Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Những tác động của vốn FDI đến phát triển kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.36 KB, 30 trang )

Phần mở đầu
I. Sự cần thiết phải nghiên cứu vai trị của FDI trong q trình phát
triển kinh tễ xã hội
Đối với bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển
thì để phát triển đều cần có vốn để tiến hành các hoạt động đầu tư tạo ra tài
sản mới cho nền kinh tế. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể được huy
động ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong nước
thường có hạn, nhất là đối với những nước đang phát triển như Việt Nam( có
tỷ lệ tích luỹ thấp, nhu cầu đầu tư cao nên cần có một số vốn lớn để phát triển
kinh tế).Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngồi ngày càng giữ vai trị quan
trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.Hoạt động đầu tư nước ngoài là
kênh huy động vốn lớn cho phát triển kinh tế, trên cả giác độ vĩ mô và vi
mô.Trên giác độ vĩ mô, FDI tác động đến quá trình tăng trưởng kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phúc lợi xã hội cho con người, là 3 khía cạnh
để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Trên giác độ vi mô, FDI có
tác động mạnh mẽ đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước,
vấn đề lưu chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong
nước... Đầu tư nước ngoài là nhân tố quan trọng và khẳng định rõ vai trị của
mình trong việc đóng góp vào sự phát triển kinh tế của VIệt Nam. Nguồn vốn
này bao gồm đầu tư trực tiếp (FDI) và đầu tư gián tiếp (FII). Trong khi FII có
tác động kích thích thị trường tài chính phát triển thì FDI có vai trò trực tiếp
thúc đẩy sản xuất, bổ sung vốn trong nước, tiếp thu cơng nghệ và bí quyết
quản lý, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, tăng số lượng việc làm và đào
tạo nhân công, tăng nguồn thu cho ngân sách...
Thực tế trong những năm qua cũng như dự báo cho giai đoạn tới đã
khẳng định tầm quan trọng của FDI với phát triển kinh tê ở nước ta hiện nay.
Đánh giá đúng vị trí, vài trị của đầu tư nước ngoài, Đại hội lần thứ IX của
Đảng ta đã coi kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là một thành phần kinh tế, là
1



một bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được
khuyến khích phát triển, hướng vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế- xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tao thêm nhiều việc làm và đề
ra nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh
nguồn vốn đầu tư nước ngoài(chủ yếu là FDI) đối với chiến lược phát triển
KT-XH của cả nước.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu về vai trò của FDI tới phát triển kinh tế,
những tác động của nguồn vốn này đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Từ
đó đưa ra các giải pháp cũng như các điều kiện đảm bảo vốn FDI cho quá
trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những tác động của vốn FDI đến phát triển kinh tế
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và một số giải pháp để đạt được những
mục tiêu phát triển trong tương lai.

2


Chương I: Cơ sở lý luận
I. Những vấn đề cơ bản về FDI
1. FDI là gì
1.1. Một vài khái niệm về FDI.
-FDI là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư nước ngồi góp một
lượng vốn đủ lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nhờ đó cho phép
họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các
đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và thu lợi nhuận từ những hoạt động
đầu tư đó.
-Theo tổ chức thương mại thế giới đưa ra định nghĩa như sau về
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một

nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút
đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân
biệt FDI với các cơng cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà
đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngồi là các cơ sở kinh doanh.
Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựơc gọi là "công ty mẹ"
và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh cơng ty"
- Luật Đầu tư nước ngồi tại Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2000)
quy định: FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền
hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo pháp luật.
1.2. Đặc điểm của FDI
-Việc tiếp nhận FDI không phát sinh nợ cho nước nhận đầu tư, thay
cho lãi suất, nước đầu tư nhận được lợi nhuận thích đáng khi cơng trình đầu
tư hoạt động có hiệu quả.
- FDI khơng chỉ đưa vốn vào nước nhận đầu tư, mà thường đi kèm
theo với vốn là kỹ thuật, cơng nghệ, bí quyết kinh doanh, công nghệ quản
lý .v.v..Do FDI mang theo kỹ thuật, cơng nghệ nên nó thúc đẩy sự ra đời của
các ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành sử dụng công nghệ cao hay
3


nhiều vốn. Vì thế, nó có tác dụng to lớn đối với quá trình CNH, HĐH, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế ở nước nhận đầu tư. Tuy vậy, cũng
cần nhận thức rằng FDI chứa đựng khả năng các doanh nghiệp nước ngoài
(100% vốn nước ngoài) có thể trở thành lực lượng “áp đảo” trong nền kinh tế
nước nhận đầu tư. Trường hợp này sẽ xảy ra khi mà sự quản lý và điều tiết
của nước chủ nhà bị lơi lỏng hoặc kém hiệu lực. Một vấn đề khác không kém
phần quan trọng gây nên sự “dè dặt” của các nước đang phát triển tiếp nhận
FDI, đó là: FDI chủ yếu là của các cơng ty xuyên quốc gia (TNC) và cách
thức đầu tư cả gói của nó để chiếm lĩnh thị trường và thu nhiều lợi nhuận. Tuy
nhiên, theo kinh nghiệm của một số nước lại cho rằng: FDI là nguồn động lực

đóng vai trị rất quan trọng trong quá trình phát triển của họ. Điều đó có ý
nghĩa là hiệu quả sử dụng FDI phụ thuộc rất lớn vào cách thức huy động và
quản lý sử dụng nó của nước nhận đầu tư, chứ không phải ý đồ của nhà đầu
tư.
2. Phân loại FDI
Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ
yếu là hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài.Hợp đồng hợp tác kinh doanh:
 Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Contractual-Business-Cooperation) là
văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp doanh) quy định rõ
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư
sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp
nhân. Và ở Việt Nam, hình thức này chỉ chiếm trên 3% số dự án và khoảng
9% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 chỉ có 181 dự án có hiệu lực với 4,5
tỷ USD vốn đầu tư).
 Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh ( Joint Venture interprise): là loại hình doanh
nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài hợp tác với các nước tiếp nhận
4


đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủ ro
theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức
cơng ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước
tiếp nhận đầu tư.Ở Việt Nam, hình thức này chỉ chiếm trên 23% số dự án và
khoảng 44% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 có 1.269 dự án có hiệu lực
với 19,7 tỷ USD vốn đầu tư).
 Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% Foreign Cantrerisce) là

doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài( tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước tiếp nhận đầu tư, tự
quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh. Ở Việt Nam,
hình thức này có xu hướng gia tăng cả về số dự án và vốn đăng ký. Hiện có
trên 73% số dự án và khoảng 47% số vốn đầu tư (đến tháng 5 năm 2005 có
3.956 dự án có hiệu lực với 22,8 tỷ USD vốn đầu tư). Hiện nay trong đó tổng
dự án và tổng vốn trên thì nhà đầu tư đăng ký dưới hình thức 100% vốn nước
ngồi chiếm 77,2% về số dự án (60,7% về tổng vốn), đăng ký dưới hình thức
liên doanh chiếm 19,5% về số dự án (31,2% về tổng vốn đăng ký). Số còn lại
đăng ký thuộc lĩnh vực hợp doanh BOT công ty cổ phần và công ty quản lý
vốn.
3. Nhân tố thúc đẩy FDI
3.1. Chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước
Helpman và Sibert, Richard S. Eckaus cho rằng có sự khác nhau về
năng suất cận biên của vốn giữa các nước. Một nước thừa vốn thường có năng
suất cận biên thấp hơn. Cịn một nước thiếu vốn thường có năng suất cận biên
cao hơn. Tình trạng này sẽ dẫn đến sự di chuyển dòng vốn từ nơi dư thừa
sang nơi khan hiếm nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
3.2. Chu kỳ sản phẩm
Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm mới đầu được phát minh
và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất khẩu ra thị trường nước
5


ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới làm nhu cầu trên thị
trường nội địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản xuất để thay thế
sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât của nước
ngoài. Khi nhu cầu thị trường của sản phẩm mới trên thị trường trong nước
bão hoà, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện. Hiện tuợng này diễn ra theo chu kỳ
và do đó dẫn đến sự hình thành FDI.Raymond Vernon (1966) lại cho rằng khi

sản xuất một phẩm đạt tới giai đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của
mình cũng là lúc thị trường sản phẩm này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai
đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh tranh giữa các nhà cung cấp
dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết định cắt giảm chi phí sản
xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất sản phẩm sang những
nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn
3.3. Lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Stephen H. Hymes (1960, công bố năm 1976), John H. Dunning
(1981), Rugman A. A. (1987) và một số người khác cho rằng các cơng ty đa
quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công
ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở nước ngồi nên họ sẵn sàng đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu tư, những công ty đa quốc gia
sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, đất đai) cho phép họ phát huy các
lợi thế đặc thù nói trên.
3.4.Tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một biện pháp để tránh xung đột
thương mại song phương. Ví dụ, Nhật Bản hay bị Mỹ và các nước Tây Âu
phàn nàn do Nhật Bản có thặng dư thương mại còn các nước kia bị thâm hụt
thương mại trong quan hệ song phương. Đối phó, Nhật Bản đã tăng cường
đầu tư trực tiếp vào các thị trường đó. Họ sản xuất và bán ơ tơ, máy tính ngay
tại Mỹ và châu Âu, để giảm xuất khẩu các sản phẩm này từ Nhật Bản sang.
Họ còn đầu tư trực tiếp vào các nước thứ ba, và từ đó xuất khẩu sang thị
trường Bắc Mỹ và châu Âu.
6


3.5. Khai thác chuyên gia và công nghệ
Không phải FDI chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn sang nước
kém phát triển hơn. Chiều ngược lại thậm chí cịn mạnh mẽ hơn nữa. Nhật
Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chun gia

ở Mỹ. Ví dụ, các cơng ty ơ tơ của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở
Mỹ để sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các cơng ty máy tính của Nhật Bản
cũng vậy. Khơng chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát
triển khác cũng có chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư
trực tiếp ra nước ngồi, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc cơng ty đa quốc gia
quốc tịch Trung Quốc là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của
cơng ty đa quốc gia mang quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược
để Lenovo tiếp cận công nghệ sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc
TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập với Thompson (Pháp) thành TCLThompson Electroincs, việc National Offshore Oil Corporation (Trung Quốc)
trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal (Mỹ) cũng với chiến lược như
vậy.
3.6.Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn ngun liệu thơ, nhiều cơng ty đa quốc gia tìm cách đầu
tư vào những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Làn sóng đầu tư trực tiếp
ra nước ngồi lớn đầu tiên của Nhật Bản vào thập niên 1950 là vì mục đích
này. FDI của Trung Quốc hiện nay cũng có mục đích tương tự.
II. Các mơ hình về vai trị của nguồn vốn đối với tăng trưởng
1.Mơ hình tân cổ điển về tăng trưởng kinh tế
1.1 Mơ hình
Vào cuối thế kỉ 19, cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ,
trường phái kinh tế tân cổ điển ra đời. Bên cạnh một số quan điểm về tăng
trưởng kinh tế tương đồng cùng trường phái cổ điển như sự tự điều tiết của
bàn tay vơ hình, mơ hình này có các quan điểm mới sau:

7


Đối với các nguồn lực về tăng trưởng kinh tế, mơ hình nhấn mạnh vai
trị đặc biệt quan trọng của vốn. Từ đó họ đưa ra hai khái niệm:
+Phát triển kinh tế theo chiều sâu: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng số

lượng vốn cho một đơn vị lao động.
+hát triển kinh tế theo chiều rộng: tăng trưởng dựa vào sự gia tăng vốn
tương ứng với sự gia tăng lao động
Để chỉ quan hệ giữa gia tăng sản phẩm và tăng đầu vào, họ sử dụng
hàm sản xuất Cobb Douglass Y=F(k,l,r,t)
Sau khi biến đổi, Cobb-Douglass thiết lập mối quan hệ theo tốc độ tăng
trưởng các biến số: g=t+ak+bl+cr
Trong đó:
G: tốc độ tăng trưởng GDP
K,l,r: tốc độ tăng của các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên
T phần dư còn lại, phản ánh tác động khoa học kĩ thuật A, b, c: các hệ
số, phản ánh tỉ trọng của các yếu tố đầu vào trong tổng sản phẩm: a+b+c=1
1.2 Ý nghĩa
Các nhà kinh tế học tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự
tăng trưởng thơng qua hàm sản xuất. Hàm số này nêu lên mối quan hệ giữa sự
tăng lên của đầu ra với sự tăng lên của yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài
nguyên, khoa học- công nghệ. Với hàm sản xuất Cobb-douglas cho biết có 4
yếu tố cơ bản tác động đến tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của 4
yếu tố này là khác nhau giữa các yếu tố K, L, R và T. Họ cũng cho rằng khoa
học - cơng nghệ có vai trị quan trọng nhất với sự phát triển kinh tế. Yếu tố
khoa học công nghệ phụ thuộc rất lớn vào yếu tố vốn, sự đầu tư của các chủ
thể trong nền kinh tế. Với việc thu hút FDI,Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với
những tiến bộ khoa học công nghệ mới nhất trên thế giới, đồng thời các DN
nước ngoài khi đầu vào Việt Nam sẽ mang những kiến thức, khoa học công
nghệ trên thế giới để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh..
2. Mơ hình Harrod- domar
8


2.1 Mơ tả về mơ hình

Hàm sản xuất : Y =1/k * K (1)
Tiết kiệm

S=s*Y

(2)

Vốn đầu tư :

I=S

(3)

Lượng vốn gia tăng :
Từ (2),(3),(4) ta có
Hệ số tư bản - đầu ra:
Từ (1) ta có :

Y=

K = I - d*K ( d là tỷ lệ khấu hao) (4)
:

K = s*Y - d*K (5)
k=K/Y (6)

K/k

Tỷ lệ tăng trưởng đầu ra : g =


(7)
Y /Y = (s/k)-d

2.2 Ý nghĩa :
Dựa vào mô tả trên ta thấy nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng
vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Chúng ta có cơng thức: g=s/
k, trong đó g là tốc độ tăng trưởng kinh tế, s là tỷ lệ tiết kiệm và k là hệ số
ICOR. Công thức trên nêu lên , tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc
vào tỷ lệ tiết kiệm (đầu tư) và hệ số ICOR. Vì vậy, nếu hệ số ICOR của Việt
Nam là 4,8 muốn có g=8,5% thì phải tiết kiệm (đầu tư) 40,8%. nếu huy động
vốn trong nước chỉ được 30% thì ít nhất phải thu hút đầu tư nước ngoài bằng
khoảng 10,8%. Điều này cho thấy vai trị của FDI đối với q trình phát triển

9


Chương II : Vai trò của FDI với phát triển kinh tế ở Việt Nam
I. Vai trò của FDI tới tăng trưởng kinh tế
Đầu tư nước ngồi đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam. Các dự án đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi dần đời sống sản
xuất, kinh doanh của địa phương, có tác dụng kích thích sản xuất của các
thành phần kinh tế khác đầu tư nước ngoài cũng khả quan trong năm 2003 và
được Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đánh giá là “… Có sự
chuyển biến mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng cao hơn các thành phần kinh tế
khác”. Cụ thể, năm 2003, doanh thu của khu vực này đạt 16 tỉ USD, tăng hơn
30% so với năm trước, trong đó riêng doanh thu xuất khẩu đạt 6,3 tỉ USD,
chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhờ những kết quả trên nên
khu vực đầu tư nước ngồi đóng góp khoảng 14,3% GDP cả nước. Trên 4.000
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã tạo việc làm ổn định cho khoảng
700 ngàn lao động trong nước, chưa kể những lao động gián tiếp tại các vùng

nguyên liệu trên phạm vi toàn quốc. Các dự án đầu tư nước ngoài đã khai thác
một cách có hiệu quả tiềm năng, làm thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương cũng
như vùng lãnh thổ, tạo cơ hội đẩy mạnh sự hợp tác, liên kết kinh tế trong
phạm vi tỉnh, thành phố. Vai trò của FDI với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
được thể hiện ở những khía cạnh sau đây
1. Góp phần tăng nguồn vốn, giải quyết vấn đề thiếu vốn cho phát
triển KTXH
- FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế xã hội do tích
luỹ nội bộ thấp, cản trở đầu tư và đổi mới kỹ thuât trong điều kiên khoa học ,
kỹ thuật thế giới phát triển mạnh.
- Mặc dù FDI thường chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng mức đầu tư của
nước chủ nhà nhưng điều đàng chú ý là vốn FDI cho phép tạo ra các ngành
mới hoàn toàn hoặc thúc đẩy sự phát triển của một số ngành quan trọng đối
với q trình cơng nghiệp hố đất nước.
10


- Đối với Việt Nam , sau hơn 17 năm đổi mới , nguồn vốn đầu tư nước
ngồi đã đóng góp giúp bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng tiềm
lực kinh tế để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong
nước như dầu khí, điện.... Tính từ năm 1998 đến hết năm 2003, trên phạm vi
cả nước đã có trên 4500 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 46 tỷ
USD. Đến 2004, Việt Nam đã thu hút được vốn đầu tư trên 65 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Tỷ trọng đóng góp của FDI vào GDP có xu hướng tăng lớn
qua các năm: năm 1992 là 2%, năm 1996 là 7,6%, năm 1999 là 10,3%, năm
2000 chiếm 13.3% GDP, năm 2002 chiếm 13,5% , năm 2003 chiếm 14%.
Nguồn vốn này cũng góp phần tích cực vào việc hồn chỉnh ngày càng đầy đủ
và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thộng vận tải, bưu chính viễn thơng...,
hình thành các khu cơng nghiệp, khu chế xuất, khu cơng nghệ cao, góp phần
thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, hình thành các khu dân cư

mới, tạo việc làm cho hàng vạn lao động tại các địa phương. Những vấn đề
trên cho thấy tác dụng và ảnh hưởng quan trọng của FDI đối với sự phát triển
kinh tế của đất nước.
2. FDI với nguồn thu ngân sách và các cân đối vĩ mô.
Cùng với sự phát triển , FDI đóng góp ngày càng tăng vào nguồn thu
ngân sách cho nhà nước thông qua việc đánh thuế vào các cơng ty nước
ngồi..Theo số liệu của Bộ kế hoạch đầu tư thì giai đoạn 1996-2000 thu từ
khu vực FDI chiến 6-7% nguồn thu ngân sách quốc gia( nếu kể cả ngành dầu
khí thì chiếm gần 20% thu ngân sách), đạt khoảng 1,45 tỷ USD; gấp 4,5 lần
so với 5 năm trước đó, với nguồn thu bình qn khoảng 290triệu USD/ năm.
Đến giai đoạn 2001 -2005 tăng lên đến 1 tỷ USD/ năm.
Bên cạnh đó, FDI đã góp phần quan trọng vào việc thặng dư của tài
khoản vốn, góp phần cải thiện cán cân thanh tốn nói chung.
3. Góp phần nâng cao năng lực công nghệ cho nước chủ nhà và góp
phần tạo động lực cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước.
11


Sự tham gia của doanh nghiệp FDI góp phần phá vỡ cơ cấu thị trường
độc quyền, tăng tính cạnh tranh của thị trường. Điều này đã đưa lại tác động
tích cực lẫn tiêu cực:
+ Doanh nghiệp FDI với lợi thế về vốn, cơng nghệ, trình độ tổ chức sản
xuất, các bí quyết marketing đã tạo ra sức ép đáng kể buộc các doanh nghiệp
trong nứơc phải thay đổi cách thức quản lý, nâng cao công nghệ, sử dụng các
hoạt động marketing nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
+ Đồng thời do sức cạnh tranh yếu, các doanh nghiệp trong nứơc sẽ dễ
dàng để mất thị phần vào tay các đối thủ cạnh tranh nước ngoài.Khi thị phần
đã suy giảm, các doanh nghiệp trong nước buộc phải phân bổ chi phí cố định
khơng đổi của họ đối với sản xuất nhỏ hơn, vì vậy càng làm tăng chi phí đơn

vị và giảm khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa. Đứng trên quan
điểm hiệu quả thì sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp FDI sẽ dẫn đến thu
hẹp khu vực trong nước, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực khan hiếm, vì
vậy sẽ mang lại lợi ích hiệu quả phân bổ được cải thiện. Tuy vậy, sự thu hẹp
của khu vực sản xuất trong nước thường gây ra nhiều hậu quả về xã hội và kết
quả mà mọi chính phủ đều khơng mong muốn.
Cùng với việc cung cấp vốn, thông qua FDI các công ty nước ngồi đã
chuyển giao cơng nghệ từ nước mình hoặc nước khác sang cho Việt Nam.
Chuyển giao công nghệ là một trong 4 kênh làm xuất hiện “tác động tràn” đối
với doanh nghiệp do đó nước ta có thể nhận đựợc những công nghệ kỹ thuật
tiên tiến, hiện đại( thực tế, có những cơng nghệ khơng thể mua đựơc bằng
quan hệ thương mại đơn thuần), những kinh nghiệp quản lý, năng lực
marketting, độ ngũ lao động được đào tạo, rèn luyện về mọi mặt( trình độ kỹ
thuật, phương pháp làm việc, kỷ luật lao động.
4. Tác động tới xuất khẩu và cán cân thanh toán
FDI thúc đẩy hoạt động thương mại, tạo hành lang cho hoạt động xuất
khẩu và tiếp cận nhanh nhất với thị trường thế giới. Xuất khẩu là một trong
những giải pháp tăng trưởng kinh tế, góp phần tăng thu nhập cho nền kinh tế,
12


từ đó giải quyết các vấn đề xã hội. Theo quy luật của các nước đang phát
triển, cán cân thanh tốn của các nước này ln ở tình trạng thâm hụt. Do vậy,
hoạt động FDI đã góp phần vào việc hạn chế một phần nào đó tình trạng thâm
hụt của cán cân thanh tốn thơng qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu
tư vào nước tiếp nhận FDI. Thông qua FDI, hoạt động xuất nhập khẩu của
các nền kinh tế chủ nhà được kích hoạt, trở nên hết sức sôi động. Khởi đầu là
xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng, tiếp đến là
các sản phẩm thuộc các ngành công nghiệp cần nhiều lao động như dệt may,
cơng nghiệp chế biến và sau đó là các sản phẩm có hàm lượng tư bản cao như

sản phẩm điên, điện tử, cơ khí ...
Theo số liệu thống kê, các doanh nghiệp FDI đã chiếm tỷ trọng 13 –
14% GDP, 35,5% tổng sản lượng công nghiệp và 18,6% tổng vốn đầu tư xã
hội; ngồi dầu thơ, chiếm tỷ trọng 33,8% kim ngạch xuất khẩu; Hoạt động
kinh doanh của khu vực kinh tế FDI (trừ ngành dầu khí) trong năm 2003 phát
triển khá. So với năm 2002, doanh thu của các doanh nghiệp FDI tăng 36,8%;
kim ngạch xuất khẩu tăng 35,3%; nộp ngân sách đạt 465 triệu USD, tăng
1,3%; tạo ra việc làm cho khoảng 665.000 lao động, tăng 7,3% so với năm
2002.
Bảng 3 : Cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng hoá theo khu vực kinh tế(kể cả
xuât khẩu dầu thô)

Đơn vị %

1995
Khu vực kinh 73.0

1996
70.3

1997
65.0

1998
65.7

1999
59.4

2000

53.0

2001
54.8

2002
52.9

2003
49.6

2004
45.3

2005
42.8

tế trong nước
Khu vực kinh 27.0

29.7

35.0

34.3

40.6

47.0


45.2

47.1

50.4

54.7

57.2

tế đầu tư nước
ngoài

Nguồn: http:// www.gso.gov.vn
5. Tác động tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập
kinh tế quốc tế
Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng vận
động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay, khi
13


q trình tồn cầu hố, khu vực hố và quốc tế hố đang diễn ra hết sức nhanh
chóng dưới sự tác động của mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ.
Đối với các nước đang và kém phát triển nói chung cũng như Việt Nam
nói riêng thì quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt
nhất để rút ngắn tụt hậu so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới,
có điều kiện phát huy tối ưu hơn những lợi thế so sánh của mình trong phân
cơng lao động quốc tế. Trong xu thế quốc tế hoá và khu vực hoá các hoạt
động kinh tế hiện nay, mức độ thành công của mở cửa và hội nhập kinh tế với

thế giới có tác động chi phối mạnh mẽ tới sự thành công của công cuộc đổi
mới, đến kết quả của sự nghiệp CNH-HĐH cũng như tốc độ phát triển của
nền kinh tế Việt Nam.
Đầu tư nước ngoài cũng như khu vực có vốn đầu tư nước ngồi và đặc
biệt là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đã trở thành một động lực
quan trọng thức đẩy quá trình phát triển, đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế
của tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, là nhân tố cơ bản có
vai trị đặc biệt quan trọng tác động tới quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại
và hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Vai trò của FDI với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
FDI góp phần tái cấu trúc nền kinh tế, FDI làm thay đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng phù hợp với chiến lược cơng nghiệp hố của các nước chủ nhà.
1. Huy động vốn để thay đổi cơ cấu kinh tế với tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ tăng lên.
Cơ cấu vốn FDI ngày càng thay đổi phù hợp hơn với yêu cầu dịch
chuyển cơ cấu kinh tế của đất nước. Những năm đầu, vốn FDI tập trung phần
lớn vào thăm dị, khai thác dầu khí (32,2%) và khách sạn du lịch, căn hộ cho
thuê (20,6%). Nhưng những năm gần đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật
chất của nền kinh tế (nhất là lĩnh vực công nghiệp) ngày càng gia tăng hiện
chiếm 2/3 tổng nguồn vốn đầu tư chung. Trong đó, trên 60% số dự án là đầu
14


tư khai thác và nâng cấp các cơ sở kinh tế hiện có. Cơ cấu ngành nghề được
điều chỉnh theo hướng ngày càng hợp lý, tập trung vào các lĩnh vực sản xuất
hàng xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở sản xuất công nghiệp,
chế biến nông, lâm, thuỷ sản và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, sử
dụng nhiều lao động; ứng dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại... Sự xuất
hiện của nhiều cơng trình lớn như các nhà máy xi măng Tràng Kênh, Nghi
Sơn, Sao Mai, Văn Xá, Phúc Sơn, Hải Long, các nhà máy cán thép ở Hải

Phòng, Thái Nguyên, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, các nhà máy sản xuất,
lắp ráp ô tô, xe máy, các dự án liên lạc viễn thông, điện tử, các nhà máy
đường ở Ninh Bình, Thanh Hố, Long An, Tây Ninh và các dự án chế biến
nơng, lâm, sản... đã góp phần tăng nhanh năng lực sản xuất của các ngành,
các địa phương, và từng bước hiện đại hoá một số lĩnh vực của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) vào Việt
Nam đang có sự chuyển dịch tích cực sang lĩnh vực dịch vụ. Đây là nét mới
và rõ nhất về tình hình thu hút FDI vào Việt Nam trong những tháng đầu năm
nay, khi vẫn chưa xuất hiện những dự án được coi là “đình đàm” về quy mơ
vốn đầu tư, như trong năm 2006. Số liệu thống kê cho thấy, nếu như 6 tháng
đầu năm 2006, tỷ lệ vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực cơng nghiệp là 72,7%, thì
trong 6 tháng đầu năm 2007 tỷ lệ này giảm xuống còn 56,5%. Ngược lại, tỷ lệ
vốn FDI đăng ký đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ từ 22,6% của 6 tháng đầu năm
2006 tăng lên 43,2% trong 6 tháng đầu năm 2007. Một tháng sau, tức là 7
tháng đầu năm 2007, vốn FDI đăng ký mới vẫn theo hướng đổ vào lĩnh vực
dịch vụ từ 43,2% lên 44,1% (2,81 tỷ USD) của 220 dự án, trong khi đó lĩnh
vực cơng nghiệp từ 56,5% xuống còn 53,8% (3,43 tỷ USD) của 460 dự án.
Nếu xét thêm ở quy mơ vốn đầu tư trung bình cho một dự án thì dự án đầu tư
trong lĩnh vực dịch vụ có quy mơ lớn hơn. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ
Kế hoạch và Đầu tư), lĩnh vực dịch vụ hút vốn vì thời gian qua một số ngành
nghề dịch vụ đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài, như xây
dựng các khu vui chơi, nghỉ dưỡng, sản xuất phần mềm, dịch vụ tư vấn - tài
15


chính,… Chỉ tính riêng trong ngành du lịch, trong 6 tháng đầu năm đã có gần
800 triệu USD (chiếm gần 15% tổng vốn FDI vào Việt Nam) rót vào ngày
này với 17 dự án. Một chuyên gia kinh tế cho rằng lĩnh vực dịch vụ được các
nhà đầu tư nước ngoài để mắt nhiều do Việt Nam đã cam kết mở cửa lĩnh vực
này rộng hơn sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

2. Hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong các lĩnh
vực kinh tế
Thơng qua đầu tư trực tiếp nước ngồi, chúng ta đã du nhập những
công nghệ hiện đại trong các lĩnh vực viễn thơng, khai thác dầu khí, hố chất,
điện tử,... phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Một
số ngành sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu trong nước như dệt, may, sản
xuất giầy dép cũng có cơng nghệ thuộc loại trung bình tiên tiến ở khu vực.
Nguồn vốn ĐTNN cùng các phương thức kinh doanh mới đã tạo ra sự cạnh
tranh ngay tại thị trường trong nước, thúc đẩy doanh nghiệp trong nước phải
đổi mới chất lượng sản phẩm và áp dụng phương pháp kinh doanh hiện đại.
ĐTNN góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu và mở rộng nguồn
thu ngân sách. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài bằng gấp 50 lần so với năm 1991, chiếm 22,5% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Các khoản nộp ngân sách từ các hoạt động ĐTNN
tăng nhanh trong những năm qua: năm 1994 là 128 triệu USD, năm 1996 là
263 triệu USD, từ 1997 đến nay khoảng trên 315 triệu USD, riêng năm 1999
giảm còn 260 triệu USD. Khu vực ĐTNN đã giải quyết việc làm trực tiếp cho
khoảng 29 vạn lao động, ngồi ra, cịn gián tiếp tạo ra việc làm cho gần 1
triệu lao động trong các ngành xây dựng, thương mại, dịch vụ liên quan đến
ĐTNN. Thu nhập bình quân của lao động Việt nam trong doanh nghiệp
ĐTNN cao hơn cùng ngành nghề ở khu vực khác từ 30% đến 50%, bình quân
tháng khoảng 70USD và tổng thu nhập của lao động hàng năm lên tới 300350 triệu USD.
3. Thực hiện cơng nghiệp hố nông thôn.
16


Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song, các dự án FDI đã góp phần
khơng nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản
xuất hàng hố quy mơ lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam,
trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các cơng nghệ mới, cơng

nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và
đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm
khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong
thời gian gần đây.
Những đóng góp tích cực:
- Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài tương đối phù hợp với yêu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của ngành, nguồn vốn được thu hút khá đồng đều vào các
lĩnh vực trồng trọt, chế biến nơng, lâm sản, sản xuất mía đường, sản xuất thức
ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu
giấy;
- Các dự án FDI đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới, cơng
nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao tính cạnh tranh của hàng nơng lâm sản. Các
chương trình mía đường, trồng và chế biến rau quả, chương trình trồng rừng,
chuyển giao công nghệ mới, tạo ra các loại giống cây trồng, giống vật nuôi và
các sản phẩm chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế;
- Tạo việc làm cho hàng vạn lao động cơng nghiệp (đến nay có khoảng
75.000 lao động cơng nghiệp đang làm việc tại các doanh nghiệp FDI của
ngành), sản xuất nguyên liệu và các dịch vụ lao động cho công nghiệp chế
biến, v.v... Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật ngày càng trưởng thành,
công nhân được nâng cao trình độ, tay nghề;
Một số vấn đề cần được lưu ý:
- So với các ngành khác, tỉ trọng đầu tư trực tiếp nước ngồi vào ngành
nơng, lâm nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và tầm quan trọng
của ngành trong nền kinh tế quốc dân. Hiện tại, lĩnh vực nông, lâm, ngư
nghiệp chỉ chiếm 13,6% về số dự án và 7% về vốn đầu tư đăng ký;
17


- Chưa có cơ quan của ngành xây dựng chiến lược thu hút và quy hoạch
sử dụng nguồn vốn FDI trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, kể cả việc

theo dõi và giúp đỡ giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án;
- Cần chú trọng xây dựng hệ thống chính sách khuyến khích phát triển
nơng lâm sản theo hướng hiện đại nhằm mở rộng thị trường trong nước và
vươn ra thị trường quốc tế, hoàn thiện các chính sách về sử dụng đất, thuế và
các chế độ ưu đãi đầu tư, đặc biệt là đầu tư trong nông nghiệp và ở các vùng
nông thôn;
- Cơ sở hạ tầng và tay nghề lao động ở khu vực nông thôn tuy đã được
cải thiện nhiều nhờ thành tựu xố đói giảm nghèo, song chưa đủ để hấp dẫn
các nhà đầu tư nước ngoài;
- Rủi ro khi đầu tư vào nông nghiệp và khu vực nông thôn cao hơn
nhiều so với các ngành khác. Nông nghiệp Việt Nam vẫn đang trong giai
đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi
vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá
nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó
các nơng sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng
giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng;
- Đa số dự án có qui mô nhỏ, phân bố không đồng đều giữa các vùng,
miền trong nước.
- Chưa hình thành một cơ chế gắn kết thường xuyên giữa Bộ và địa
phương (Tỉnh) để chọn lựa giới thiệu với các nhà đầu tư nước ngoài các dự án
FDI ưu tiên trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nơng thơn;
- Cần có chính sách thu hút đầu tư mạnh hơn nữa vào công nghệ chế
biến nông lâm sản, bảo quản sau thu hoạch, tạo cây, con giống có chất lượng
cao để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu;
- Các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn chưa đủ
năng lực để chủ động kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài theo ý đồ chiến lược
phát triển sản phẩm và thị trường của riêng mình.
18



III. Vai trò của FDI với đảm bảo phúc lợi xã hội cho con người
1. Tác động tới việc làm và chất lượng nguồn lao động
Vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động hiện đang được xã hội
quan tâm và coi đây là một trong những nhân tố góp phần làm cho xã hội phát
triển cơng bằng và bền vững. Mọi người có việc làm sẽ làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp, các vấn đề xã hội đựơc giải quyết, nâng cao đời sống cho mọi tầng
lớp dân cư.
Song song với việc giải quyết việc làm là việc không ngừng nâng cao hơn nữa
chất lượng lao động, tạo ra cho nền kinh tế nhiều đội ngũ lao động có tay
nghề, có trình độ khoa học cơng nghệ cao, đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực
quản lý vĩ mơ,... góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội.
Tạo ra nhiều việc làm cho người lao động trong nước cũng như nâng
cao hơn nữa chất lượng lao động là một trong những mục tiêu đặt ra khi thực
thi chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đến nay đây là mục tiêu
mà chúng ta đã thu được kết quả cao hơn so với các mục tiêu khácSố liệu
thống kê cũng cho thấy tầm quan trọng ngày càng tăng của các doanh nghiệp
FDI trong việc tạo ra việc làm mới trong hai thập kỷ qua, đặc biệt trong
những năm gần đây. Trong giai đoạn 2000-2005, việc làm mới được tạo ra
bởi các doanh nghiệp FDI tăng trung bình 24,4%/năm (tăng gần gấp ba lần về
mặt tuyệt đối, từ 227.000 người năm 2000 lên 667.000 người năm 2005), bỏ
xa khu vực doanh nghiệp nhà nước và tư nhân (lần lượt là 3,3% và 2,3%). Kết
quả là tỷ trọng việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp FDI đã tăng từ
0,6% năm 2000 lên 1,6% năm 2005 ở VN. Tuy con số này còn rất khiêm tốn
nhưng với đà tăng trưởng nhanh như vậy, đặc biệt là sau khi VN gia nhập
WTO, triển vọng việc làm được tạo ra bởi thành phần kinh tế này khá sáng
sủa. Trong tương lai, thành phần này sẽ đuổi kịp thành phần kinh tế nhà nước
về mặt thu hút lao động (năm 2005, doanh nghiệp nhà nước tuyển dụng 9,7%
và doanh nghiệp tư nhân tuyển dụng 88,8% trong tổng lực lượng lao động).

19



Đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, với tốc độ tăng trưởng nhanh hơn sẽ
cho phép họ tuyển mộ được (hay cạnh tranh để thu hút) những nhân viên ưu
tú từ các doanh nghiệp nhà nước. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến năng
suất của các doanh nghiệp nhà nước, tạo thêm nhiều doanh nghiệp thua lỗ, và
do đó, làm gia tăng thất nghiệp và bất bình đẳng ở thành thị. Số liệu từ các
cuộc khảo sát cũng cho thấy các doanh nghiệp nhà nước có năng suất thấp so
với các doanh nghiệp khác, đặc biệt so với doanh nghiệp FDI. Theo một báo
cáo của Mekong Economics năm 2002, một lao động trong doanh nghiệp FDI
tạo ra 110 triệu đồng giá trị gia tăng năm 2000, so với 36 triệu đồng ở doanh
nghiệp nhà nước và 40 triệu đồng ở doanh nghiệp tư nhân. Nếu xét về chỉ tiêu
kinh doanh khác như tỷ suất lợi nhuận/tiền lương mà Bộ Lao động -Thương
binh và Xã hội tiến hành năm 2005 thì kết quả cũng tương tự, với con số 1,1 ở
doanh nghiệp FDI, 0,3 ở doanh nghiệp nhà nước, và 0,5 ở doanh nghiệp tư
nhân.
Qua các con số minh họa trên, có thể nói là lao động ở các doanh
nghiệp FDI có năng suất lao động và tiền lương cao hơn lao động ở doanh
nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp FDI đã trở thành đối thủ cạnh tranh với
doanh nghiệp nhà nước trên thị trường lao động, đặc biệt là lao động có trình
độ.
2. Nâng cao mức sống, mức thu nhập của người dân
Số liệu công bố qua các cuộc điều tra gần đây về tiền lương cho thấy
các doanh nghiệp FDI đang thắng thế trong cạnh tranh thu hút nhân lực cấp
cao, như các chức danh quản lý doanh nghiệp. Mức lương trả cho lao động
quản lý trong các doanh nghiệp FDI trung bình là 12 triệu đồng/tháng (năm
2005), cao hơn nhiều so với mức lương tương ứng ở các doanh nghiệp nhà
nước (4,3 triệu) và doanh nghiệp tư nhân (3 triệu). Nếu tính bình qn lương
tháng của tồn bộ lao động trong doanh nghiệp qua các cuộc khảo sát tiền
lương do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tiến hành từ đầu thập kỷ này

thì người lao động trong doanh nghiệp FDI vẫn được hưởng mức lương cao
20



×