Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Phân tích về chủ nghĩa yêu nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.03 KB, 23 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng năm dựng nước và giữ nước đã hun đúc
truyền thống yêu nước, truyền thống chống giặc ngoại xâm, ý thức cố kết
cộng đồng dân tộc do phải thường xuyên đương đầu với các thế lực ngoại
bang xâm lăng hoặc có ý đồ đồng hoá, kể cả đồng hoá cưỡng bức. Trong tiềm
thức mỗi người dân Việt Nam, dù thuộc tộc người đa số hay thiểu số, đều
chứa đựng tình yêu quê hương đất nước nồng nàn kết tinh thành ý thức của
dân với nước, được thể hiện sinh động trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ của
thiết chế Gia đình - Làng - Nước, thành sắc thái độc đáo của văn hoá Việt
Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng ngợi ca truyền thống yêu nước của nhân
dân Việt Nam: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh
thần ấy lại sôi sục, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước ". Lòng yêu nước, tình cảm gắn bó máu thịt và trách nhiệm của
"con dân" với Nước đã đúc kết thành truyền thống và hơn thế trở thành chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam. Bài tiểu luận này sẽ phân tích rõ về chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam từ các góc độ: cơ sở hình thành và phát triển, những nội dung
cơ bản của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
trong giai đoạn mới và xây dựng con người Việt Nam thấm sâu chủ nghĩa yêu
nước.


2

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA YÊU
NƯỚC VIỆT NAM
1.1.


Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam

Yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, đã được củng cố qua
hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các quốc gia biệt lập. Yêu nước
là một tình cảm, một trạng thái tâm lý tự nhiên của con người như tình yêu
quê hương, xứ sở, sự gắn bó với ngôn ngữ và niềm tự hào về truyền thống...
Yêu nước là một tình cảm xã hội, mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành
đối với Tổ quốc, lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ
những lợi ích của Tổ quốc. Yêu nước cũng có quá trình phát triển cùng với
lịch sử phát triển của quốc gia dân tộc, theo quá trình đó thì tình cảm yêu
nước có tính chất cảm tính ấy dần dần trở thành lý tính có nội dung tư tưởng,
lý luận; tư tưởng yêu nước phát triển thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa
yêu nước là nguyên tắc đạo đức và chính trị, tình cảm xã hội. Nội dung chính
của chủ nghĩa yêu nước là tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử
Việt Nam dựng nước và giữ nước, là chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng
đầu trong bậc thang giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc Việt Nam, là tình
cảm, một giá trị thiêng liêng chung của toàn dân Việt Nam; là sức mạnh tiềm
tàng, thường trực trong lòng dân tộc; là nguồn lực không bao giờ cạn. Ở thời
đại nào chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc vẫn luôn là động lực to lớn
để đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2.

Cơ sở hình thành và phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam

* Điều kiện khách quan.
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của Việt Nam đã gắn bó con
người với thiên nhiên, quê hương đất nước.



3

Nước ta nằm trên bán đảo Đông Dương, trong vùng nhiệt đới gió mùa;
do điều kiện kiến tạo của trái đất, nên đất nước ta nằm trong vùng có nhiều tài
nguyên thiên nhiên quý, hiếm. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên đó đã tạo nên
những tiềm năng to lớn của sự phát triển kinh tế, nhưng cũng đặt ra không ít
thử thách lớn đối với dân tộc ta.
Trong quá trình lao động sản xuất, xây dựng đất nước... chúng ta vừa
tìm cách thích nghi với điều kiện tự nhiên, vừa tìm cách khai thác điều kiện tự
nhiên để phục vụ cho sự tồn tại, phát triển của mình. Trong quá trình săn bắn,
trồng trọt, chăn nuôi, những cư dân Việt Nam đã có cuộc sống ổn định, với
một nền sản xuất vật chất, những giá trị tinh thần mang bản sắc riêng và đạt
đến trình độ cao của nền văn minh lúa nước.
Qua thực tiễn đấu tranh chống lại thiên nhiên hà khắc, những cư dân
Việt Nam dần dần liên kết lại với nhau, cùng nhau làm thuỷ lợi, đắp đê sông,
đê biển để chống đỡ lụt lội, hạn hán. Kinh tế phát triển, sự giao lưu giữa các
vùng trong nước từng bước được mở mang. Đó là quá trình từng bước tạo nên
sự gắn bó giữa các cư dân, cộng đồng với nhau; là cơ sở hình thành tình yêu
quê hương, đất nước, sự gắn bó, đùm bọc lẫn nhau.
Sự phát triển biến đổi của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử
Việt Nam ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần, ý thức dân tộc và chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác đem lại cho người ta sự
lý giải đúng đắn về sự biến đổi, phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển
xã hội loài người gắn liền với sự biến đổi của hình thái kinh tế - xã hội.
Việt Nam không giống như nhiều nước trên thế giới, không trải qua
tuần tự 5 hình thái kinh tế - xã hội một cách tự nhiên. Việt Nam không trải
qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ, từ chế độ công xã nguyên thuỷ chúng ta tiến lên
chế độ phong kiến. Chế độ phong kiến Việt Nam là chế độ phong kiến



4

phương Đông, nó cũng khác với chế độ phong kiến phương Tây. Chế độ
phong kiến Việt Nam không có thời kỳ tồn tại chế độ lãnh địa với quan hệ
lãnh chúa - nông nô; không trải qua thời kỳ phân quyền, cát cứ lâu dài, đặc
điểm này có ảnh hưởng chi phối đến sự cố kết cộng đồng và sự phát triển của
dân tộc.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858) xã hội Việt Nam
chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Xã hội đó
tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân lao động với bọn địa chủ
phong kiến. Sự vận động của hai mâu thuẫn cơ bản trên dẫn đến mâu thuẫn
chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc Pháp
xâm lược và bè lũ tay sai. Những chuyển biến đó tác động sâu sắc đến việc
hình thành sự đoàn kết, cố kết dân tộc trong đấu tranh giành độc lập dân tộc,
tự do của nhân dân.
Trong thời kỳ thống trị của chủ nghĩa thực dân, giai cấp tư sản Việt
Nam có nảy sinh và phát triển ở mức độ nào đó, song rất non yếu. Do đó, chủ
nghĩa dân tộc tư sản tuy có một số ảnh hưởng nhất định, nhưng không giữ vai
trò chi phối và không thay thế cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân
tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã có bước
phát triển nhảy vọt về chính trị, giành được độc lập dân tộc, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên CNXH. Đó là quá trình biến đổi căn
bản về sự đoàn kết dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng chuyển sang
giai đoạn phát triển mới về chất, yêu nước gắn liền với yêu CNXH, chủ nghĩa
yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Đó là cơ sở
tạo nên sức mạnh tinh thần và sức mạnh vật chất mới, là nguồn gốc sâu xa và

nguyên nhân quan trọng của mọi thắng lợi cách mạng Việt Nam.


5

Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta hun đúc nên tinh thần đoàn
kết, ý chí đấu tranh bất khuất, kiên cường, niềm tự tôn dân tộc tác động sâu
sắc đến sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Nước Việt Nam nằm ở khu vực án ngữ đường giao lưu giữa Bắc Á và
Nam Á, Đông Á sang Tây Á, nơi có nhiều đường giao thông quan trọng, cửa
ngõ thông thương với các nơi trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nơi
có nhiều tài nguyên thiên nhiên quý hiếm. Vì vậy, từ xưa đến nay, nước ta
luôn bị xem là "miếng mồi béo bở", mảnh đất đầy hấp dẫn đối với nhiều đế
quốc hung bạo. Kể từ cuộc kháng chiến quân Tần (thế kỷ II - trước Công
nguyên, đến năm 1975 kế thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước) trong
vòng 22 thế kỷ, dân tộc ta có tới 12 thế kỷ phải tiến hành kháng chiến chống
lại nhiều kẻ thù thường có tiềm lực kinh tế và quân sự vượt trội hơn ta gấp
nhiều lần.
Những cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống quân xâm lược phương
Bắc trước đây, kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, kiểu mới trong
thời hiện đại đều là những cuộc chiến đấu không cân sức, diễn ra rất ác liệt
cả về quy mô và tính chất chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, không có
con đường nào khác, cả dân tộc đồng lòng nhất tề đứng dậy, cố kết với nhau,
tạo thành sức mạnh to lớn chiến đấu và chiến thắng quân thù. Những điều
kiện đó đã tác động sâu sắc tới quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam, hình thành truyền thống đoàn kết, cố kết dân tộc trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước hình thành nên những phẩm chất đặc biệt
của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá dân tộc tác động
lớn đến sự hình thành và phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.

Văn hoá, văn minh Việt Nam là một bộ phận của văn hoá, văn minh
nhân loại, đồng thời có bản sắc riêng, rất rõ nét của dân tộc Việt Nam.


6

Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất, mỗi dân tộc có truyền
thống văn hoá riêng của mình (phong tục, tập quán, ngôn ngũ, tiếng nói) tạo
nên một nền văn hoá đa dạng, phong phú của nền văn hoá thống nhất. Thống
nhất trong tính đa dạng, phức tạp.
Hơn thế, Việt Nam nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, là dải đất hẹp
nằm giữa núi cao trùng điệp, vừa tiếp giáp với các quốc gia trên đất liền vừa
nối liền với các quần đảo phía Nam. Việt Nam nằm giữa hai trung tâm văn
hoá lớn nhất châu Á là văn hoá ấn Độ và văn hoá Trung Hoa. Hai nền văn hoá
ấy đã xâm nhập mạnh mẽ vào đời sống văn hoá Việt Nam. Tuy vậy, nền văn
hoá Việt Nam không bị đồng hoá với văn hoá bên ngoài. Trái lại, chúng ta
vẫn giữ được cốt cách, bản sắc riêng của mình. Đó là sự vững vàng về bản
lĩnh, cốt cách văn hoá Việt Nam, con người Việt Nam, đồng thời rất nhạy bén
thích nghi, biết hội nhập, biết lựa chọn tinh hoa văn hoá thế giới biến nó thành
giá trị văn hoá mang bản sắc dân tộc Việt Nầm. Tinh thần tự tôn dân tộc, ý
thức yêu nước, thương nòi là một bộ phận cơ bản tạo thành văn hoá Việt
Nam. Nó vừa kết tinh những giá trị tiêu biểu của truyền thống dân tộc, vừa kế
thừa phát triển của nền văn hóa của các dân tộc như là một cơ sở quan trọng
để hình thành phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Quá trình thống nhất quốc gia và sớm hình thành dân tộc độc lập đã
tác động mạnh mẽ đến sự hình thành phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam hình thành rất sớm, do yêu cầu chống thiên nhiên,
chinh phục thiên nhiên và do sự cố kết nhau lại để chống ngoại xâm. Truyền
thống công xã nông thôn Việt Nam đã là một yếu tố đóng vai trò đáng kể
trong việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.

Quá trình hình thành, phát triển của nhà nước, gắn liền với quá trình
thống nhất quốc gia. Tuy mỗi thời kỳ có tên gọi khác nhau, nhưng dân tộc
Việt Nam được hình thành là do nhu cầu trị thuỷ, nhu cầu chống ngoại xâm


7

và do nhu cầu trao đổi kinh tế, văn hoá ngày càng gia tăng giữa các vùng, các
miền lại với nhau, sớm hình thành ý thức cộng đồng, đoàn kết cố kết dân tộc.
Đó là cơ sở của chủ nghĩa yêu nước truyền thống.
* Nhân tố chủ quan.
Ngoài những điều kiện khách quan nêu trên tác động đến quá trình hình
thành, phát triển chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chúng ta cần làm rõ những
nhân tố chủ quan - nhân tố quan trọng quyết định đến nội dung, hình thức của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Từ khi hình thành nhà nước, từ nhà nước sơ
khai ban dầu, đến nhà nước hiện đại, bất kỳ nhà nước nào cũng quan tâm
chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước của
các thế hệ ông cha trong quá trình dựng nước và giữ nước .
Lịch sử Việt Nam bắt đầu bằng một sự kiện có ý nghĩa vô cùng trọng
đại là sự ra đời rất sớm của Nhà nước Văn Lang trên cơ sở hợp nhất tự
nguyện của người Việt cổ (Lạc Việt và Âu Việt): "Vua Hùng đã có công dựng
nước”, và nước Việt ngay từ lúc mới ra đời đã là một quốc gia có cương vực
ổn định với một nền văn hóa rực rỡ, với sản phẩm trống đồng. Có thể khẳng
định rằng sự xuất hiện sớm của Nhà nước Văn Lang đã tạo điều kiện rất cơ
bản cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hình thành sớm.
Nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam là nước Âu Lạc (thống nhất
giữa Tây Âu và Lạc Việt) với người thủ lĩnh kiệt hiệt là Thục Phán để chống
lại sự xâm lược của nhà Tần từ phương Bắc tràn xuống, với sự kiện này đã
nói rõ một đặc điểm của lịch sử Việt Nam: bắt đầu dựng nước cũng là bắt đầu
giữ nước! Tư thế chung của dân tộc ta trong lịch sử là phải luôn luôn vừa lao

động xây dựng đất nước , vừa chiến đấu bảo vệ đất nước dựng nước đi đôi với
giữ nước là một đặc điểm bao trùm, một quy luật cơ bản của lịch sử Việt
Nam.


8

Đến cuối thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, vào cuối thời Văn Lang (và
các vua Hùng) sang đầu thời Âu Lạc (và vua Thục) dân tộc Việt Nam đã đi
vào chính sử. Và công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã được
thực hiện quyết liệt và có kết quả. Vào cuối đời vua Hùng (thế kỷ 3 trước
Công nguyên) đế chế Tần (Tần Thủy Hoàng) với âm mưu bành trướng xuống
phía Nam đã cử 50 vạn quân xuống phía Nam để bình Bách Việt. Nhưng
chúng đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của người Việt (cư dân Văn Lang –
Âu Lạc) do Thục Phán đứng đầu đánh bại sau một cuộc kháng chiến kéo dài
đến 6-7 năm trong những điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ, thiếu thốn đủ
bề (từ 214 trước CN – 209 trước CN). Thục Phán là một thủ lĩnh người Âu
Lạc đã cùng các thủ lĩnh người Văn Lang và quân dân Việt tổ chức cuộc
chiến đấu, bãi chiến trường là miền rừng núi Việt Bắc và miền trung du miền
Đông Bắc ngày nay. Cuối cùng nhà Tần đã phải ra lệnh bãi binh, rút hết quân
ra khỏi phạm vi đất nước người Việt, cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ đầu
tiên của tổ tiên ta đã giành được toàn thắng. Nước Âu Lạc là cao điểm cuối
cùng của kỷ nguyên bắt đầu dựng nước và giữ nước. Sau chiến thắng oanh liệt
đó, (đặc biệt là qua việc đoàn kết chiến đấu), tinh thần cố kết dân tộc trong
nội bộ cộng đồng người Việt càng được củng cố và tăng cường.
Sau chiến thắng quân Tần (khoảng 208 trước CN) nhân uy tín sẵn có
Thục Phán đã xưng là An Dương Vương đổi quốc hiệu là Âu Lạc, phản ánh
sự hợp nhất chặt chẽ hơn giữa hai thành phần Việt tộc (Âu và Lạc) trong một
chỉnh thể quốc gia, một kết cấu chính trị – xã hội cao hơn. Âu Lạc là một thể
thống nhất Việt tộc có ý nghĩa là vừa thống nhất Dân tộc, vừa thống nhất

Quốc gia) cao hơn Văn Lang. Sự thành lập nước Âu Lạc là bước phát triển kế
tục nước Văn Lang. Thời đại Văn Lang và Âu Lạc là thời đại văn minh Sông
Hồng, thời đại các Vua Hùng và Vua Thục, một thời đại vô cùng quan trọng
của lịch sử Việt Nam. Đó là thời kỳ hình thành dân tộc với nền tảng là một


9

đời sống kinh tế chung cho toàn quốc, là thời kỳ hình thành Nhà nước đầu
tiên. Đó cũng là thời đại hình thành một nền văn hóa dân tộc với một bản sắc
độc đáo phi Hoa, phi Ấn với một phong cách Đông Sơn rất đặc trưng, rất điển
hình và có ảnh hưởng lớn đến toàn vùng Đông Nam Á. Cộng đồng dân tộc
Việt xây dựng từ đó một lối sống riêng, có một bản lĩnh vững vàng, và trên
nền tảng đó đã xây dựng được một xã hội, một lối sống Việt Nam, một truyền
thống Việt Nam. Đó cũng là thời kỳ hình thành ý thức dân tộc được tổng hợp
từ những tình cảm gia đình, họ hàng, quan hệ đồng bào, tình làng nghĩa
nước... để trở thành một lòng yêu nước Việt Nam bất khả chiến bại, một ý
thức về quyền sở hữu chung của dân tộc, về địa bàn đất đai, đất nước, lãnh
thổ để trên nền tảng đó ý thức hệ của công cuộc giữ nước bắt đầu. Đó là kỷ
nguyên bắt đầu dựng nước của dân tộc Việt Nam, mở đầu truyền thống dựng
nước và giữ nước oai hùng của dân tộc, từ đó được nâng lên trình độ chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam.
Nhưng vào năm 183 trước CN, Triệu Đà lợi dụng tình hình phương
Bắc rối loạn để xưng đế, lập nước Nam Việt, rồi đưa quân xuống phía Nam
chiếm nước Âu Lạc, mở đầu một thời kỳ mất nước kéo dài hơn ngàn năm, là
một thời kỳ thử thách lớn lao đối với sức sống của dân tộc với âm mưu đồng
hóa toàn diện và triệt để của kẻ thù. Sự đô hộ hơn 1000 năm của các triều đại
phong kiến phương Bắc với nhiều thủ đoạn đồng hóa đã không thể bẻ gãy ý
chí độc lập, tự chủ của dân tộc. Ý chí độc lập tự chủ luôn được bảo tồn và
phát triển từ đời này qua đời khác. Các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng

đánh Hán, Triệu Thị Trinh chống Ngô, Lý Bí chống Lương dựng nên nước
Vạn Xuân, Triệu Quang Phục đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, nhưng đến
đầu năm 603 sau CN lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Bất chấp tình hình
bất lợi, phong trào khởi nghĩa vẫn bùng nổ liên tục, trên khắp mọi miền đất
nước. Cùng với ý chí độc lập, tự chủ là tinh thần bảo vệ nòi giống và văn hoá


10

dân tộc. Sự đô hộ của phong kiến phương Bắc luôn đi liền với âm mưu đồng
hoá dân tộc về huyết thống và văn hoá dân tộc Hán của Trung Quốc. Dân tộc
Việt Nam trải qua hơn 1000 năm lịch sử đã bảo vệ được bản sắc văn hoá dân
tộc, nòi giống Lạc Hồng của mình, Việt hoá mạnh hơn Hán hoá. Và cuối cùng
chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo đã giành lại chủ quyền đất
nước, giữ được vốn văn hoá và bản sắc dân tộc, không bị đồng hoá. Trong
cuộc đấu tranh ấy, sự cố kết cộng đồng dân tộc và tinh thần yêu nước càng
được tôi luyện và nâng cao.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV là thời kỳ tồn tại nền độc lập lâu dài của đất
nước. Trải qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, quốc gia thống
nhất ngày càng được củng cố, công cuộc xây dựng đất nước được tiến hành
trên quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự phát triển của
dân tộc và của Nhà nước phong kiến độc lập, việc dựng nước gắn liền với giữ
nước. Nhưng cũng trong năm thế kỷ đó, không có thế kỷ nào dân tộc ta không
phải chống ngoại xâm, thế kỷ 13 phải tới ba lần chống Nguyên – Mông. Nội
dung bài thơ “ Nam quốc sơn hà” đã chứng tỏ một bước phát triển cao của
tinh thần yêu nước và ý thức độc lập tự chủ. Trải qua ba lần kháng chiến
chống Nguyên Mông thắng lợi cùng với những bộ Binh thư, Hịch tướng sĩ, Di
chúc của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh sự trưởng thành của tinh thần yêu
nước với nhận thức gắn nước với dân và sức mạnh “vua tôi đồng lòng, anh
em hoà thuận, nước nhà chung sức”, “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền

gốc giữ nước”. Khởi nghĩa Lam Sơn đã phát huy cao độ sức mạnh “nêu hiệu
gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương manh lệ”, phát triển thành một cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng. Những tổng kết
trong “Bình Ngô đại cáo” cho thấy tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc đã phát
triển lên trình độ của chủ nghĩa yêu nước với một nhận thức mang tính hệ
thống, khái quát tương đối toàn diện về sự tồn tại của đất nước và dân tộc.


11

Đến thế kỷ 15, nhà Trần đổ nát và bị nhà Hồ thay thế. Nhưng cuộc kháng
chiến do Hồ Quý Ly đứng đầu đã nhanh chóng thất bại vì không phát huy
được sức mạnh vĩ đại của dân tộc để chống giặc giữ nước. Phong trào yêu
nước dâng lên mạnh mẽ, lôi cuốn mọi tầng lớp, mọi thành phần, phát triển
rộng khắp dần quy tụ vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi đứng đầu.
Sau 10 năm chiến đấu (1418-1428), với thắng lợi của cuộc kháng
chiến, nền độc lập dân tộc được khôi phục và giữ vững, âm mưu xâm lược
của kẻ thù bị đánh bại hoàn toàn. Tình hình đó tạo ra những điều kiện rất
thuận lợi để củng cố và xây dựng đất nước. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII,
chế độ phong kiến Việt Nam chuyển sang mô hình chế độ phong kiến trung
ương tập quyền lấy Nho giáo làm nòng cốt. Từ đó, Nho giáo đã có ảnh hưởng
và chi phối ngày càng sâu sắc trong triều đình và xã hội Việt Nam. Phong trào
Tây Sơn (1771) nổi lên ở Đàng Trong rồi tiến ra Bắc. Phong trào đó từ một
cuộc khởi nghĩa nông dân phát triển thành một phong trào dân tộc, đánh đổ
các chính quyền phong kiến, đánh bại quân xâm lược Xiêm, Thanh và xoá bỏ
tình trạng chia cắt Đàng Trong- Đàng Ngoài. Nhưng khi Quang Trung mất thì
nhà Nguyễn chuyên chế lại lên thống trị. Thời kỳ này chế độ phong kiến Việt
Nam đã bước vào giai đoạn khủng hoảng suy vong. Phong trào nông dân khởi
nghĩa tiếp tục lan tràn, chỉ trong vòng nửa thế kỷ đầu của triều Nguyễn đã có
tới trên 300 cuộc khởi nghĩa nông dân lớn và nhỏ.

Trong suốt gần 1000 năm tồn tại của xã hội phong kiến Việt Nam, nội
dung giáo dục truyền thống yêu nước tập trung vào các mối quan hệ như: vua
- nước (trung quân - ái quốc), làng - nước (giữ làng - giữ nước), nước - nhà
(nước mất - nhà tan), nước - dân (yêu nước - thương dân)... Đó là các mối
quan hệ rường mối của xã hội, trong đó quan hệ vua - nước là cơ bản nhất.
Với hệ tư tưởng Nho giáo, giáo dục tư tưởng trung quân là cơ bản nhất. Giai
cấp thống trị luôn giáo dục ý thức bảo vệ độc lập dân tộc, giữ vững sự thong


12

nhất đất nước. Với mục đích bảo vệ quyền lợi, địa vị thống trị của giai cấp
bóc lột. Đất nước độc lập, quyền lợi kinh tế và địa vị chính trị của họ được
bền vững, còn khi đất nước không được độc lập thì điền trang, thái ấp, quyền
uy của giai cấp thống trị cũng không còn. Đương nhiên, giáo dục ý thức độc
lập dân tộc không phải chỉ vì đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị, mà
trong đó còn có quyền lợi của nhân dân. Chính vì vậy phong trào yêu nước
chống giặc ngoại xâm của quần chúng, chủ yếu là phong trào nông dân liên
tiếp diễn ra dưới sự lãnh đạo của các triều đại phong kiến. Quá trình đấu tranh
của nhân dân đã khơi dậy, hun đúc, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước sôi
nổi của cả một dân tộc đặc biệt trước hoạ xâm lăng.
Tới giữa thế kỷ 19, vận mạng dân tộc ta đứng trước một thử thách mới
vô cùng nghiêm trọng là sự xâm lăng của tư bản Pháp. Lịch sử Việt Nam
cũng chuyển sang một trang mới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
Việt Nam phát triển theo những khuynh hướng mới: Các sĩ phu yêu nước
dưới ngọn cờ Cần Vương, các trí thức yêu nước và khởi nghĩa Yên Bái của
Việt Nam Quốc dân Đảng, Phân Bội Châu với phong trào Đông Du, Phan
Châu Trinh với phong trào Duy Tân. Và lúc này, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã
ra đi tìm đường cứu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Người đã kết hợp
chủ nghĩa yêu nước, phong trào công nhân Việt Nam và chủ nghĩa Mác Lênin, thành lập Đảng Cộng sản. Chính Đảng vô sản ra đời (ngày 3-2-1930)

tạo nên một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Từ đây Cách mạng
Việt Nam đi vào quỹ đạo của thời đại. Chủ nghĩa yêu nước lúc này là chủ
nghĩa yêu nước của nhân dân, không bị hạn chế, biến chất bởi chủ nghĩa quốc
gia hẹp hòi, chủ nghĩa sô vanh tư sản, phong kiến. Chính trong thời kỳ Đảng
lãnh đạo, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam càng có những điều kiện vô cùng
thuận lợi để phát triển. Yêu nước ngày nay là kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản chân


13

chính, là đem hết nhiệt tình, trí tuệ và tài năng để xây dựng Tổ quốc theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh trên tinh thần hòa bình, hữu nghị và hội nhập,
cùng nhau phát triển.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC
VIỆT NAM
* Tình yêu quê hương, đất nước, con người
Trong ý niệm về Tổ quốc của con người Việt Nam bao giờ cũng có ý
niệm về quê hương cụ thể nơi họ sinh ra và lớn lên với bao hình ảnh thân
thương: cây đa, giếng nước, sân đình, con người cụ thể trên mảnh đất đó. Tổ
quốc chung, rộng lớn bao giờ cũng gắn với một cái làng riêng biệt. Trong
thực tế đã hình thành lên mối quan hệ Nhà - Làng - Nước trong sự hình thành,
phát triển của dân tộc Việt Nam, trong tổ chức nhà nước, trong tư tưởng, tình
cảm con người Việt Nam. Điều đó làm cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam có độ sâu sắc, mạnh mẽ và độc đáo.
Yêu nước của người dân Việt Nam là một tình yêu cụ thể, không trừu
tượng, từ yêu những cảnh quan thiên nhiên nơi mảnh đất họ sinh ra, đến tình
yêu Tổ quốc bao la.
Tư tưởng yêu nước gắn với thương nòi, đã sản sinh ra những hành động

yêu nước rất cụ thể, hành động của chủ nghĩa anh hùng trong sản xuất, chiến
đấu hình thành nên những tình cảm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của những
người con Lạc, cháu Hồng.
* Tình cảm gắn bó, cố kết cộng đồng, hướng về dân, lấy dân làm gốc.
Thực tiễn sản xuất để mưu sinh, chiến đấu bảo vệ, giữ vững độc lập dân
tộc, đòi hỏi một cách khách quan các tầng lớp dân cư phải có sự đoàn kết, cố
kết với nhau tạo thành sức mạnh cộng đồng vững mạnh, sức mạnh của tất cả
quần chúng nhân dân, sức mạnh ấy được ví như "nước". Nói như Nguyễn


14

Trãi: chở thuyền cùng là dân, lật thuyền cũng là dân. Trong lịch sử dân tộc
Việt Nam trải qua các triều đại khác nhau, nhưng có cùng mục đích: "Việc
nhân nghĩa, cốt ở yên dân", tạo nên sự bình yên của mỗi làng quê và trên toàn
bộ mọi vùng của Tổ quốc. Ở Việt Nam ngoài ba mối quan hệ Vua - Tôi, Cha Con, Chồng - Vợ còn có mối quan hệ thứ tư là quan hệ giữa Nước và Dân,
"Nước lấy dân làm gốc".
* Ý thức bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
Nền văn hoá, văn minh Việt Nam là kết quả của quá trình lao động
chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống, của các cuộc đấu tranh chống
xâm lược, chống sự đổng hoá của các thế lực bên ngoài đối với dân tộc Việt
Nam.
Ý niệm về lịch sử và văn hoá chung giữ vai trò rất quan trọng trong
nhận thức và tình cảm yêu nước (huyền thoại, truyền thuyết, truyện lịch sử, lễ
hội dân gian).
Quan niệm bảo vệ văn hoá dân tộc chủ yếu là bảo vệ bản lĩnh, bản sắc
dân tộc gắn với độc lập, chủ quyền quốc gia, không mang tính bảo thủ, hẹp
hòi. Theo đó, chủ nghĩa yêu nước đòi hỏi mỗi cư dân, cả cộng đồng phải có
trách nhiệm bảo vệ những bản sắc văn hoá của dân tộc mình, gắn với bảo vệ
độc lập chủ quyền quốc gia. Bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc nhưng cũng biết

tiếp thu có chọn lọc, hợp lý tinh hoa văn hoá thế giới. Bảo vệ nhưng không
đóng cửa, bảo vệ gắn liền với sự phát triển. Ở mỗi bước phát triển của lịch sử
dân tộc có bước phát triển của một nền văn hoá cao hơn. Đó là tính quy luật
của sự phát triển văn hoá Việt Nam.
* Ý thức bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, chúng ta đã có ba bản
Tuyên ngôn độc lập. Bản Tuyên ngôn lần thứ nhất vào mùa xuân 1077 sau khi
chiến thắng quân Tống xâm lược, Lý Thường Kiệt viết bài thơ bất hủ:


15

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư"
Năm 1428 sau khi cuộc chiến tranh giải phóng khỏi ách đô hộ của nhà
Minh - Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc đã viết "Bình ngô đại cáo", bản
Tuyên ngôn độc lập lần thứ II.
Bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ II do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố
ngày 02 tháng 9 năm 1945 khai sinh Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Tất cả các bản Tuyên ngôn đều khẳng định quyền dân tộc tự quyết của
Việt Nam; ý chí quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc, giữ vững bản sắc văn
hoá Việt Nam; nghị lực, quyết tâm của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh.Từ tình yêu quê hương, xứ sở
nâng lên thành ý thức bảo vệ non sông đất nước, giang sơn, tổ quốc, sơn hà xã
tắc (ý niệm sâu sắc về lãnh thổ quốc gia) là bước trưởng thành của chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam truyền thống.
Thế kỷ XV Lê Thánh Tông đã khẳng định: "Một thước núi, một tấc
sông của ta không thể vất bỏ... Ai dám đem một thước núi, một tấc sông của

Vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì tội phải tru di".
* Ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc và lòng tự tôn dân tộc
Biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa yêu nước là ý thức coi độc lập dân tộc
là thiêng liêng, bất khả xâm phạm - tinh thần tự tôn dân tộc.
Mỗi lần Tổ quốc bị xâm lăng thì mọi tầng lớp nhân dân luôn đặt lợi ích
đất nước lên trên hết và sẵn sàng gạt bỏ mọi lợi ích riêng, chấp nhận mọi gian
nan, thử thách, hy sinh vì độc lập dân tộc.


16

Tuy nước nhỏ, có lúc bị mất nước hàng trăm, hàng nghìn năm, những
vẫn giữ vững niềm tự tin, tự tôn dân tộc. Chính trên tinh thần đó về sau Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: "Không có gì quý hơn độc lập , tự do".
Ý thức tự tôn, tự lập của dân tộc được hình thành rất sớm và các triều
đại nối tiếp nhau đều có ý thức bảo vệ lòng tự tôn, tự lập của dân tộc, xây
dựng nên bản sắc, cốt cách riêng của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam
luôn luôn hoà nhập với thế giới, nhưng không bao giờ chúng ta bị hoà tan,
mất đi cái bản sắc riêng có của mình.
* Ý thức xây dựng đất nước.
Việt Nam là một nước có tiềm năng lớn về tài nguyên, nhưng nền kinh
tế kém phát triển. Vì vậy, trong tâm thức của mỗi người Việt Nam qua các thế
hệ đều coi việc xây dựng đất nước phồn vinh sánh vai cùng các cường quốc là
một biểu hiện rất cụ thể của lòng yêu nước. Chính trong quá trình cùng nhau
chung lưng, đấu cật lao động xây dựng đất nước, chống chọi với thiên nhiên
mà tình yêu thương con người, yêu quê hương, đất nước nảy nở và không
ngừng được củng cố, phát triển. Nhân dân ta rất quý trọng những nhân tài của
đất nước, những người có công lao trong lao động, sản xuất làm cho đất nước
ngày càng thêm giàu đẹp. Đó là một giá trị văn hoá cao đẹp thể hiện chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam.

III. CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
MỚI CỦA CÁCH MẠNG
3.1.

Bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước hiện nay

Trên thế giới, Chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời lâm vào thoái trào
trong khi các thế lực hiếu chiến đã và đang điều chỉnh chiến lược, ráo riết
thực hiện ý đồ thiết lập “thế giới một cực”. Cuộc đấu tranh của nhân dân thế
giới chống chiến tranh và chạy đua vũ trang, vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ... diễn ra dưới nhiều hình thức mới. Xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế


17

đang là hiện thực khách quan ảnh hưởng đến tất cả các quốc gia, dân tộc từ
các nước phát triển đến các nước kém phát triển. Ngoài những cơ hội, mặt trái
của toàn cầu hóa là nguy cơ tụt hậu về kinh tế, sự phân hóa giàu nghèo ngày
càng tăng, sự bất bình đẳng ngày càng cao. Tệ nạn xã hội phát triển mạnh,
bạo lực, khủng bố, ô nhiễm môi trường; nguy cơ chiến tranh tôn giáo, sắc tộc,
chiến tranh cục bộ, khu vực đe dọa nền hoà bình thế giới. Toàn cầu hóa tạo cơ
hội cho các quốc gia trong công cuộc phát triển kinh tế, song "các mâu thuẫn
lớn của thời đại vẫn rất gay gắt".
Tình hình thế giới và khu vực đã tác động trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, vừa tạo ra nhiều thuận lợi mới, đồng thời cũng gây ra những
thách thức đối với nước ta. Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay: "Phải
tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và
đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững hơn". Lúc này, chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam cần được phát huy mạnh mẽ.
3.2.


Phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước, đáp ứng yêu cầu xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng
của Đảng ta, dân tộc ta. Kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là bài học lớn, xuyên suốt trong quá trình cách mạng
Việt Nam.
Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định Mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" thể hiện được các mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa nước với dân.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng
của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân. Không chỉ bảo vệ giữ vững chủ quyền mà


18

chúng ta còn góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Bằng việc phát
huy nội lực, tranh thủ nguồn ngoại lực; thực hiện nghĩa vụ quốc tế phù hợp
với khả năng và hoàn cảnh quốc tế đã thê hiện được tình thủy chung, trong
sáng của Việt Nam đối với đồng chí, bạn bè trên thế giới.
Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng,
đoàn kết toàn dân, toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đoàn kết là yêu cầu khách
quan của sự nghiệp cách mạng, là lực lượng vô cùng to lớn, là sức mạnh vô
địch không gì thắng nổi. Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề chiến
lược có tầm quan trọng đặc biệt, trở thành một nhu cầu cấp thiết, một động
lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đồng thời, phải biết kết

hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để có thể phát huy nguồn lực bên
trong và nguồn lực bên ngoài cho sự ngiệp phát triển và bảo vệ đất nước.
IV.

XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM THẤM SÂU CHỦ

NGHĨA YÊU NƯỚC
4.1.

Xây dựng con người Việt Nam thấm sâu chủ nghĩa yêu nước

Việt Nam
Có lòng tự hào, tự tôn, tự trọng dân tộc sâu sắc. Niềm tự hào về các
giá trị chân chính luôn luôn là động lực tinh thần to lớn, kích thích hoạt động
thực tiễn của mỗi con người. Xây dựng cho mỗi người Việt Nam có lòng tự
hào dân tộc sâu sắc.
Có hoài bão, khát vọng, ý chí thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh", vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa yêu nước, với tinh thần dựng nước truyền thống là làm cho đất
nước thoát khỏi nỗi nhục nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên thực hiện bằng được
mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".


19

Sẵn sàng làm mọi việc vì dân, vì nước với tinh thần nhiệm vụ nào
cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng. Yêu nước biểu hiện bằng những việc làm cụ thể để giữ vững độc lập
dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tinh thần hy sinh phấn đấu vì nước, vì
dân vẫn là động lực to lớn của các phong trào thi đua.

Kiên quyết đấu tranh với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ
quốc, của nhân dân, phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất, bảo vệ
Tổ quốc. Trong bối cảnh phát triển hiện nay, cần kiên quyết đấu tranh chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, những hành động làm yếu đi sức mạnh tổng
hợp của đất nước đồng thời cảnh giác và kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu
xâm phạm lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.
4.2.

Các giải pháp xây dựng con người Việt Nam thấm sâu chủ

nghĩa yêu nước Việt Nam
Một là, cần đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục
lòng yêu nước cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên. "Thế
hệ trẻ ngày nay tiếp nối sự nghiệp của lớp người đi trước, đẩy mạnh công
cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà để rửa nỗi nhục nghèo
khổ, mở ra một trang sử mới rạng rỡ cho non sông Việt Nam quang vinh sánh
vai cùng các dân tộc khác trên thế giới". Nghị quyết Trung ương 7 khoá X
về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với thanh niên thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ tiếp tục khẳng định vai trò chủ nhân
tương lai đất nước của thanh niên Việt Nam mà còn chỉ ra những nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế về nhận thức của thanh niên hiện nay trước ảnh
hưởng từ mặt trái của cơ chế thị trường, của tình hình phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế và âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù
địch.


20

Đại hội XI của Đảng tiếp tục chỉ rõ: Để phát huy mạnh mẽ sức mạnh
tổng hợp của toàn dân tộc, chúng ta cần phải tăng cường tuyên truyền, giáo

dục tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp
nhân dân; cần kết hợp đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa yêu nước
với phong trào thi đua yêu nước. Những năm qua, đã có nhiều phong trào thi
đua thiết thực, xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân,
trong đó có thanh niên. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các thủ khoa, các doanh
nhân giỏi, các chiến sĩ thi đua trong thời kỳ đổi mới là biểu hiện sinh động
của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là kết quả của phong trào học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Để phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong
thanh niên, cần đổi mới công tác vận động thanh niên, tạo việc làm, tạo môi
trường học tập, sinh hoạt văn hoá, thể thao lành mạnh. Cần đổi mới cách thức
tuyên truyền, giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng yêu quê
hương, đất nước, tránh hô hào chung chung.
Hai là, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân về nội dung chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện nay, khẳng định sự gắn
kết độc lập dân tộc với CNXH. Mục tiêu chung của công cuộc đổi mới là xây
dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó
cũng là nội dung xuyên suốt, bao trùm của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mà đỉnh
cao là chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh - nhân tố quan trọng mang lại thắng
lợi cho cách mạng Việt Nam, không phải là cái gì xa vời mà rất cụ thể, sinh
động. Nó phải được biểu hiện bằng hành động, việc làm hàng ngày ở gia đình,
trong trường học, cơ quan, đơn vị, trên đường phố... Đó là ý thức chấp hành
luật pháp, là cần, kiệm, liêm, chính; là yêu thương con người, không vô cảm


21

trước khó khăn của đồng chí, đồng bào, là tình yêu quê hương, kiên quyết
chống tham nhũng, lãng phí, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc.

Cần làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, làm cho mỗi người Việt
Nam, trước hết là từng cán bộ, đảng viên nhận thức rõ tình trạng tham nhũng,
lãng phí đang là quốc nạn, làm xói mòn lòng tin của nhân dân và đảng viên
đối với Đảng và Nhà nước, trực tiếp đe dọa sự lãnh đạo của Đảng, sự tồn
vong của chế độ. Triển khai nghiêm túc Cuộc vận động Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 khoá XI là biện pháp cực kỳ quan trọng để xây dựng và
phát triển đất nước trong tình hình mới, là sự phát huy chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.


22

KẾT LUẬN
Yêu nước, đó không chỉ là một tình cảm, một phẩm chất tinh thần, mà
đã phát triển thành một chủ nghĩa - chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc
chân chính thành dòng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên suốt lịch sử dân
tộc. Cái dòng chủ lưu ấy - chủ nghĩa yêu nước Việt Nam - có thể hình dung
trên những nét tiêu biểu là: - Tình cảm, ý thức hướng về cội nguồn, tổ tiên như
một yếu tố tâm linh của người Việt Nam: "Dù ai đi ngược về xuôi - Nhớ ngày
giỗ tổ mồng Mười tháng Ba". - ý thức ngưỡng mộ, tôn sùng, ghi ơn những
anh hùng có công với nước, với dân. - Gắn bó vận mệnh đất nước với tồn tại
của từng gia đình: "Nước mất, nhà tan". - ý thức cố kết cộng đồng trong xây
dựng quê hương đất nước, trong đấu tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt và
chống ngoại xâm. - ý thức về tinh thần độc lập, tự chủ về lãnh thổ, chủ quyền
quốc gia v.v.. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sức mạnh tư tưởng Việt Nam một nguồn sức mạnh to lớn được kết tinh hun đúc qua trường kỳ lịch sử.
Trong thời đại hiện nay, phát huy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là cơ sở vững
chắc, là bệ đỡ để Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững trong xu thế toàn
cầu hoá và hội nhập quốc tế. Mỗi con người Việt Nam đều phải không ngừng
phấn đấu trở thành con người cua thời đại mới thấm nhuần chủ nghĩa yêu

nước.


23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương , “Hướng dẫn số 60 - HD/BTGTW, ngày
17 tháng 11 năm 2008”.
2. GS. Đinh Xuân Lâm (2011), “Đặc sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam”, Báo
Đại Đoàn kết
3. Nguyễn Mạnh Tường, “Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam từ truyền thống
đến hiện đại”, Sách Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về trung với
nước hiếu với dân, Nxb.ST - CTQG, H.2009, tr. 204 – 224.



×