Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Phân tích tác động của quá trình hội nhập đất nước đối với văn hóa trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 31 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

BÁO CÁO ĐƯỜNG LỐI
ĐỀ TÀI: Phân tích tác động của quá trình hội nhập Đất Nước đối với
văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Ý kiến và giải pháp để giữ gìn xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình hội
nhập Đất Nước.
GVHD: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ
Nhóm 5:


MỤC LỤC

2


I. TỔNG QUAN VỀ ÁO DÀI
Chiếc áo dài Việt Nam mang nét đẹp truyền thống, chứa đựng tâm hồn dân tộc, vừa
duyên dáng vừa quyến rũ, làm tôn vẻ đẹp cho người phụ nữ Việt Nam và được nhiều
người nước ngoài ưa thích. Áo dài đã đi sâu vào trong lòng con người Việt Nam. Áo dài
là một biểu tượng văn hóa dân tộc của người Việt Nam.
Hình ảnh tà áo dài thướt tha trong gió đã đi vào thơ ca từ lúc nào không hay, và đã có
rất nhiều bài ca, bài thơ mang hơi thở chiếc áo dài thơ mộng.
CHIẾC ÁO DÀI VIỆT NAM
Chiếc áo quê hương dáng thướt tha
Non sông gấm vóc mở đôi tà
Tà bên Đông Hải lung linh sóng
Tà phía Trường Sơn rực rỡ hoa
Vạt rộng Nam phần chao cánh gió
Vòng eo Trung bộ thắt lưng ngà


Nhịp tim Hà Nội nhô gò ngực
Hương lúa ba miền thơm thịt da.
Đinh Vũ Ngọc

Đôi nét về áo dài
-

-

Hình ảnh chiếc áo dài, khăn đóng đã gắn liền với cuộc sống của người dân từ
nông thôn cho đến thành thị. Theo lệ thường, mỗi khi làng nước có việc hệ trọng,
gái trai ra đình đều vận khăn đóng áo dài. Gái thì áo dài hoa, đầu đội khăn gấm;
trai thì áo dài nhiễu đen, đầu quấn khăn đóng đen (có nơi gọi là khăn xếp), bậc
cao niên trưởng thượng thì áo và khăn đỏ có in hình chữ “Thọ”, còn lũ trẻ nhỏ
thì áo dài xanh, đỏ, vàng trông rất ngộ nghĩnh và đẹp mắt… Nói chung, áo dài
không phân biệt hèn sang, già trẻ, ai ai cũng đều có thể mặc được, đặc biệt là
trong các dịp lễ tiết quan trọng, nhất là dịp Tết đến xuân về. Bộ áo dài khăn
đóng, gái mặc thì thướt tha, thùy mị; trai mặc thì nền nã, trang nghiêm. Chính vì
vậy mà trong các việc lớn như giỗ chạp, ma
chay, cưới xin, hội làng, ngày Tết… người ta
đều dùng đến nó.
Áo dài là trang phục truyền thống của Việt Nam,
mặc cùng với quần dài, che thân từ cổ đến hoặc
quá đầu gối và dành cho cả nam lẫn nữ nhưng
3


-

hiện nay thường được biết đến nhiều hơn với tư cách là trang phục nữ. Áo dài

thường được mặc vào các dịp lễ hội, trình diễn; hoặc tại những môi trường đòi
hỏi sự trang trọng, lịch sự; hoặc là đồng phục nữ sinh tại một số trường trung học
cơ sở hay đại học; hoặc đại diện cho trang phục quốc gia trong các quan hệ quốc
tế. Dường như chưa có một văn bản nào quy định áo dài chính thức là quốc phục
của phụ nữ Việt Nam nhưng trong thực tế nói đến phụ nữ Việt Nam thì không
thể không nói đến tà áo dài
Áo Dài - trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, ôm sát cơ thể, có cổ cao
và dài khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở hông, vừa quyến rũ lại vừa gợi cảm,
vừa kín đáonhưng vẫn biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ. "Ở đâu có phụ
nữ Việt - ở đó có Áo dài Việt".

II. SỰ HÌNH THÀNH ÁO DÀI
Vào giữa thế kỷ 19, khi mà sự phân tranh Trịnh – Nguyễn vẫn còn tồn tại, Vua Lê Chúa
Trịnh trị vì ngoài Bắc, Chúa Nguyễn ở trong Nam, bỗng lưu truyền một câu sấm: “Bát
đại thời hoàn Trung đô”, nghĩa là “hết tám đời của Nguyễn sẽ phải trở lại kinh đô Thăng
Long”, mà lúc đó đang là đời thứ tám của thời Nguyễn do Nguyễn Phúc Khoát trị vì.
Lời sấm đã khiến chúa Nguyễn lo lắng và phải triệu tập quần thần để bàn bạc, tìm cao
kiến giải lời sấm ấy. Cuối cùng chúa Nguyễn đã nghe theo lời khuyên của triều thần:
“Muốn thật sự có một vương quốc thì phải thay đổi lễ nhạc, thay đổi văn hóa”.
Theo đó, trong triều thì thay đổi lễ nhạc, ngoài dân gian thì phải thay đổi trang phục –
phụ nữ phải mặc quần hai ống giống đàn ông thay cho mặc váy như từ trước đó! Mặc dù
người dân, nhất là phụ nữ phản đối mạnh mẽ, nhưng lệnh Vua đã ban, không ai dám
chống lại. Tuy vậy, ngay bản thân võ vương Nguyễn Phúc Khoát cũng cảm thấy phụ nữ
ăn mặc như vậy không tiện và cũng “khó nhìn” nên ông đã giao cho triều thần nghiên
cứu, sửa đổi sao cho phù hợp, trên cơ sở tham khảo áo dài của người Chàm và áo dài của
phụ nữ Thượng Hải lúc bấy giờ.
Thời đó có một thợ may tên là Cát Tường đã nghiên cứu và thiết kế mẫu chiếc áo dài và
may cho các cô gái tân thời mặc. Cái tên gọi “áo Le mur” thực ra không phải do ông Cát
Tường đặt, mà xuất phát từ cách nói vui của các nhà văn thời ấy: Cát Tường được gọi
chệch đi là Cái Tường” (tiếng Pháp là Le mur) – vừa để gọi kiểu áo dài Le mur đã được

các thiếu nữ rất ưa chuộng, vì áo có tà dài gần chấm đất, nhiều màu tươi sáng chứ không
chỉ có hai màu đen trắng như trước; Mặc vào trông thanh lịch, duyên dáng hẳn lên. Cũng
từ đó áo dài được phụ nữ sử dụng như trang phục truyền thống.
Tuy vậy, chiếc áo dài cũng đã trải qua không ít thăng trầm. Từ sau năm 1945, áo dài mới
lại được khôi phục sau một thời gian dài vắng bóng. Vào những năm 60 của thế kỷ 20,
4


cũng ở miền Nam, một kiểu áo dài mới: Áo dài Trần Lệ Xuân, được quảng bá khá rầm
rộ.
Đó là một kiểu áo dài được coi là tân tiến, phô bày được những nét đẹp thanh tú, khỏe
khoắn của người phụ nữ (cổ khoét trễ, tà ngắn hơn, dáng áo ôm sát thân hình). Nhưng
cũng không ít người cho rằng loại áo đó hở hang, lộ liệu, không phù hợp với văn hóa dân
tộc. Vì vậy chiếc áo dài đã được bổ sung, điều chỉnh nhiều lần.
Chiếc áo dài ngày nay cũng được các nhà thiết kế thời trang nghiên cứu cải tiến rất nhiều,
nhằm tạo cho được một mẫu áo dài vừa kín đáo mà vẫn “khoe” được nét duyên dáng,
mềm mại của cơ thể người phụ nữ, nhưng vẫn giữ được những chuẩn mực căn bản của
áo. Chiếc áo dài ngày nay đa phần đều có tà áo che khuất đến chân làm cho thân hình trở
nên thon thả hơn, cái eo như là điểm nhấn của áo khiến đường cong cơ thể càng thêm rõ
nét, vẻ đẹp được tôn lên.

III.

NHỮNG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN ÁO DÀI

Sự biến thiên của lịch sử tạo nên những nét đặc trưng của áo dài ở mỗi thời kỳ. Nhưng
tựu chung, áo dài lúc nào cũng đẹp, nữ tính và đại diện cho truyền thống của phụ nữ Việt.

Không ai biết thời điểm ra đời cụ thể của chiếc áo dài nhưng cách đây hàng ngàn năm,
trên trống đồng đã có hình ảnh này. Nó tồn tại cùng với mọi sinh hoạt thường ngày của

người Việt, từ giã gạo, làm ruộng, chăn nuôi gia súc... Cho đến thời Hùng Vương, vào
5


những năm 40 - 43 sau Công nguyên, diễn ra cuộc khởi nghĩa do phụ nữ lãnh đạo duy
nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, lập nên một Nhà nước vương triều độc lập, thống
nhất và tự chủ. Lịch sử đã ghi lại rằng, khi ấy, Hai Bà Trưng đã mặc áo dài hai tà giáp
vàng, che lọng vàng, cưỡi voi đánh trận.

Hai Bà Trưng
Để tỏ lòng tôn kính hai bà, phụ nữ Việt tránh mặc áo hai tà mà mặc áo tứ thân. Hồi ấy, họ
đã khéo léo sử dụng màu sắc tự nhiên từ củ nâu, lá bàng giã nhỏ hay bùn dẻo dưới ao để
làm màu nhuộm cho những trang phục, tạo ra nét “văn hóa mặc” đơn giản, tế nhị và kín
đáo.

6


Áo tứ thân gắn với khăn mỏ quạ , tóc vấn đuôi gà và nón quai thao là hình ảnh tần tảo của
bà , của mẹ ngày xưa
Từ thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam với chế độ phong kiến, phân chia giai
cấp, tầng lớp khá rõ ràng. Những người phụ nữ nơi thành thị đã biến tấu áo tứ thân thành
áo ngũ thân hay năm tà để thể hiện sự quyền quý, cao sang, phân biệt mình với những
người thuộc tầng lớp nghèo hơn.
7


8



Những tiểu thư , con nhà quan hay nhà giàu mặc áo ngũ thân.
Có thể thấy rõ sự phân biệt đẳng cấp trong bối cảnh này ,
chủ mặc áo ngũ thân , người hầu mặc áo tứ thân.

9


Giai đoạn 1910 - 1950 và trước đó, người phụ nữ Việt vẫn còn chịu những khắt khe của
xã hội phong kiến nên trang phục không tôn dáng mà được may rộng, phía trong họ còn
mặc thêm một áo ngắn nữa. Chất liệu gấm và tơ dành cho những người giàu có. Người
nghèo thì may áo dài bằng vải.

Một gia đình nhà quan.

10


Nề nếp, sự bảo thủ khiến họ phải cân nhắc khi lựa chọn màu sắc. Chỉ những dịp đặc biệt
hoặc thân phận là đào hát mới dám dùng màu sặc sỡ cho y phục. Còn lại thường là màu
nhẹ nhàng, nhạt như hồng nhạt, lòng tôm, mỡ gà hoặc nâu, trắng, xám, để tránh bị cho là
không đứng đắn.

11


Một phụ nữ giàu có trong trang phục áo dài.

12



Gia đình vua Bảo Đại trong trang phục áo dài
Ở miền Bắc, phụ nữ thích may thêm một cái khuy phụ bên phải cổ áo, và cài khuy cổ
lệch ra đấy. Cổ áo hở ra để lộ những chuỗi hạt trang sức nhiều vòng.

13


Thập niên 1930 - 1940, gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, được mặc
với quần trắng hoặc đen

14


Từ thời đó, hình ảnh các thiếu nữ trường Đồng Khánh, Huế trong đồng phục áo dài tím
đã đi vào thi ca, nhạc họa.

15


Cũng trong giai đoạn này, xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của Pháp nên bị ảnh hưởng bởi
văn hóa phương Tây, không chỉ trong tư duy, lối sống, văn học... mà còn cả ở thời
trang.Theo khuynh hướng này, năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường (Lemur) ở phố Hàng
Da, Hà Nội, đã cải tiến áo dài với những chi tiết mới mẻ và lạ lẫm như cổ áo khoét hình
trái tim, có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ, vai áo may bồng, tay
nối ở vai, khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải.

16


Cô Nguyễn thị Hậu - người đầu tiên mặc quần áo lối mới kiểu Lemur ( Phong Hóa)


17


Cô Hòa Vân trong bộ y phục tân thời mùa thu của Lemur 1938 ( Trịnh Bách) nhưng loại
áo dài Lemur chỉ tồn tại đến năm 1943

Xã hội ngày càng phát triển với con mắt cởi mở hơn, thẩm mỹ cũng khác hơn. Thập niên
60 - 70, áo dài bắt đầu tôn lên những nét quyến rũ nhất của người phụ nữ. Eo được may
thắt lại, có người còn dùng dây quanh áo phía trong ở vòng hai để eo đuợc nhỏ hơn, tà áo
18


rộng, ngực áo nhọn, gấu áo thẳng ngang, dài gần đến mắt cá chân, làm cho người mặc có
dáng "thắt đáy lưng ong"

Người phụ nữ Huế trong trang phục áo dài, nón là duyên dáng năm 1961
Áo dài cũng trở thành một trang phục không thể thiếu khi đi ra ngoài của phụ nữ Việt.
Đặc biệt trong Sài Gòn, cuộc sống phồn hoa và ảnh hưởng từ phong cách Mỹ đã khiến
phụ nữ nơi đây có phong cách áo dài đa dạng, năng động với đủ màu sắc, hoa văn, chất
liệu. Áo dài có mặt trong mọi hoạt động của phái yếu, từ đi chơi, đi chợ, tiếp khách ở
nhà, cho đến cưới xin, đi dự tiệc...

19


Áo dài với kiếng mát

Hoa văn đa dạng , nhiều màu sắc


20


Áo dài kết hợp với kiểu tóc model nhất thời bấy giờ.

Trong dịp quan trọng nhất đời, áo dài cũng là một trang phục không thể thiếu.
Cùng trong thập niên 60, áo dài thêm một lần nữa thay đổi: đẹp, quyến rũ hơn. Đó là kiểu
áo dài cổ hở do vợ của Ngô Đình Nhu, bà Trần Lệ Xuân, thiết kế (nên thường gọi là áo
dài bà Nhu)

21


Mốt này ban đầu bị nhiều người chống đối, nhưng chỉ một thời gian sau lại nhận được
nhiều lời khen ngợi vì nó tôn lên vẻ đẹp vừa hiện đại vừa truyền thống của người phụ nữ,
lại rất đơn giản, tinh tế.

Sau này cổ áo được cắt sâu xuống hơn nữa, hình vuông, hay hình tròn rộng khéo léo khoe
cái cổ yêu kiều và trang sức đẹp

22


Bà Trần Lệ Xuân đã quảng bá áo dài Việt trong hầu hết các cuộc gặp gỡ với người nước
ngoài, tiệc tùng, đi chơi...
Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có
khi đến đầu gối, áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo
thân thể.

23



Phong trào hippy phương Tây du nhập vào, khiến nhiều phụ nữ muốn "nổi loạn" và thoải
mái hơn, nhất là giới trẻ nên đã hình thành một dạng áo dài khác, phần nhiều chỉ dài tới
đầu gối, phía trên sát vào thân, dùng nhiều loại hàng ngoại màu sắc rực rỡ.

24


Cô gái Huế mặc áo dài năm 1972

Nữ sinh trong tà áo trắng năm 1969

25


×