chết khi nhiệt độ xuống đến -11
0
C, cam
Oasinhton Navel bị hại khi nhiệt độ không khí - 9
0
C. Những giống thích ứng
với điều kiện nhiệt độ thấp thường có phẩm vị ngon, hấp dẫn, mã quả đẹp. Ở
nhiệt độ 40
0
C với thời gian kéo dài nhiều ngày, cây ngừng sinh trưởng, lá
rụng, cành bị khô héo. Tuy vậy, có những giống chỉ bị hại khi nhiệt độ không
khí lên đến 50 - 57
0
C [3]. Nhìn chung những vùng có nhiệt độ bình quân hàng
năm > 17
0
C có thể trồng cam quýt. Ở Việt Nam trừ một số vùng có sương
muối kéo dài, còn các vùng khác đều có thể phù hợp với cây cam [2].
2.3.2. Ánh sáng
Cây cam quýt thích hợp với ánh sáng có cường độ 10.000 - 15.000lux
(tương ứng với 16 - 17h trong ngày mùa hè ở nước ta), cam quýt ưa ánh sáng
tán xạ, không ưa ánh sáng trực xạ. Nhưng không nên trồng dưới các bóng cây
to, bởi vì trong điều kiện này cam quýt thường bị nhiều loài sâu bệnh gây hại.
Muốn có ánh sáng tán xạ cho chúng cần bố trí mật độ trồng dày hợp lý và
vườn cam quýt cần bố trí những nơi thoáng và tránh nắng. Đặc biệt ở các
vùng đồng bằng sông Hồng, trung du và miền núi phía Bắc nước ta cần chú ý
đến điều này vì các vùng này sâu bệnh thường gây hại nặng cho cam quýt.
Các giống cam quýt khác nhau có yêu cầu khác nhau về ánh sáng: Cam cần
nhiều ánh sáng hơn quýt, quýt cần nhiều ánh sáng hơn chanh.
2.3.3. Nước
Cam, quýt là giống cây ăn quả có đặc tính ưa ẩm và kém chịu hạn.
Phần lớn các loài có nhu cầu nước cao vào thời kỳ nảy mầm, phân hoá mầm
hoa, kết quả và quả phát triển. Cam, quýt ưa ẩm nhưng lại rất sợ úng. Vào
mùa mưa, đất bão hoà nước nên thiếu oxy làm cho bộ rễ hoạt động kém,
nhiều rễ bị chết, thối làm cho lá và quả non rụng nhiều, giảm tỷ lệ đậu quả.
Lượng mưa thích hợp cho vùng trồng cam quýt là 2000 mm/năm. Quýt cần
nhiều lượng nước hơn cam, cần lượng mưa từ 1500 - 2000 mm/năm. Thích
hợp cho cam, quýt là lượng nước tự do trong đất là 1%, độ ẩm đất ở mức 60%
15
15
16
độ ẩm bão hoà đồng ruộng. Độ ẩm không khí thích hợp là 75 - 80%. Thời kỳ
quả đang phát triển, độ ẩm không khí cao làm cho quả lớn nhanh, phẩm chất
quả tốt, mã quả đẹp. Nhưng vào tháng 8 - 9 độ ẩm cao thường gây ra hiện
tượng quả nứt, một số quả bị rụng. Nếu đủ ẩm trong mùa hè và hạn nhẹ từ
tháng 12 đến tháng 2 năm sau hoa quả sẽ phân hoá nhiều. Tháng 3 - 4 khô hạn
làm giảm số lượng quả trên cây. Cam, quýt sinh trưởng tốt khi có độ ẩm và
lượng nước đạt theo yêu cầu và phân bố đều các tháng trong năm.
2.3.4. Đất và dinh dưỡng
* Đất đai: cam, quýt sinh trưởng và phát triển tốt trên đất nhiều mùn,
thoáng khí, có tầng đất dày, giữ ẩm tốt, khả năng thấm và thoát nước tốt. Đất
trồng cam, quýt cần có mực nước ngầm thấp. Không nên trồng cam, quýt
trên đất sét nặng, đất cát già hoặc có lớp đất mặt quá mỏng, đất đá ong và lồi
đầu quá nhiều, gần mặt đất hoặc ở những nơi có mực nước ngầm cao mà
điều kiện thoát nước gặp nhiều khó khăn. Độ pH thích hợp cho cam, quýt là
5,5 - 6. Còn ở những vùng đất có độ pH < 5, người ta bón vôi để nâng cao
độ PH lên.
* Dinh dưỡng: để phát triển tốt cam, quýt cần được cung cấp đầy đủ và
cân đối các nguyên tố dinh dưỡng đa lượng N, P, K cũng như các nguyên tố vi
lượng Cu, Mg, B,…
- Đạm: là nguyên tố có vai trò quyết định đối với năng suất và phẩm
chất quả. Đạm xúc tiến sự phát triển thân cành lá, thúc đẩy việc hình thành lộc
mới trong năm. Nhiều đạm quá mức có ảnh hưởng xấu đến chất lượng quả:
quả to, vỏ dày, phẩm chất kém, quả lên mã chậm, màu sắc quả đậm hơn bình
thường, hàm lượng vitamin C trong quả giảm. Thiếu đạm lá mất diệp lục ngả
sang màu vàng, nhánh quả nhỏ mảnh, lá bị rụng, nhánh dễ chết khô, quả nhỏ,
vỏ mỏng, năng suất cây giảm. Ở nước ta cây hấp thu đạm quanh năm nhưng
mạnh nhất là vào những tháng trời ấm từ tháng 2 đến tháng 12.
- Lân: rất cần cho quá trình phân hoá mầm hoa. Thiếu lân cành lá sinh
trưởng kém, lá rụng nhiều, rễ không phát triển được. Lân có tác dụng làm
giảm hàm lượng acid trong quả, nâng cao tỷ lệ đường/acid làm cho hương vị
16
16
17
quả thơm ngon, giảm hàm lượng vitamin C, vỏ quả mỏng, trơn, lõi quả chặt
không rỗng, màu sắc quả hơi kém nhưng chuyển mã nhanh.
- Kali: rất cần cho cam, quýt khi cây ra lộc non và vào thời kỳ quả
phát triển mạnh. Kali có ảnh hưởng lớn đến năng suất và phẩm chất quả.
Cây được bón đủ kali quả to, ngọt, chóng chín, chịu đựng cao trong khi
cất giữ và vận chuyển. Tuy nhiên nếu thừa kali trong lá, trong cây thì cành
lá sinh trưởng kém, đốt ngắn, cây không lớn được. Trong đất nếu có nhiều
kali sẽ ngăn trở quá trình hấp thu Ca, Mg làm cho quả tuy to nhưng mã
xấu, vỏ dày, thịt quả thô.
- Magiê: có ảnh hưởng rất lớn đến năng suất cây có múi. Các nguyên tố
vi lượng khác nhau B, Fe, Cu, Zn, Mn… ít nhiều đều có ảnh hưởng đến năng
suất và phẩm chất quả. Tuỳ thuộc vào loại đất, mức độ thiếu hụt của các
nguyên tố vi lượng nói trên mà mức độ ảnh hưởng đến năng suất và chất
lượng quả nhiều hay ít. Bón đầy đủ phân chuồng và phân hữu cơ có thể khắc
phục được tình trạng thiếu các nguyên tố vi lượng trong đất [3].
2.4. Một số giống cam quýt được trồng ở Việt Nam
2.4.1. Một số giống cam
* Giống cam Valenxia
Có nguồn gốc từ Mỹ, cây phân cành ngắn, tán hình cầu hay ô van. Lá
gồ ghề, eo lá lớn, có màu xanh đậm, phản quang. Cành ít gai. Quả to, có khối
lượng trung bình đạt 200 - 250g, hình ô van, vỏ hơi dày, mọng nước, ít hạt, ít
xơ bã, giòn. Quả có từ 9 - 12 múi, tép nhỏ mịn, vàng đậm, nhiều nước, vị ngọt
thanh, thơm, rất thích hợp cho ăn tươi cũng như chế biến nước quả. Cây 9
năm tuổi có chiều cao 4 - 5m, đường kính tán 3,5 - 4m. Cam Valenxia là
giống chín muộn vào tháng 1, 2 năm sau (dịp tết âm lịch) và có khả năng giữ
quả trên cây tới 2 tháng sau khi quả đã chín. Năng suất quả cao, trong giai
đoạn cho năng suất ổn định, năng suất đạt từ 18 - 22 tấn/ha. Có thể trồng
giống cam này ở các vùng miền núi, đồng bằng và đồng bằng ven biển. ở
17
17
18
vùng đồng bằng sông Hồng, giống này hay bị nhiễm bệnh chảy gôm. Hiện tại
được trồng nhiều ở tỉnh Hòa Bình, Nghệ An.
* Giống cam B1:
Là giống cam được Viện Bảo Vệ Thực Vật nhập nội từ Mỹ năm 1999
và đã được làm sạch bệnh qua vi ghép. Đây là giống cam Ngọt, cây sinh
trưởng khỏe, sau trồng 3 năm cho thu hoạch. Quả chín vào tháng 12, số quả
năm thứ 3: 25-28 quả trên cây, năng suất đạt 4,9-5,5 kg quả/cây. Vỏ quả màu
vàng, thịt quả màu vàng đậm, độ brix: 10,5 số hạt trung bình: 10,5 hạt/quả.
(Hà Minh Trung và các cộng sự, 2004)
* Giống cam Xã Đoài
Cam Xã Đoài có nguồn gốc từ xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh
Nghệ An. Giống cam này do một thầy tu người Pháp mang quả từ giống cam
Valencia sang Việt Nam vào khoảng 1880. Người dân địa phương thấy phẩm
chất tốt đã lấy hạt trồng, và giống này được nhân ra từ đó. Giống cam này có
lá màu xanh đậm, hình lá thuôn dài, cành có gai, lá đứng, eo lá rộng. Quả có
chất lượng thơm ngon, hương vị thơm ngon nhưng tỷ lệ xơ cao và nhiều hạt.
Có 2 dạng quả: dạng có quả tròn và dạng có quả tròn dài. Dạng có quả tròn
dài cho năng suất cao hơn, trọng lượng quả trung bình 180 - 200g. Đây là
giống có khả năng thích ứng khá rộng, chịu hạn tốt, chịu đất xấu, đất ven
biển. Hiện nay giống này được trồng phổ biến ở các huyện miền núi tỉnh
Nghệ An, Hà Tĩnh, Hòa Bình, Hưng Yên [6].
* Giống cam Sông Con
Mang tên con sông vùng xứ Nghệ, giống cam này được tạo ra bằng
phương pháp chọn lọc từ một giống nhập nội. Có thể là do dạng đột biến mầm
của cam Washington Navel. Cây sinh trưởng khỏe, tán hình cầu, phân cành
nhiều, cành ngắn và tập trung. Giống cam này có lá bầu, gân phía lưng nổi rõ,
hoa màu xanh bóng, có phản quang, hoa bất dục đực 50%. Khối lượng quả
trung bình đạt 200 - 220g, hình cầu, mọng nước, vỏ quả mỏng, ít hạt, ngọt
đậm và thơm. Cây ghép sau 3 năm cho quả, sau 4 năm có thể đưa vào kinh
18
18
19
doanh khai thác. Cây chiết hoặc cây từ giâm cành sau 3 năm cho quả. Giống
cam Sông Con cho năng suất trung bình, có khả năng chống chịu được một số
sâu bệnh và có tính thích ứng rộng nên đã được trồng ở nhiều vùng như trung
du, đồi núi, ven biển và vùng đồng bằng. Cam Sông Con còn được trồng phổ
biến khắp các vùng trong cả nước [2].
* Giống cam Vân Du
Được nhập nội từ những năm của thập kỷ 40. Do trạm nghiên cứu cam
Vân Du (Thanh Hoá) chọn lọc. Đây là một trong các giống cam chủ lực của
nước ta. Cây phân cành khỏe, tán hình trụ, cành dày, có gai. Lá hơi thuôn,
màu xanh đậm, eo lá hơi to. Quả hình tròn hay ô van, vỏ dày, mọng nước,
giòn, ngọt, nhiều hạt. Giống cam này cho năng suất khá cao, chống chịu tốt
với một số sâu bệnh hại, chịu hạn và được phổ biến rộng. Được trồng phổ
biến ở các nông trường thuộc các tỉnh miền trung và phía Bắc [2].
* Giống cam bù Hà Tĩnh
Được trồng từ lâu đời ở vùng Hương Sơn, Hà Tĩnh. Có nơi gọi là quýt.
Giống có 3 dạng hình chủ yếu:
- Dạng vỏ dày, quả có thành cao, phẩm chất rất tốt, ăn rất ngon.
- Dạng hoàn toàn giống cam sành nhưng quả có thành cao, vỏ mỏng
hơn, nhiều hạt.
- Dạng có quả hình cầu, chín muộn, vỏ quả đẹp.
Cam bù Hà Tĩnh có tính chống chịu khá, thích nghi với điều kiện khí
hậu, đất đai ở các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và các tỉnh vùng đồng bằng, trung
du, miền núi phía Bắc. Năng suất quả ở cây 9 - 11 năm tuổi có thể đạt 35 - 40
tấn/ha nếu trồng ở mật độ 800-1200 cây/ha.
* Giống cam dây (Cam Mật)
Phổ biến ở các vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long và miền đông
Nam Bộ. Ở vùng Tiền Giang, cam này chiếm 80% diện tích trồng cam, quýt.
Cây phân cành thấp, tán lá hình dù lan rộng. Cây đạt 5 năm tuổi cao 3 - 4m,
19
19
20
đường kính tán 5 - 6m, cành ít gai, gai ngắn. Lá xanh đậm có eo nhỏ. Cây có
thể ra hoa 3 vụ trong năm. Năng suất có thể đạt 1000 - 1200 quả/cây/năm.
Khối lượng quả trung bình đạt 220 - 260g. Khi cam chín có vỏ màu vàng, thịt
quả vàng đậm, ngọt, nhiều hạt (20 - 23 hạt/quả). Vỏ quả hơi dày, ít thơm hơn
các giống cam trồng ở phía Bắc. Cây 5 tuổi cao 5m, tán lá hình cầu, phân
cành nhiều, ít gai. Lá có màu xanh đậm, eo lá nhỏ, tán cây thưa, ít cành. Cây
cho 2 - 3 vụ quả/năm. Năng suất đạt 1000 - 3000 quả/cây. Khối lượng quả
trung bình đạt 240 - 250g. Vỏ quả dày, mọng nước, khi chín có màu vàng,
thơm, ít ngọt, nhiều hạt, cho năng suất cao [7] [3] [5].
2.4.2. Một số giống quýt
* Cam sành (Quýt King)
Là loại quýt trồng phổ biến ở nước ta có tên là cam sành. Ở miền Bắc,
cam sành mang tên từng địa phương trồng như: cam sành Bố Hạ (Hà Bắc),
cam sành Hàm Yên (Tuyên Quang), cam sành Bắc Quang (Hà Giang), cam
sành Lạng Sơn… Cam sành sinh trưởng khoẻ, phân cành hướng ngọn,
cành mập thưa, có thể có gai hoặc không có gai. Lá to, dày xanh đậm, eo
lá to, răng cưa trên mép lá thưa và nông, phiến lá hơi cong. Hình thức quả
không đẹp, vỏ dày thô, sần sùi nhưng màu sắc vỏ, thịt quả rất đẹp, thơm
ngon, chất lượng cao [2].
* Quýt Phủ Quỳ Nghệ An
Giống quýt Phủ Quỳ được Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả Phủ
Quỳ tuyển chọn. Giống này có đặc điểm: thân cây dạng thẳng đứng,
không có gai. Góc phân cành hẹp. Tán cây hình elip, mật độ cành trung
bình, cành dẻo, tán gọn, eo lá rất nhỏ hoặc không có, mép lá có răng cưa
dày và sâu, gân lá nổi rõ. Lá non có màu xanh nhạt, lá trưởng thành có
màu xanh đậm. Hoa có dạng hoa đơn và hoa chùm mọc ở nách lá. Hoa có
5 cánh màu trắng, cánh hoa có dạng cuốn lòng thuyền, đài hoa có màu
vàng nhạt, bao phấn hình trứng có màu vàng, nhị dài hơn nhụy. Quả hình
cầu dẹt, đáy quả đỉnh quả lõm khi chín, bề mặt vỏ quả nhẵn bóng, túi tinh
dầu nhỏ, khi chín vỏ quả có màu vàng, tép quả màu vàng. Vỏ quả dễ bóc,
20
20
21
số quả bình quân 6 - 6,5 quả/kg. Hạt có dạng hình nêm dẹt hai đầu. Vỏ hạt
có màu kem, bề mặt vỏ hạt có nếp nhăn. Quýt Phủ Quỳ cho năng suất cao,
phẩm chất khá, chống chịu sâu bệnh tốt đặc biệt là bệnh greening, chín
muộn vào tháng 1, tháng 2[8].
* Quýt đường (Quýt Xiêm)
Trồng ở các tỉnh phía Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Cây sinh trưởng khoẻ, phân cành nhiều, cành có gai. Cây 5 năm tuổi có thể
cho 600 - 1000 quả, khối lượng trung bình quả đạt 100 - 120g. Quả hình cầu,
vỏ mỏng và dai, khi chín có màu vàng tươi, thịt quả mọng nước, ngọt thơm, ít
bã xơ nhưng tương đối nhiều hạt [7].
* Quýt Tích Giang
Được trồng nhiều ở Hải Dương, Hưng Yên và được gọi là “quýt tiến”,
ngày xưa dùng để tiến cho Vua. Vùng Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây trong những
năm gần đây giống quýt này được trồng nhiều ở xã Tích Giang, từ đó mà có
tên gọi là quýt Tích Giang. Cây phân cành thấp, cành nhiều mọc khoẻ và
thẳng, cành dài, đốt ngắn, không có gai. Lá dày, thuôn dài, eo lá nhỏ, mép lá
có răng cưa nông, đuôi lá chẻ lõm, quả to dẹt đẹp, đường kính quả lớn hơn
chiều cao quả. Vỏ hơi dày và giòn. Thịt quả mọng nước, nhiều hạt, hạt to.
Vách múi dai, thịt nhiều xơ bã nhưng ngọt đậm.
* Quýt vỏ vàng Lạng Sơn
Cây mọc thẳng và cao, phân cành nhiều và nhỏ. Lá giống như lá
quýt Tích Giang, nhưng nhỏ và dài hơn, trên lá có nhiều túi tinh dầu, mùi
thơm đặc biệt, mạnh khác hẳn với các giống quýt khác. Quả to trung bình,
vỏ quả mỏng giòn, rất nhiều túi tinh dầu. Thịt quả mọng nước, vách múi
mỏng, ít hạt, hương vị thơm ngon, hấp dẫn, ngọt đậm hơi có vị chua. Tính
chống chịu với điều kiện sinh thái cao, có khả năng thích nghi lớn. Được
trồng nhiều ở các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang,
Tuyên Quang, Cao Bằng[3].
21
21
22
2.5. Một số giống cam quýt trồng tại Tuyên Quang
* Cam sành: quả to trung bình 180 - 200g, vỏ dày thô, sần sùi, màu sắc
vỏ quả và thịt quả đẹp, vị quả ngọt đậm, ít xơ, chín muộn vào dịp tết (tháng
12 - tháng 1 năm sau).
* Quýt sen: cây sinh trưởng khoẻ, năng suất cao, chín sớm, vị ngọt mát,
thơm nhưng xơ bã nhiều, dai, thích hợp trồng để dải vụ.
* Quýt đỏ Ngọc Hồi: sinh trưởng khoẻ, năng suất cao, mẫu mã đẹp,
quả còn xanh mọng nước và rất chua. Khi chín vỏ quả chuyển màu đỏ, có
vị ngọt đậm.
* Quýt vàng: quả hình cầu hơi dẹt, khi chín vỏ quả màu vàng, giòn, thịt
quả mọng nước, vị ngọt đậm, hơi chua, ít xơ.
* Quýt chum: quả hình quả lê, có núm lồi, vỏ màu vàng da cam, hơi sần
sùi, dễ bóc, vị ngọt hoàn toàn, không chua [9].
2.6. Tình hình sản xuất và nghiên cứu cam quýt trên thế giới và Việt Nam
2.6.1. Tình hình nghiên cứu cam, quýt trong nước.
Cam, quýt có lịch sử trồng trọt lâu đời ở nước ta, cho đến nay cam quýt
đã được nhiều nhà quan tầm và đã chọn ra được nhiều giống cho năng suất
cao, phẩm chất tốt đem trồng ở một số vùng trên cả nước. Theo các tác giả
Trần Như Ý, Đào Thanh Vân, Nguyễn Thế Huấn (năm 2000) cho thấy cây ăn
quả có diện tích, sản lượng cao đó là: chuối, cam, quýt, dứa, xoài trong đó
cam, quýt đứng vị trí thứ 2 sau chuối.
Từ những năm hòa bình lập lại đến những năm 60 của thế kỷ trước cam
quýt ở Việt Nam còn rất hiếm, cây cam mới chỉ tập trung ở một số vùng
chuyên canh như xã Đoài (Nghệ An), Bố Hạ (Bắc Giang) đây là 2 vùng
chuyên canh cam có kinh nghiệm, 1 số gia đình cũng đã biết làm giàu từ trồng
cam nhưng trên thị trường cam quýt vẫn là một mặt hàng vô cùng quý hiếm.
Từ những năm 1960 ở miền Bắc thành lập một loạt các nông trường
quốc doanh, trong đó có rất nhiều các nông trường cam quýt như: Sông Lô,
Cao Phong, Sông Bồi,
22
22
23
Thời kỳ này có khoảng 3000ha cam quýt và phát triển khá mạnh, sản
lượng hàng năm đã đạt vài nghìn tấn, trên thị trường cam quýt đã có giá phải
chăng, người dân đã biết đến hương vị của chúng. Năng suất bình quân những
năm đó vào khoảng 135 - 140 tạ/ha. Thời kỳ này vùng cam đất đỏ bazan Phủ
Quỳ (Nghệ An) đạt bình quân toàn nông trường 220 tạ/ha.
Thời kỳ từ 1975 trở lại đây ở miền Bắc diện tích và sản lượng cam có
xu hướng giảm dần, những diện tích được trồng vào thời kỳ từ 1960 - 1965
thì nay đã già cỗi, sâu bệnh nặng vì vậy đã chuyển sang trồng các loại cây
khác hoặc trồng lại. Tuy nhiên vào thời điểm đó ở miền Nam diện tích và sản
lượng cam quýt lại tăng lên nhất là khu vực tư nhân, các tỉnh có diện tích cam
nhiều như Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp… Vào đầu những
năm của thế kỷ 21 trở lại đây so những năm 1975 của thế kỷ trước diện tích
năng suất và sản lượng của cam được tăng lên rất mạnh và dần ổn định.
Bảng 2.1: Tình hình sản xuất cam quýt giai đoạn 2006 - 2010
STT
Tình hình sản xuất
cam, quýt
Năm
2006 2007 2008 2009 2010
1 Diện tích (1000 ha) 62.2 65.1 63.2 63.9 60.9
2 Năng suất (tạ/ha) 98.1 100.1 107.6 105.0 118.6
3 Sản lượng (1000tấn) 611.0 648.2 676.7 683.5 720.1
(Cơ sở dữ liệu bộ NN & PTNT 2012) [12]
Nhìn vào bảng thống kê ta thấy diện tích sản xuất cam, quýt tăng từ
năm 2006 với 62.2 nghìn ha lên 65.1 nghìn ha năm 2007 sau đó giảm dần đến
năm 2010 xuống còn 60.9 nghìn ha. Năng suất trung bình năm 2006 rất thấp
chỉ đạt 98.1 tạ/ha và chúng tăng dần đến năm 2010 đạt năng suất 118.6 tạ/ha.
Tổng sản lượng cam, quýt trong năm 2010 đạt cao nhất là 720.1 nghìn tấn.
2.6.2. Tình hình sản xuất và nghiên cứu cây cam quýt trên thế giới
Mặc dù nguồn gốc cam quýt xuất phát từ vùng Đông Nam Á nhưng
hiện nay cam, quýt được trồng ở nhiều vùng trên thế giới với tổng số hơn
100 quốc gia. Quá trình sản xuất và tiêu thụ cam, quýt được ghi nhận phát
triển từ giữa thập niên 1980 đến nay gồm nhiều chủng loại quả cam, chanh,
23
23
24
quýt, bưởi có lượng gia tăng rất nhanh, sự phát triển cam, quýt bao gồm số
lượng tiêu thụ quả tươi, trên đầu người hàng năm trên thế giới tăng, ngay cả
chế biến đóng hộp cũng gia tăng đồng bộ với hình thức vận chuyển và bao bì
cho sản phẩm, chất lượng đã được cải thiện rất nhiều và chi phí cho đầu tư
giảm đáng kể.
Theo thống kê của FAO năm 2011 tình hình xuất nhập khẩu cam, quýt
trên thế giới như sau: nhập khẩu 37,13 nghìn tấn có giá trị 31.272,38 nghìn
USD, xuất khẩu 63,71 nghìn tấn có giá trị 38.112,3 nghìn USD. Như vậy sản
phẩm cam, quýt có giá trị thương mại rất lớn trong nền kinh tế thế giới.
Bảng 2.2: Diện tích, năng suất, sản lượng cam trên thế giới
2005 - 2010
Năm
Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
2005 3813,959 16,47 62832
2006 3842,559 17,15 65909
2007 4008,317 16,34 65501
2008 4060,343 17,11 69497
2009 4039,015 16,74 67594
2010 4060,795 17,09 69416
(Nguồn: FASTAT/FAO Statistics - năm 2012) [11]
Từ năm 2005 đến năm 2010 diện tích trồng cam trên thế giới tăng từ
3813959 ha lên 4060795 ha. Bên canh đó, năng suất và sản lượng cam cũng
tăng nhưng không liên tục theo các năm.
Bảng 2.3: Sản lượng cam, quýt, chanh, bưởi ở các châu lục năm 2010
(Đơn vị: 1000 tấn)
Vùng lãnh thổ Cam Quýt Chanh Bưởi
Châu Phi 6749,76 1678,423 883,310 6957,837
Châu Mỹ 34898,652 3192,911 5680,628 621,068
24
24
25
Châu Á 20868,872 14142,136 6452,399 2158,906
Châu Âu 6495,029 2199,197 1192,649 4101,084
Châu Úc 404,023 99,225 35,796 64,899
(Nguồn: FASTAT/FAO Statistics - năm 2012) [11]
Nhìn vào bảng trên ta thấy sản lượng cam quýt trên thế giới rất cao
nhưng lại không đồng đều giữa các châu lục, sản lượng cam chiếm tỷ lệ cao
nhất là Châu Mỹ (34898652 tấn), chanh, quýt, bưởi đều có sản lượng thấp
hơn hẳn so với cam (bưởi chỉ có 621068 tấn) . Sản lượng cam thấp nhất là
châu Úc (chỉ có 404023 tấn), không chỉ dẫn đầu về sản lượng cam mà châu
Mỹ còn có sản lượng chanh (hơn 5680 nghìn tấn) cao hơn so với các châu
lục còn lại. Châu Á đứng thứ 2 về quýt với 14142,136 nghìn tấn và đứng đầu
về sản lượng chanh với 6452,399 nghìn tấn. Thấp nhất về sản lương cam là
châu Úc.
Đến năm 2012 theo dự đoán sẽ có hai hướng phát triển về nhu cầu cam,
quýt, đầu tiên là sự phát triển về nhu cầu cam sẽ chậm lại. Brazil hiện nay đang
phải đối phó với hai vấn đề trong sản xuất là bệnh loét (cakel) và hiện tượng biến
vàng trên cam, quýt (Citrut varriegatet chlorosis), ngoài ra thu nhập người trồng
cam thấp do giá thành không cao nên diện tích trồng mới sẽ không tăng. Hai là xu
hướng sử dụng quả cam tươi đối với các quốc gia phát triển sẽ giảm và công
nghiệp chế biến cam sẽ tiếp tục phát triển ở những quốc gia đang phát triển mặc
dù thị trường chính vẫn là các nước Bắc Mỹ và châu Âu.
Bảng 2.4. Tình hình sản xuất cam ở các vùng trên thế giới năm 2010
Chỉ tiêu Năm
Các châu lục trên thế giới Thế giới
Châu Phi Châu Mỹ Châu Á Châu Âu
Châu Đại
Dương
Diện tích
(1000ha)
2008 409,434 1787,992 1520,815 318,924 23,178 4060,343
2009 407,043 1743,891 1556,017 311,851 20,213 4039,015
2010 399,581 1783,843 1567,462 287,744 22,165 4060,795
25
25