Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tình hình nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.81 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
LỚP MG009_1_121_T17

TIỂU LUẬN MÔN QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG.
ĐỀ TÀI SỐ 16 :
TÌNH HÌNH NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
Nhóm 3
GVHD: Trịnh Quốc Trung

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, ngành ngân hàng càng nắm giữ một vai trò
quan trọng trong nền kinh tế, nó không chỉ là cầu nối để chuyển vốn trong nền kinh tế mà
nó còn được dùng như một công cụ vĩ mô để Chính phủ và Nhà nước có thể quản lý nền
kinh tế. Hệ thống ngân hàng từ lâu đã quan tâm không ít đến vấn đề nợ xấu trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng và sau khi cuộc khủng hoảng toàn cầu, từ bài học về sự sụp
đổ hàng loạt các định chế tài chính lớn trên thế giới, rung động không chỉ ở nền kinh tế
số một thế giới là Hoa Kỳ mà toàn bộ nền kinh tế thế giới phải chịu hậu quả nặng nề từ
nó. Một phần không nhỏ của cuộc khủng khoảng tài chính và phá sản hàng loạt các ngân
hàng tại Mỹ và Châu Âu là do nợ xấu. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã và đang đứng
trước yêu cầu phải cải cách toàn diện và sâu sắc để đáp ứng nhu cầu mới của đất nước
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua việc tìm hiểu tình hình nợ xấu của hệ
thống ngân hàng ở Việt Nam, đồng thời tìm ra nguyên nhân thực sự dẫn đến thực trạng
trên, trên cơ sở đó đưa ra một số đề xuất của nhóm nhằm góp phần làm lành mạnh hoá
tình hình tài chính của các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng và tạo điều kiện cho các
ngân hàng thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh của mình trong lĩnh vực tín dụng nhất là
trên lộ trình hội nhập quốc tế.


Tuy nhiên do trình độ còn hạn chế cùng với việc nghiên cứu có hạn nên chắc chắn
nhóm còn những thiếu sót nhất định, nhóm 11 mong muốn nhận được sự quan tâm và ý
kiến đóng góp của thầy để đề tài thật hoàn thiện.

2


Chương 1: TỔNG QUAN
1.1.

Khái niệm:

Nợ xấu hay nợ khó đòi là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá hạn và bị nghi ngờ
về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ, điều này thường xảy ra khi các
con nợ đã tuyên bốphá sản hoặc đã tẩu tán tài sản. Nợ xấu gồm gồm các khoản nợ quá
hạn trả lãi và/hoặc gốc trên thường quá ba tháng căn cứ vào khả năng trả nợ của khách
hàng để hạch toán các khoản vay vào các nhóm thích hợp.
Một định nghĩa khác của từ điển tài chính Farlex: “Nợ xấu là một khoản nợ từ việc
tín dụng bán hàng mà chủ nợ không có khả năng thu hồi. Chủ nợ đã tiến hành tất cả mọi
nỗ lực có thể để thu hồi nợ nhưng không thành công. Thông thường, nợ xấu xuất hiện khi
con nợ tuyên bố phá sản hay chủ nợ thực hiện nhiều hoạt động thu nợ mà chi phí của
chúng là tương đối so với khoản nợ. Một doanh nghiệp xóa sổ và kê khai nợ xấu như một
chi phí làm giảm thu nhập chịu thuế của họ. Hầu hết các doanh nghiệp đều chấp nhận nợ
xấu ở một tỉ lệ nhất định (được xác định bằng số liệu nợ xấu ở kì trước) vì chắc chắn
không thể thu hồi được tất cả các khoản nợ một cách đầy đủ nhất.”
 Bản chất:
- Bản chất của nợ xấu là một khoản tiền cho vay mà chủ nợ xác định không thể thu

hồi lại được và bị xóa sổ khỏi danh sách các khoản nợ phải thu của chủ nợ. Đối
với các ngân hàng, nợ xấu tức là các khoản tiền cho khách hàng vay, thường là

các doanh nghiệp, mà không thể thu hồi lại được do doanh nghiệp đó làm ăn thua
lỗ hoặc phá sản,.... Nhìn chung, một doanh nghiệp luôn phải ước tính trước những
khoản nợ xấu trong chu kỳ kinh doanh hiện tại dựa vào những số liệu nợ xấu ở kì
trước.
- Nợ xấu là một số tiền được viết bởi các doanh nghiệp như là một tổn thất cho
doanh nghiệp và được phân loại như là một khoản chi phí vì nợ cho doanh nghiệp
là không thể được thu thập, và tất cả những nỗ lực hợp lý đã được tận dụng để thu
thập các số tiền nợ. Điều này thường xảy ra khi các con nợ đã tuyên bố phá sản
hoặc chi phí của việc theo đuổi hành động hơn nữa trong một nỗ lực để thu thập
các khoản nợ vượt quá các khoản nợ của chính nó.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam quy định về Phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, nợ
xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm ba (nợ dưới tiêu chuẩn), nợ nhóm bốn (nợ nghi ngờ)
và nợ nhóm năm (nợ có khả năng mất vốn), cụ thể:
• Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín
dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;

3


- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã

cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và

Khoản 4 Điều này.



Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả
năng tổn thất cao:

-

Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;

-

Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại;

-

Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 (*).



Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là không còn khả năng thu hồi, mất vốn:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn

đã được cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và

Khoản 4(*).
( )


* Khoản 3: Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với tổ
chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức
tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm
nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
( )

* Khoản 4: Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng
có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín
dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn
tương ứng với mức độ rủi ro.
1.2. Nguyên nhân:
1.2.1. Về phía khách hàng (doanh nghiệp):
• Nguyên nhân chủ quan:
- Trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của khách hàng kém, sử dụng vốn vay
không đúng mục đích, tiền vay về không có tác dụng thúc đẩy hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp vay vốn làm ăn kém hiệu quả,
nợ Ngân hàng tăng.
4


Doanh nghiệp thiếu thiện chí trả nợ, cố ý không cung cấp đầy đủ hoặc có hành
vi che giấu thông tin trong suốt quá trình xin cấp tín dụng và sử dụng vốn vay,
thực hiện việc đi vay ở nhiều tổ chức tín dụng.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch trong việc xử
lý các loại giấy tờ, sổ sách kế toán.
- Doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn vay quá lớn trong cấu trúc vốn của mình.
...
• Nguyên nhân khách quan:
- Doanh nghiệp vay vốn gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình: thiên

tai, hoả hoạn, chiến tranh,…và đặc biệt là tác động của khủng hoảng kinh tế
trong khu vực và trên thế giới, do vậy việc sử dụng vốn vay không đạt hiệu
quả, có thể mất hoàn toàn vốn.
- D o a n h n g h i ệ p g ặ p p h ả i n h ữ n g t h a y đ ổ i m ô i trường kinh doanh
không thể lường trước được như sự thay đổi về giá cả, nhu cầu thị trường, lạm
phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, sự thay đổi về môi trường pháp lý hay chính sách
của Chính phủ khiến doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài
chính không thể khắc phục được.
...
1.2.2. Về phía Ngân hàng thương mại:
- Quá trình thẩm định tín dụng, phân tích tình hình sử dụng vốn và khả năng
hoàn trả nợ không kỹ lưỡng dẫn đến sự sai lầm trong quyết định cấp tín dụng.
- Môi trường pháp lý chưa thật hoàn chỉnh không đảm bảo sự an toàn cho việc
cạnh tranh lành mạnh trong các hoạt động kinh tế.
- Chính sách tín dụng có sự khác biệt, chưa thống nhất ở các chi nhánh của một
Ngân hàng nói riêng (do đặc điểm riêng của từng địa phương) và trong hệ
thống Ngân hàng nói chung. Các NHTM quá chú trọng vào mục tiêu lợi nhuận,
gây nên tình trạng tăng trưởng tín dụng nóng.
- Năng lực và đạo đức của một bộ phận cán bộ tín dụng còn kém, không thể
đánh giá tương đối đầy đủ về rủi ro của một khoản vay hay vì lợi ích cá nhân
mà vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
- Do xuất hiện rủi ro đạo đức trong mối quan hệ giữa Chính phủ, các Ngân hàng
thương mại quốc doanh và các doanh nghiệp nhà nước khiến quyết định cho
vay bị bóp mép và thiếu an toàn.
- Việc chạy đua lãi suất huy động đẩy lãi suất cho vay lên cao, gây ra tâm lý thờ
ơ của các doanh nghiệp mạnh khi họ có thể sử dụng nguồn vốn khác rẻ hơn.
Các khách hàng còn lại được đưa vào diện nghi vấn về khả năng quản lý, kinh
doanh để trả nợ cho Ngân hàng.
- Các khoản cho vay của Ngân hàng tập trung vào những lĩnh vực có độ rủi ro
cao, khiến cho danh mục nợ vay thiếu đi sự da dạng; từ đó, khả năng phân tán

rủi ro của Ngân hàng sẽ giảm đi.
- Vấn đề có thể phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng
đi vay mà không được Ngân hàng giám sát, kiểm soát tốt.
-

5


Hoạt động chia sẻ thông tin về khách hàng giữa các Ngân hàng vẫn còn chưa
hiệu quả.
1.2.3. Về phía hệ thống pháp luật, quy định của hoạt động ngân hàng:
-

Những vướng mắc bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành
về việc xử lý
tài sản đảm bảo: lợi ích hợp pháp của chủ nợ có đảm bảo chưa được bảo vệ đầy đủ,
vướng mắc trong việc xác định hiệu lực của giao dịch đảm bảo, gây rủi ro cho bên nhận
đảm bảo, hoạt động xử lý tài sản đảm bảo chưa được sự hỗ trợ cần thiết còn phụ thuộc
nhiều vào ý chí của bên sở hữu tài sản đảm bảo.
1.3.

Dấu hiệu nhận biết nợ xấu:
• Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng:

Dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng bao gồm hai nhóm chính thể hiện trong mối
quan hệ giữa khách hàng với Ngân hàng và phương thức quản lý, tình hình tài chính, hoạt
động của khách hàng.
Trước hết là có những biểu hiện không bình thường trong mối quan hệ giữa khách
hàng với Ngân hàng như:
-


-

-

-

-

Khách nợ tìm mọi cách để lần tránh, không cho tiếp xúc liên lạc được.
Khách nợ đã rất nhiều lần hứa và cam kết nhưng không thanh toán.
Khách nợ có thanh toán nhưng chỉ thanh toán với giá trị rất thấp so với số công
nợ còn lại.
Khách hàng gây khó khăn cho Ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ
hoặc đột xuất tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản
xuất, kinh doanh của khách hàng mà không có sự giải thích rõ ràng, minh bạch,
thuyết phục.
Doanh nghiệp cố trì hoãn gửi các báo cáo tài chính theo yêu cầu hoặc không có
các báo cáo về lưu chuyển tiền tệ mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết
phục.
Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp
luật trong quá tŕnh quan hệ tín dụng.
Đề nghị gia hạn, điều chỉnh định kỳ hạn nợ nhiều lần không rõ lý do hoặc thiếu
các căn cứ thuyết phục mang tính khách quan về việc gia hạn hay điều chỉnh
kỳ hạn nợ.
Có sự sút giảm bất thường số dư tài khoản tiền gửi mở tại Ngân hàng; xuất
hiện những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong
tốc độ và tổng mức lưu chuyển tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng.
Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách
hàng không muốn trả hoặc do việc thu hồi công nợ chậm hơn dự tính

Mức độ vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu vay các khoản vượt quá nhu cầu
dự kiến.
Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút so với định giá
khi cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán, trao đổi hoặc đã
biến mất hoặc không còn tồn tại.
6


-

-

Khách hàng có biểu hiện trông chờ các nguồn thu nhập bất thường khác, không
phải từ hoạt động sản xuất, kinh doanh chính hoặc từ hoạt động được đề xuất
trong phương án vay vốn để đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán. Hoặc họ có tìm
kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt là từ đối thủ
cạnh tranh của Ngân hàng hay sử dụng các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt
động đầu tư dài hạn.
Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn vay với giá cao với mọi điều kiện.
Thứ hai là xuất hiện các dấu hiệu bất thường liên quan tới phương pháp
quản lý, tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của khách hàng. Những
dấu hiệu này tác động trực tiếp tới chất lượng khoản tín dụng nhưng với tốc độ
chậm hơn. Chúng không dễ nhận diện nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ của cán bộ
tín dụng, bao gồm:

Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi
khách hàng đề nghị cấp tín dụng.
- Những thay đổi bất lợi trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh toán hay mức độ hoạt
động của khách hàng.
- Xuất hiện ngày càng nhiều các chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến

trong chi phí quảng cáo, tập trung quá nhiều chi phí để gây ấn tượng như thiết
bị văn phòng hiện đại, phương tiện giao thông đắt tiền….
- Thay đối thường xuyên tổ chức của ban điều hành. Xuất hiện mâu thuẫn trong
quản trị điều hành, tranh chấp trong quá trình quản lý.
- Khách hàng sẵn sàng từ bỏ những hợp đồng giá trị nhỏ và vừa nhưng có khả
năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao để tìm kiếm các hợp đồng lớn với các bạn
hàng có tên tuổi dù lợi nhuận thu về có khả năng đạt thấp hơn.
- Do áp lực nội bộ, doanh nghiệp phải tung ra thị trường các sản phẩm, dịch vụ
quá sớm khi các sản phẩm chưa đạt được các điều kiện cần thiết hoặc đặt ra
những hạn mức thời gian, doanh số không hợp lý.
- Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh bất ngờ xảy ra và có ảnh hưởng đến lĩnh vực
kinh doanh của khách hàng.
• Nhóm các dấu hiệu phát sinh từ phía Ngân hàng:
-

Rủi ro có thể phát sinh từ phía khách hàng nhưng cũng có thể là bắt nguồn từ phía
Ngân hàng. Nếu là rủi ro do Ngân hàng gây ra thì ta có thể nhận thấy thông qua một số
các dấu hiệu như sau:
-

-

Có sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng.
Cấp tín dụng dựa trên các cam kết không chắc chắn và thiếu tính đảm bảo của
khách hàng về việc duy trì một khoản tiền lớn hoặc các lợi ích do khách hàng
đem lại từ khoản tín dụng được cấp.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt qua khả năng và năng lực kiểm
soát của Ngân hàng.
Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra chẳng hạn như sáp nhập,
thay đổi địa vị pháp lý từ chi nhánh lên công ty con hạch toán độc lập...

7


-

-

Soạn thảo các điều kiện ràng buộc trong hợp đồng tín dụng mập mờ, không rõ
ràng, không rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay; cán bộ tín dụng cố ý thoả
hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có rủi ro tiềm ẩn, hồ
sơ còn thiếu về mặt pháp lý để chứng minh cho khoản nợ là phù hợp, thiếu hóa
đơn, chứng từ.
Cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân
đoạn ưu tiên.
Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá: giảm thấp lãi suất hoặc phí dịch vụ hay
giữ chân khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với tổ
chức tín dụng khác...

Chương 2: NỢ XẤU CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
2.1.

Thực trạng

Quá trình tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua đi kèm
với đó là tỷ lệ nợ xấu tăng lên. Đặc biệt là tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong hệ thống ngân
hàng đạt mức bình quân 30%/năm trong những năm gần đây, tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng
từ 40,1% vào năm 2000 lên tới 125% vào năm 2010… đi cùng với sự tăng trưởng này thì
số nợ xấu cũng tăng theo. Số liệu về nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD) chính thức
được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đầu tháng 7/2012 cho thấy: Nợ xấu của hệ
thống ngân hàng đến cuối tháng 3/2012 là hơn 202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ

cấp tín dụng. Con số này vượt xa con số 117.000 tỷ đồng theo báo cáo của chính các
TCTD.
Cụ thể, theo báo cáo của các TCTD đến ngày 31/5/2012, nợ xấu là hơn 117.000 tỷ
đồng, chiếm 4,47% so với tổng dư nợ. Tuy nhiên, theo kết quả giám sát của Cơ quan
Thanh tra, giám sát ngân hàng thì đến 31/3/2012 nợ xấu là hơn 202.000 tỷ đồng, chiếm
8,6% tổng dư nợ. Kết quả này dựa trên giám sát của cơ quan đối với gần 1,01 triệu khách
hàng vay được chọn mẫu của 57 TCTD Việt Nam, chiếm 90,1% tổng dư nợ tín dụng của
các TCTD. Cũng theo kết quả giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, đến
cuối tháng 3/2012 trong hơn 1 triệu khách hàng được chọn mẫu khảo sát tại 57 TCTD
của Việt Nam có 10.782 khách hàng có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ 3 lần trở lên. Một
thực tế cho thấy, dù là con số nào thì số nợ xấu của Việt Nam là rất lớn.
Cũng theo số liệu của các tổ chức tín dụng báo cáo lên, tính đến 30/6, nợ xấu của
các Ngân hàng quốc doanh là 3,76%, trong khi khối cổ phần là 4,73%. Cụ thể, tỷ lệ nợ
xấu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) là lớn nhất với
8


6,14%, xếp sau lần lượt là các Ngân hàng: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
(Vietcombank) là 3,55%, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL - MHB (2,635), Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV (2,52%), Ngân hàng Công thương Việt Nam VietinBank (2,45%). Theo báo cáo của chính các tổ chức tín dụng, nợ xấu của họ đều
không quá 2,5% và đều có lãi. Nhưng khi Ngân hàng Nhà nước thanh tra thì có tổ chức
tín dụng nợ xấu lên 30% và thậm chí tới 60%. Có những Ngân hàng mất hết cả vốn tự có
và vốn điều lệ mà vẫn báo cáo kinh doanh có lãi.
Tại Ngân hàng ACB, số liệu của Ngân hàng này cho thấy, đến 30/6/2012, tổng dư
nợ cho vay khách hàng đạt 102.772,133 tỷ đồng, chỉ tăng tăng 0,86% so với đầu năm.
Trong khi đó số lượng nợ xấu đã tăng từ 873,52 tỷ đồng lên 1.575,2 tỷ đồng, tương
đương hơn 80%. Tỷ lệ nợ xấu của ACB đã tăng từ 0,85% lên 1,53% Tình hình nợ xấu
tăng cũng ở một số Ngân hàng khác như Navibank là 3,87%, ACB 1,53%, MB 1,85%,
Eximbank 1,73%, SHB là 2,52%....
Nợ xấu hiện nay là tất yếu vì cả quá trình kinh tế khó khăn từ năm 2008. Thêm

vào đó, nợ xấu cũng đã tồn tại từ lâu, không phải bây giờ mới xuất hiện và được quan
tâm. Quan trọng là chúng ta nhìn nhận và đánh giá, xử lý nó như thế nào. Trong việc xác
định nợ xấu, ngoài số nợ đã xuất hiện, cần tính tới cả nợ đã được giãn nợ, đảo nợ để xác
định được các rủi ro tiềm ẩn có thể xuất hiện trong tương lai. Khi xác định được chính
xác nợ xấu rồi mới tìm được hướng giải quyết. Cũng theo bà Hương, hiện tại yếu tố tồn
kho lớn cũng góp phần làm nên nợ xấu lớn cho nền kinh tế và có giải quyết được tồn kho
mới có thể giải quyết được nợ xấu. Theo đó, trước hết để giảm tồn kho của nền kinh tế,
ngoài việc tăng chi tiêu chính phủ, mở rộng đầu tư thì cũng cần giảm thuế cho doanh
nghiệp, giảm thuế VAT để giảm giá thành, nâng cao sức mua.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến nợ xấu gia tăng là do năng lực
quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng, thể hiện trong việc xếp hạng tín dụng nội bộ khách
hàng, nên kết quả xếp hạng tín dụng mang tính chất chủ quan. Các ngân hàng chưa xây
dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính xác được yếu tố này dẫn
đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa chính xác. Những khoản rủi ro to thì làm bé đi,
khoản vay bé thì làm cho nó to lên. Bên cạnh đó, hiện có đến 90% là doanh nghiệp vừa
và nhỏ, không ít doanh nghiệp có báo cáo tài chính không chính xác, trong khi phần lớn
các báo cáo tài chính này lại không được kiểm toán. Ngay cả đối với những doanh nghiệp
lớn được kiểm toán thì sự chậm chễ trong việc công bố báo cáo cũng như chất lượng
kiểm toán cũng gây không ít khó khăn cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, nợ xấu còn có nguyên nhân sâu xa từ đạo đức nghề nghiệp của một
số cán bộ ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng là ngành kinh doanh đặc thù, cần dựa
trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo đức phải được đặt lên hàng đầu và ở khía
cạnh nào đó còn mang tính bắt buộc. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ ngân hàng đã thông
đồng rút ruột với khách hàng, cho vay khống dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Chính vì vậy đã có chi nhánh phải xử lý hàng chục nhân viên do cấu kết với nhau rút ruột
ngân hàng. Tuy nhiên hiện chưa có tính toán, trong tỷ lệ nợ xấu có bao nhiêu xuất phát từ
9


đạo đức ngân hàng. Ngoài ra, nợ xấu còn nằm ở dạng “chuyển vốn cho vay thành vốn

góp.” Khoản nợ này không chỉ “rất xấu” mà còn nguy hiểm ở chỗ đôi khi chỉ tồn tại trên
sổ sách của con nợ và chủ nợ.
Trước tình trạng nợ xấu gia tăng, các chuyên gia đều thống nhất quan điểm, trước khi
bàn cơ chế xử lý nợ xấu, chúng ta phải tìm ra câu trả lời rằng tại sao nợ xấu lại lớn như
vậy và con số nợ xấu hiện tại có đáng lo ngại hay không. Nợ xấu sẽ không thể xử lý được
nếu như không biết rõ cơ cấu, bản chất của nợ xấu như thế nào.
2.2. Một số nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng suy giảm:
2.2.1. Nhóm nguyên nhân thuộc môi trường kinh doanh

Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao và hiện nay là suy giảm
tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, do đó môi trường kinh doanh và hoạt động ngân
hàng gặp nhiều khó khăn làm cho chất lượng tín dụng suy giảm và nợ xấu tăng nhanh
hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Trong giai đoạn 2008-2011, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín
dụng bình quân 26,56% nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu bình quân 51%. Tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng từ năm 2011 chậm lại đáng kể, đặc biệt là 5 tháng đầu năm 2012
dư nợ tín dụng không tăng nhưng nợ xấu tăng tới 45,5% do tình hình kinh doanh và tài
chính của các doanh nghiệp suy giảm mạnh.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tổng cầu chậm lại từ năm 2011: Năm 2011, tăng
trưởng kinh tế 5,89%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng kinh tế ước chỉ đạt
4,38% so với cùng kỳ năm 2011 (cùng kỳ năm 2011 tăng 5,57%).
Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng chậm, thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước:
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2011 tăng 6,8% so với năm 2010. Tính chung 06 tháng
đầu năm 2012, chỉ số sản xuất công nghiệp chỉ tăng 4,5% so với cùng kỳ năm trước, chỉ
bằng 45% mức tăng 6 tháng đầu năm 2011 (9,7%). Giá trị sản xuất xây dựng trong 6
tháng đầu năm 2012 theo giá so sánh năm 1994 chỉ bằng 99,6% so với cùng kỳ năm
2011. Ngành xây dựng gặp nhiều khó khăn do hoạt động đầu tư tăng chậm, thị trường bất
động sản trầm lắng kéo dài. Nhiều công trình, dự án xây dựng giãn tiến độ hoặc dừng
khởi công làm cho nhu cầu nguyên vật liệu xây dựng không tăng cao, nhiều sản phẩm
tiêu thụ khó khăn (như xi măng, sắt thép,…).

Chỉ số tiêu thụ của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng thấp: Chỉ số tiêu thụ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2011 tăng 6,2% so với năm 2010. Trong 5
tháng đầu năm 2012, chỉ số tiêu thụ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chỉ tăng 3,6%
so với cùng kỳ năm trước.
Tiêu dùng cá nhân tăng chậm: Tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ
năm 2011 tăng 24,2% so với năm 2010 và chỉ tăng 4,7% nếu loại trừ đi yếu tố giá. Tính
chung 06 tháng đầu năm 2012, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
ước tính tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng 6,5%,
thấp hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước.
10


Chỉ số tồn kho tăng mạnh và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước. Cuối năm
2011, chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 23% so với cùng kỳ
năm 2010. Tại thời điểm 01/6/2012, chỉ số hàng tồn kho của ngành công nghiệp chế biến
tăng 26% so với cùng kỳ năm trước. Điều này phản ánh khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng
như sức cầu tiêu dùng của nền kinh tế đang ở mức rất yếu dẫn đến đọng vốn trong sản
xuất kinh doanh và làm tăng nợ xấu của các TCTD.
Khách hàng vay của TCTD có tình hình tài chính suy giảm, kém lành mạnh hoặc
kinh doanh thua lỗ. Sản xuất kinh doanh phải đối mặt với vấn đề chi phí cao, lãi suất
ngân hàng cao, thiếu vốn, đồng thời tiêu thụ hàng hoá khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến
điều kiện tài chính, kết quả kinh doanh và khả năng trả nợ vay ngân hàng của doanh
nghiệp. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng doanh nghiệp giải thể, tạm
ngừng hoạt động tăng nhanh: Năm 2011 có 79.014 doanh nghiệp và tính từ đầu năm đến
ngày 21/6/2012 có khoảng 25.250 doanh nghiệp, tăng 8,1% so với cùng kỳ năm 2011
(23.358 doanh nghiệp bị phá sản trong 6 tháng đầu năm 2011).
Nhiều doanh nghiệp hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa vào vốn vay
ngân hàng, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh
doanh hạn chế. Vì vậy, khi môi trường kinh doanh xấu đi, chính sách kinh tế vĩ mô thắt
chặt, lãi suất tăng thì các doanh nghiệp dễ gặp khó khăn về khả năng trả nợ. Theo kết quả

giám sát của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, đến cuối tháng 3/2012 trong hơn 1
triệu khách hàng được chọn mẫu khảo sát tại 57 TCTD của Việt Nam có 10.782 khách
hàng có hệ số nợ/vốn chủ sở hữu từ 3 lần trở lên.
2.2.2. Nhóm nguyên nhân chủ quan

Hầu hết các TCTD theo đuổi chiến lược tăng trưởng tín dụng nhanh trong khi
năng lực quản trị rủi ro của TCTD còn nhiều hạn chế và chậm được cải thiện, đặc biệt là
các NHTMCP chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị dẫn đến nợ xấu tăng nhanh hơn dư nợ
tín dụng. Một bộ phận không nhỏ vốn tín dụng và nhiều TCTD tập trung đầu tư vào các
lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, chẳng hạn bất động sản. Khi các lĩnh vực này, đặc biệt là thị
trường bất động sản đóng băng và giá bất động sản giảm sâu kéo theo nợ xấu cho vay
lĩnh vực này tăng nhanh.
Ngoài ra, công tác thanh tra, giám sát ngân hàng trong một thời gian dài chưa phát
huy hiệu quả cao trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vi phạm, rủi ro
trong hoạt động cấp tín dụng của các TCTD, nhất là các vi phạm quy định hạn chế cấp tín
dụng và đầu tư quá mức vào một số lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.
2.2.3. Một số giải pháp xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng

Để từng bước xử lý nợ xấu một cách bền vững, hạn chế nợ xấu gia tăng nhằm khơi
thông dòng vốn trong hệ thống các TCTD, bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, thúc
đẩy tăng trưởng tín dụng và hỗ trợ vốn tích cực cho nền kinh tế, một số giải pháp sau đây
cần được triển khai:
- TCTD chủ động phối hợp với khách hàng vay để cơ cấu lại nợ, giãn thời gian trả
nợ và xem xét giảm lãi suất một cách hợp lý cho khách hàng có khó khăn tài chính tạm
11


thời, có chiều hướng cải thiện sản xuất kinh doanh tích cực, được đánh giá có khả năng
trả nợ theo thời gian cơ cấu lại nợ.
- TCTD tăng cường trích lập, sử dụng DPRR để xử lý nợ xấu theo quy định của

pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ bán, xử lý các tài sản bảo đảm của các khoản nợ xấu để thu
hồi vốn.
- NHNN rà soát, hoàn thiện các quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng
DPRR phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tiễn của Việt Nam, đồng thời
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung các quy định về cấp tín dụng và an toàn hoạt động ngân
hàng.
- Tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra, giám sát ngân hàng để bảo
đảm các TCTD tuân thủ đúng các quy định về hoạt động ngân hàng, đặc biệt là quy định
về cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập DPRR và quy định về an toàn hoạt động tín dụng.
- Thúc đẩy thị trường mua bán nợ phát triển thông qua ban hành và triển khai có
hiệu quả các quy định, chính sách về mua bán nợ.
- Một số giải pháp hỗ trợ khác cần triển khai bao gồm:
+ Các Bộ, ngành triển khai đồng bộ các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
kinh doanh, hỗ trợ thị trường theo Nghị quyết số 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 của Chính
phủ, trong đó bên cạnh các giải pháp miễn, giảm thuế, giãn thời hạn nộp thuế cần có giải
pháp hữu hiệu đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hóa, giảm lượng hàng tồn kho và kích thích
đầu tư, tiêu dùng trong nước. NHNN tích cực phối hợp với các Bộ, ngành phân tích, đánh
giá hoạt động của các ngành, lĩnh vực để xây dựng, triển khai các chương trình tín dụng
phù hợp, nhờ đó đẩy nhanh tiến độ giải phóng hàng tồn kho, tháo gỡ khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Bộ Tài chính chủ trì tổ chức triển khai có hiệu quả Quyết định số 03/2011/QĐTTg ngày 10/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế bảo lãnh cho doanh
nghiệp nhỏ và vừa vay vốn NHTM; Trường hợp cần thiết, xem xét, đề xuất với Thủ
tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các điều kiện, thủ tục bảo lãnh theo Quyết định số
03/2011/QĐ-TTg để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn
ngân hàng.
+ Tích cực triển khai đồng bộ các giải pháp sắp xếp, đổi mới và cơ cấu lại các
doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước gắn với việc xử lý nợ
xấu của các doanh nghiệp này.
+ Các Bộ, ngành và địa phương có giải pháp khẩn trương hỗ trợ thị trường bất
động sản phục hồi nhanh, quản lý chặt chẽ và bảo đảm thị trường này phát triển lành

mạnh.

12


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT NỢ XẤU:
3.1. Xử lý nợ xấu tại NHTM:
3.1.1. Tổ chức khai thác:

Khai thác là một quá trình làm việc với khách hàng đi vay cho đến khi khoản cho
vay được trả một phần hay toàn bộ mà người thu nợ không dựa vào các công cụ pháp lí
để ép buộc con nợ.
Khi khách hàng đi vay gặp khó khăn về tài chính, Ngân hàng có thể và sẽ thường
tham gia tổ chức khai thác, dĩ nhiên phải đặt trong giả thuyết khách hàng có thái độ thật
thà đối với khoản nợ và có khả năng chi trả một phần hay toàn bộ một cách thoả đáng.
Điều này đặc biệt đúng cho trường hợp người đi vay có vốn lớn trong doanh nghiệp, một
số tài sản cố định có giá trị, một tổ chức có thể tạo lợi nhuận đủ nhiều để hoàn trả khoản
vay nghi vấn, cũng như những khoản cho vay khác cần cho việc duy trì hoạt động của
doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đi vay không thể trả nợ theo đúng nghĩa vụ dẫn đến vỡ
nợ thì Ngân hàng nên thực hiện thanh lí.
Hầu hết các khoản cho vay khó đòi tại Ngân hàng thương mại được xử lí bằng
phương pháp khai thác, nghĩa là người đi vay được phép tự khắc phục khó khăn tài chính
và hoàn trả các khoản nợ Ngân hàng càng nhanh càng tốt. Vì tổ chức khai thác không
phải là một công cụ pháp lí, nó có thể có một số hình thức khác nhau giữa những khoản
cho vay. Các biện pháp có thể bao gồm lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến
khả năng tạo ra và thu lợi tức của người đi vay, gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho
vay để giảm bớt quy mô hoàn trả, cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị
thế tài chính mạnh hơn. Lúc này, Ngân hàng nắm phần chủ động trong hoạt động kinh
doanh của nó cho đến khi bảo đảm rằng khoản cho vay sẽ được hoàn trả.
Khi bất cứ khoản cho vay nào đến giai đoạn khó khăn trong công tác thu hồi, lập

tức Ngân hàng áp dụng biện pháp để bảo đảm bằng tài sản thế chấp hay một thoả thuận
bảo đảm trên mọi tích sản khả dụng của người đi vay.
3.1.2. Tổ chức thanh lý:

Thanh lí là một quá trình trong đó Ngân hàng thương mại sẽ ép buộc người vay
tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp
pháp lí để đạt mục tiêu thu hồi khoản nợ xấu.
Nếu Ngân hàng thấy rõ là việc tổ chức khai thác không tiện lợi, việc thanh lí ở một
trong vài hình thức có thể được coi là cách hay nhất để xử lí một khoản cho vay đã trở
nên đáng nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn (thuộc nhóm 4 và 5). Khi phương pháp
này được lựa chọn, có nghĩa là Ngân hàng đã quyết định sau khi cân nhắc tất cả mọi yếu
tố kể trên và nhận thấy rằng khả năng cải thiện tình hình tài chính của người đi vay là xa
vời, việc gia hạn hợp đồng cho vay hay cấp thêm vốn là mạo hiểm đối với Ngân hàng,
biện pháp thanh lí là tối ưu nhất. Sự thanh lí thường được nhanh chóng thực hiện trong
những trường hợp tư tưởng không sẵn lòng chi trả của khách hàng đã rõ, hành động lừa

13


đảo hay không thật thà đã bộc lộ, tình trạng vỡ nợ đã hiện ra, tình hình tài chính của
người vay là vô vọng, hay không có ý muốn trả nợ.
Có một số biện pháp thực hiện việc thanh lí như sau:
Nếu khoản cho vay được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, Ngân hàng có thể bán nó
đi, thường thì nó không đem lại mức giá thị trường hợp lí. Trong trường hợp khối lượng
nhận được từ việc bán vật thế chấp không đủ thanh toán nợ, Ngân hàng có thể nhận phán
quyết của toà án về khoản chênh lệch; phán quyết như thế cho phép Ngân hàng được
quyền thu thêm nếu người đi vay có các tích sản.
Nhân viên Ngân hàng có thể thực hiện thanh lí với sự giúp đỡ của chuyên gia tư
vấn pháp luật của Ngân hàng hay bộ phận liên quan đến những khoản cho vay có vấn đề
và thành viên của bộ phận tham mưu có chuyên môn về lĩnh vực này. Cuối cùng, một

nhân viên thanh lí chuyên nghiệp được Ngân hàng thuê xử lí việc thanh lí.
Một hình thức thanh lí khác là tái sở hữu các hàng hoá tiêu dùng lâu bền trong một
số trường hợp tư liệu sản xuất được bán theo hợp đồng bán có điều kiện và mua lại từ
một nhà buôn. Quá trình này được thực hiện bằng cách giữ lại hàng hoá sau đó tiến hành
bán với giá nào đó và hy vọng có thể trả hết nợ.
Trong trường hợp Ngân hàng quyết định sử dụng biện pháp xử lý để thu hồi số nợ
vay không bảo đảm, phán quyết cần phải có từ toà án một cách thích hợp. Phán quyết này
cho phép Ngân hàng nắm giữ tài sản của người thiếu nợ với số lượng phù hợp với quyết
định của toà án hay trừ vào lương theo mức được luật pháp cho phép.
Nếu Ngân hàng là một trong số các chủ nợ và các chủ nợ khác (có vị thế mạnh
tương ứng như Ngân hàng) cũng muốn lấy lại tiền thì một uỷ ban chủ nợ có thể được
thành lập. Cách giải quyết này không áp dụng cho trường hợp phá sản và cũng có thể áp
dụng phương pháp khai thác.
Phá sản có 2 hình thức bồi thường cơ bản cho các chủ nợ, thanh lí và hồi phục.
Phá sản có thể miễn cưỡng hay cố ý. Nó là biện pháp cuối cùng theo quan điểm của các
chủ nợ. Ngân hàng hay bất cứ chủ nợ nào khác bao giờ cũng mong muốn nhận được phần
đáng kể các khoản cho vay từ quá trình thanh lí nhưng thực tế thường không được như
mong muốn.
Trong nhiều trường hợp, nó được áp dụng khi các chủ nợ không thể đạt thoả thuận
hợp lý liên quan đến các biện pháp phải thực hiện để thu hồi được vốn vay, hay khi 1 chủ
nợ nhỏ nào đó từ chối tiến hành một thoả thuận hợp tác hay khi người vay từ chối làm
việc với chủ nợ để cố gắng giải quyết khó khăn tài chính.
3.2.

Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI) đưa ra 10 giải pháp xử lý nợ xấu
trong hệ thống Ngân hàng thương mại:

Thứ nhất, các ngân hàng thương mại chủ động tăng mức trích lập dự phòng các
khoản nợ xấu, chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ.


14


Việc tăng trích lập dự phòng sẽ giúp ngân hàng thương mại nhanh chóng bù đắp tổn thất,
giảm số thuế Thu nhập doanh nghiệp, có thể giảm quỹ lương nhưng làm tăng khả năng tài
chính nội tại của ngân hàng thương mại.
Thứ hai, cần có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý trong giai đoạn khó khăn
hiện
nay.
Theo VAFI, đây cũng là cách thức để giảm chi phí một cách hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc
tăng mức trích lập dự phòng tỷ lệ nợ xấu.
Thứ ba, chứng khoán hóa các khoản nợ khó đòi.
Với doanh nghiệp có quản trị kinh doanh tốt, đang gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc
do tình hình kinh tế khó khăn, do các dự án đầu tư đang triển khai chưa đi vào hoạt
động…thì có thể chuyển 1 phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn, nhằm hỗ trợ thanh
khoản cho doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp tồn tại phát triển. Chuyển nợ quá hạn, nợ
xấu thành cổ phần và chuyển vị thế các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn.
Thứ tư, tăngtỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng lên
40%, đồng thời cũng cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài
lên mức 25% hoặc 30%/vốn điều lệ.
VAFI cho rằng, việc triển khai nhanh tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong
ngành ngân hàng sẽ có nhiều ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay vì tăng sức hấp dẫn trong
thu hút vốn FII và nhất là đối với các nhà đầu tư chiến lược. Nếu giải pháp này ra đời
sớm thì trong vòng 3 năm hệ thống ngân hàng thương mại sẽ huy động thêm vài tỷ USD.
Thứ năm, cho phép một số ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, quản
trị doanh nghiệp tốt mua lại những ngân hàng yếu kém.
Thứ sáu, khuyến khích các ngân hàng thật sự mạnh mua lại những ngân hàng yếu kém.
Nếu như chỉ định các ngân hàng mạnh, ngân hàng thương mại cổ phần có cổ phần đa số
của Nhà nước mua lại những ngân hàng ốm yếu mà không có sự hỗ trợ từ NHNN thì các
ngân hàng mạnh sẽ không tham gia. Các ngân hàng chỉ tự nguyện tham gia khi họ thấy

có lợi vì họ phải có trách nhiệm với các cổ đông của họ. “Vì vậy cần cơ chế hỗ trợ tài
chính từ NHNN, hỗ trợ ở đây không phải cho ngân hàng mạnh mà là vì mục tiêu xử lý nợ
xấu, vì mục tiêu làm cho hệ thống ngân hàng thương mại mạnh lên” - VAFI nhấn mạnh.
Thứ bảy, miễn các loại thuế (thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp…)
cho các hoạt động mua bán nợ nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường
mua bán nợ.
Thứ tám, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho nghiệp vụ phát hành trái phiếu
doanh nghiệp.
Việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong nghiệp vụ phát hành trái phiếu sẽ giúp giảm
lãi suất huy động, giúp cho hệ thống ngân hàng thương mại có điều kiện huy động vốn
dài hạn, thay vì ngắn hạn như hiện nay; thúc đẩy tiến trình chứng khoán hóa các khoản
nợ; giúp cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển, tăng tính ổn định trong việc
huy động vốn cho hệ thống ngân hàng thương mại.
15


Thứ chín, nhanh chóng có nhiều giải pháp hữu hiệu để phá băng thị trường bất
động sản.
Để phá “băng” bất động sản, theo VAFI cần nhanh chóng biến sáng kiến căn hộ nhỏ tối
thiểu 25m2 thành hiện thực; các chính quyền địa phương (nhất là các đô thị lớn) cần quan
tâm đẩy nhanh thủ tục hành chính trong việc cấp phép, sửa đổi giấy phép xây dựng nhà ở
để làm sao giảm 70% thời gian duyệt cấp phép như hiện tại; Nhà nước nên giảm 50%
thuế GTGT trong các ngành kinh tế đang gặp khó khăn như xây dựng, sản xuất vật liệu
xây dựng, kinh doanh bất động sản, sửa chữa tàu biền, vận tải biển nội địa, cơ khí; giảm
50% thuế GTGT cho các ngành bất động sản và vật liệu xây dựng.
Thứ mười, cơ cấu lại phân bổ ngân sách cho năm 2013 theo hướng tăng chi ngân
sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng:
VAFI cho rằng, tăng chi ngân sách cho lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng sẽ kích thích
nhiều ngành kinh tế phát triển, đồng thời cũng là giải pháp hữu hiệu để giảm nhanh tỷ lệ
nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại.

3.3. Giải pháp từ phía Chính phủ, Ngân hàng nhà nước:
3.3.1. Thành lập cơ quan chuyên biệt quản lý nợ xấu trực thuộc NHNN:

Việc thành lập cơ quan xử lý nợ xấu chuyên biệt trực thuộc Chính phủ (có thể ủy
quyền cho NHNN quản lý) là điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cơ quan này sẽ xử lý một
phần nợ xấu của các NHTM. Cụ thể, cơ quan này nên tập trung vào xử lý nợ xấu của các
tập đoàn, DNNN tại các NHTM. Việc xử lý có thể thực hiện theo một trong những
phương thức sau:


Xóa nợ thông qua việc thay thế bằng các trái phiếu do Chính phủ phát hành.
NHNN có thể cho phép các ngân hàng chuyển các khoản nợ xấu hoặc nợ cũ sang
trái phiếu kỳ hạn 20 năm. Cơ quan chuyên biệt xử lý nợ của Chính phủ sẽ dùng
trái phiếu Chính phủ để đổi lấy các khoản nợ xấu được coi là các khoản nợ lớn và
quan trọng. Cơ quan này có quyền bán các khoản nợ xấu hoặc tham gia vào quá
trình tái cấu trúc các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ.
• Hoán đổi các khoản nợ của tập đoàn kinh tế và DNNN với các NHTM cho vay
(gồm cả các NHTM Cổ phần và NHTM có vốn Nhà nước chi phối) thành vốn cổ
phần. Theo đó, sở hữu Nhà nước sẽ gia tăng trong một số NHTM (gồm cả NHTM
cổ phần). Điều này tuy tốn chi phí nhưng sẽ tạo thuận lợi cho NHNN trong chỉ đạo
việc hợp nhất, sáp nhập các NHTM phục vụ quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng.
Nguồn vốn của cơ quan quản lý nợ xấu chuyên biệt trên nên hình thành từ việc
phát hành trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh. Trên thực tế, hoạt động của NHTM Việt
Nam nếu được tái cấu trúc thành công và kinh doanh trong một môi trường thuận lợi thì
sẽ tạo lượng lợi nhuận rất lớn (điều này đã được chứng minh trong giai đoạn từ 2005 đến
2009), tăng tính khả thi trong việc hoàn trả các khoản nợ trái phiếu được bảo lãnh bởi
Chính phủ.
3.3.2. Xử lý nợ xấu thông qua các cơ quan quản lý tài sản của các NHTM:
16



Theo tính toán, đến nay các NHTM đã trích lập dự phòng tín dụng 70.000 tỷ,
trong đó 84% nợ xấu có tài sản đảm bảo với giá trị tài sản đảm bảo tương đương 130%
giá trị các khoản nợ và đa phần là bảo đảm bằng bất động sản. Như vậy, các NHTM hoàn
toàn có thể chủ động xử lý các khoản nợ xấu của mình (với điều kiện là có tài sản bảo
đảm). Vấn đề là phải xây dựng cơ chế hợp lý. Cơ chế phải đảm bảo được 5 nguyên tắc:
(1) Hỗ trợ các NHTM thu hồi được vốn đã đầu tư vào nợ xấu nhanh chóng nhưng không
gây ra tổn thất quá lớn cho các NHTM; (2) việc thu hồi nợ xấu không làm trầm trọng
thêm tình hình thị trường bất động sản; (3) giảm thiểu tối đa thiệt hại của các nhà đầu tư;
(4) giảm thiểu tối đa chi phí của Chính phủ; (5) tách biệt hoạt động xử lý nợ xấu và hoạt
động kinh doanh của NHTM. Căn cứ theo kinh nghiệm của 3 quốc gia được nghiên cứ
trên, nên thực hiện cơ chế như sau:
Thứ nhất, các NHTM bắt buộc phải sử dụng dự phòng để xử lý những khoản vay
đối với các doanh nghiệp tư nhân mà không có tài sản bảo đảm hoặc có tài sản bảo đảm
nhưng sụt giảm nghiêm trọng giá trị hoặc tranh chấp pháp lý quá phức tạp.
Thứ hai, tất cả các NHTM có nợ xấu bắt buộc phải thành lập công ty quản lý nợ (AMC)
để tách hoạt động xử lý nợ xấu khỏi hoạt động kinh doanh của NHTM.
Thứ ba, các NHTM sẽ nhóm toàn bộ các khoản nợ xấu này lại và bán cho các
AMC trực thuộc NHTM. Các AMC của NHTM sẽ căn cứ theo mức độ rủi ro của các
khoản nợ, giá trị thực của tài sản bảo đảm để phát hành ra các loại trái phiếu (đây là một
dạng của phương thức chứng khoán hóa các khoản vay có bảo đảm). Chẳng hạn, AMC có
thể chia trái phiếu thành 3 hạng ứng với 3 nhóm nợ là nhóm 3, 4 và 5. Mỗi loại này sẽ có
mức lãi suất khác nhau nhưng tối thiểu phải cao hơn lãi suất tiền gửi cùng kỳ hạn. Số tiền
thu hồi này sẽ được chuyển cho NHTM để phục vụ việc cho vay các hoạt động kinh
doanh, sản xuất.
Thứ tư, Chính phủ nên thực hiện bảo lãnh với các trái phiếu trên đồng thời thành
lập cơ quan quản lý bất động sản trực thuộc Chính phủ để quản lý các bất động sản trong
trường hợp Chính phủ phải thực hiện chi trả bảo lãnh cho các trái phiếu. Chỉ với sự bảo
lãnh của Chính phủ thì các nhà đầu tư trong nước và quốc tế mới thấy được sự hấp dẫn từ

các loại trái phiếu trên. Hơn thế, sự trầm lắng của bất động sản cũng như hoạt động tín
dụng bất động sản chỉ là tạm thời ở Việt Nam nếu nhìn toàn bộ chu kỳ phát triển của thị
trường này tại Việt Nam từ năm 1991 đến nay. Khi thị trường phục hồi thì mọi thứ sẽ trở
lại quỹ đạo tích cực. Vấn đề là cơ chế phải tạo điều kiện cho các NHTM và thị trường
vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay.
Thứ năm, Chính phủ nên giao nhiệm vụ rõ ràng cho NHNN trong việc ban hành
quy chế về hoạt động AMC cũng như hoạt động chứng khoán hóa. Đồng thời xác định rõ
trách nhiệm của NHNN trong việc giám sát hoạt động trên, tránh tối đa các NHTM sử
dụng nghiệp vụ chứng khoán hóa trên để làm gia tăng rủi ro hệ thống (giống trường hợp
của Mỹ giai đoạn 2007-2009).

17



×