Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Hoạt động kiểm soát ô nhiễm không khí, những giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.19 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Môi trường không khí nói riêng và môi trường hiện nay nói chung đang trong tình trạng
ô nhiễm khá trầm trọng. Hàng loạt các vấn đề ô nhiễm không khí đang đe dọa đến sự ổn định,
đến cuộc sống của con người và các loài sinh vật khác trên trái đât. Việt nam không nằm ngoài
ảnh hưởng đó. Đứng trước một thực trạng như vậy, luật pháp đã can thiệp nhằm trả lại cho
môi trường sự trong sạch vốn có của nó. Vì vậy việc đưa ra những quy định về kiểm soát ô
nhiễm không khí trong thời điểm này là một việc làm hết sức cần thiết. Mặc dù kiểm soát ô
nhiễm không khí trong thời gian vừa qua đã đạt được không ít thành tựu song bên cạnh đó
cũng vẫn tồn tại những bất cập. Thông qua bài tập này chúng em muốn đưa ra một cái nhìn
tổng quan hơn về hoạt động kiểm soát ô nhiễm không khí, đồng thời cũng có đề suất những
giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên.
NỘI DUNG CHÍNH
I. LÝ LUẬN CHUNG.
1/ Ô nhiễm không khí.
- Không khí là một hỗn hợp khí gồm: Nitơ chiếm 78.9%, Ôxi chiếm 0.95%, acgông
chiếm 0.93%, điôxit cácbon chiếm 0.32% và một số hiếm khí như Nêon, hêli, mêtan, krypton.
Trong điều kiện bình thường của độ ẩm tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1-3% thể tích không
khí.
- Ô nhiễm không khí là sự biến đổi không khí theo hướng bất lợi với cuộc sống của con
người, động thực vật, mà sự thay đổi đó chủ yếu do hoạt động của con người gây nên, làm cho
thay đổi mô hình, thành phần hóa học, tính chất vật lý và sinh học của không khí.
Dưới góc độ pháp lý thì ô nhiễm không khí là tình trạng không khí có xuất hiện một,
một số chất lạ hoặc một số biến đổi quan trọng trong thành phần không khí làm thay đổi tính
chất lý, hóa vốn có của nó và sự thay đổi này vi phạm quy chuẩn môi trường do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền ban hành, gây tác hại cho con người và thiên nhiên.
Có rất nhiều nguồn gây ra ô nhiễm không khí được chia làm 2 loại: nguồn tự nhiên (núi
lửa, cháy rừng, bão bụi, các quá trình phân hủy của động thực vật) và nguồn nhân tạo (hoạt
động công nghiệp đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và hoạt động của các phương tiện giao thông)
2/ Kiểm soát ô nhiễm không khí.
- Kiểm soát ô nhiễm không khí là hoạt động mà cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá
nhân tiến hành để bảo vệ môi trường không khí khỏi những tác động bất lợi của con người và


sự biến đổi của thiên nhiên. Các hoạt động này bao gồm:
+ Kiểm soát ô nhiễm không khí thông qua việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện
hệ thống quy chuẩn môi trường không khí.
+ Kiểm soát ô nhiễm không khí thông qua việc phòng chống, khắc phục ô nhiễm không
khí, sự cố môi trường không khí.
Page 1


+ Hoạt động kiểm soát chặt chẽ các nguồn thải vào không khí.
+ Kiểm soát ô nhiễm không khí thông qua hệ thống cơ quan được tổ chức chặt chẽ từ
trung ương đến địa phương.
II. PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG.
1/ Pháp luật về hệ thống quy chuẩn môi trường không khí.
a, khái niệm về quy chuẩn môi trường không khí.
- Quy chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi
trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường. (Điều 3 Luật bảo
vệ môi trường 2005)
- Như vậy quy chuẩn chất lượng không khí được hiểu là mức độ hoặc phạm vi các chất
ô nhiễm nhất định trong thành phần môi trường không khí mà nhà nước thấy chấp nhận được
vì chưa tới mức gây nguy hiểm cho con người, hoặc đã giới hạn an toàn để bảo vệ sức khỏe
cho công đồng và môi trường không khí.
Danh mục các quy chuẩn Việt Nam về môi trường ban hành kèm theo quy định số
35/QĐ- BKHCNMT ngày 25/6/2002. Tại mục A quy định các quy chuẩn liên quan đến chất
lượng không khí. Theo đó, hệ thống này được chia thành 2 quy chuẩn: Quy chuẩn chất lượng
không khí và quy chuẩn thải khí.
b, Quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh .
Các quy chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh ở nước ta được xác lập
trên cơ sở những kết qua nghiên cứu về vệ sinh y học nhằm đảm bảo chất lượng môi trường

không khí ở mức độ tương đối trong sạch. Mức độ môi trường không khí được đánh giá bằng
nồng độ chất độc hại chứa trong một đơn vị trọng lượng hay đơn vị thể tích không khí. Hiện
nay đơn vị thông dụng là một mét khối không khí (mg/m 3). Theo TCVN năm 5937-2005(chất
lượng không khí-quy chuẩn chất lưọng xung quanh) và TCVN năm 5938-2005 (chất lượng
không khí - nồng độ tối đa cho phép của một số chất độc hại trong không khí xung quanh) có
quy định.
- Giá trị giới hạn các thông số cơ bản bao gồm bụi lơ lửng, NO 2, SO2, Chì và nồng độ
tối đa cho pháp của một số chất độc hại của các chất vô cơ, hữu cơ trong không khí xung
quanh.
- Các quy chuẩn này được sử dụng để đánh giá chất lượng không khí xung quanh và
giám sát tình trạng ô nhiễm không khí. Sau khi phân tích các quy chuẩn nói trên sẽ là cơ sở để
so sánh với những số liệu đã thu thập được nhằm mục đích đánh giá chất lượng môi trường
không khí khi cần thiết.
Thực trạng: Theo thống kê của Bộ Y tế, trong những năm gần đây, các bệnh có tỷ lệ
người mắc cao nhất trong phạm vi toàn quốc là viêm phổi (trên 0,4%), việm họng và Amidan
cấp (trên 0,3%) và viêm phế quản (trên 0,3%). Nguyên nhân trực tiếp của các bệnh này là do
Page 2


ảnh hưởng của ô nhiễm không khí phát thải từ các phương tiện giao thông. Đặc biệt là, những
hộ dân sống ở thành phố trên 10 năm có tỷ lệ mắc các bệnh tai, mũi họng, viêm mũi dị ứng,
hen phế quản, viêm phổi, viêm phế quản, cảm cúm, các bệnh về da và mắt cao hơn những hộ
dân sống dưới 3 năm là 72,6% so với 43%. (1)
c, Quy chuẩn về thải khí.
Quy chuẩn thải khí được dùng để kiểm soát nồng độ các chất thải trong thành phần
không khí vào môi trường xung quanh. Hay nói cách khác quy chuẩn thải là quy định nồng độ
chất ô nhiễm thải vào không khí ở mức độ có thể tự điều chỉnh sao cho không vi phạm những
quy chuẩn chất lượng đã đặt ra.
Theo K10. Đ3. Luật bảo vệ môi trường 2005: Khí thải là 1 dạng của chất thải được thải
ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt động khác.

Quy chuẩn thải khí được chia thành 2 loại:
* Quy chuẩn về thải khí đối với nguồn thải tĩnh (chủ yếu thải từ ống khói nhà máy).
Hiện nay ở Việt Nam có 2 quy chuẩn quy định về vấn đề này, đó là TCVN 5939-2005
Quy chuẩn thải khí công nghiệp đối với 1 số chất bụi và vô cơ ; TCVN 5940-2005 Quy chuẩn
thải khí công nghiệp đối với 1 số chất hữu cơ. Nội dung của 2 quy chuẩn này:
+ Quy định các đại lượng cho phép khí thải công nghiệp có tính độc hại cho môi trường
không khí.
+ Quy định về giá trị nồng độ tối đa của các chất vô cơ cũng như các chất hữu cơ trong
khí thải công nghiệp khi thải vào môi trường không khí xung quanh. Khí thải công nghiệp bao
gồm: Khí và khí có chứa bụi do các quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ra.
+ Quy chuẩn này không áp dụng đối với khí thải của 1 số hoạt động mang tính chất đặc
thù.
Thực trạng: Theo số liệu quan trắc và phân tích hiện trạng môi trường ở thành phố và
các khu công nghiệp thì thấy rằng chỉ ở những nơi xa thành phố, khu công nghiệp, đường giao
thông, mới đáp ứng được quy chuẩn cho phép. Tình trạng các khu công nghiệp chịu ô nhiễm
không khí hiện nay sắp sếp theo thứ tự từ cao xuống thấp như sau: khu nhà máy xi măng Hải
phòng, quận Tân Bình (TP HCM), khu công nghiệp Biên Hòa, khu chế biến lứa Long An, khu
công nghiệp giày Thượng Đình…Theo kết quả quan trắc trong thời gian gần đây cho thấy,
trung bình trong 1m3 không khí ở Hà Nội có 80µg 3 bụi không khí PM10 vượt quy chuẩn quy
định cho phép 50µg/m3 bụi khí SO2 cũng vượt quá quy chuẩn Châu Âu. Nồng độ bụi lơ lửng
cao trên mức quy chuẩn cho phép 2.5 lần.(2)
*Quy chuẩn đối với nguồn thải động (thường là khí thải từ các phương tiện giao thông).
Hiện tại chúng ta đang áp dụng TCVN 6431: 2001 đối với phương tiện giao thông
đường bộ - Giới hạn lớn nhất cho phép của khí thải. Quy chuẩn này quy định giới hạn lớn nhất
cho phép các chất gây ô nhiễm môi trường (CO, HC, khói) trong khí thải động cơ sử dụng
xăng hoặc dầu điezen.
Page 3


Ngoài ra, chúng ta còn đang áp dụng Quy định số 249/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính Phủ ngày 10/10/2005. Theo đó các loại xe cơ giới được lắp ráp, sản xuất, nhập khẩu
mới phải đáp ứng đủ quy chuẩn Việt Nam tương đương với mức Euro2, đối với từng loại xe
kể từ ngày 1/7/2007. Đối với những xe dù đã được chứng nhận chất lượng trước ngày nói trên
nhưng chưa được lắp ráp, sản xuất cũng phải áp dụng quy chuẩn Euro2 kể từ ngày 1/7/2008.
Hiện nay do yêu cầu của Chính Phủ về kiểm soát khí thải xe máy tại Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, TP.HCM đã được triển khai. Dự tính đến năm 2013 mới áp dụng
được trong phạm vi cả nước.
Thực trạng: Kết quả quan trắc tại một số thành phố lớn như: Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Đà Nẵng... cho thấy, các khí độc hại gây ô nhiễm phát thải từ các phương tiện giao
thông chủ yếu là CO, NOx’, hơi xăng dầu, bụi, chì, benzen và bụi PM2,5. Trong đó, xe máy là
nguồn phát thải chính khí CO chiếm 85%, xe tải phát thải khí lưu huỳnh và Ni tơ chiếm hơn
70%...
Đặc biệt, phương tiện giao thông chạy bằng xăng phát thải các khí gây ô nhiễm chiếm
hơn 50% so với các phương tiện giao thông chạy bằng dầu diêzen, nhưng các phương tiện này
lại phát thải bụi mịn nhiều nhất. Ngoài ra, đối với các thành phố có cảng biển lớn các hoạt
động giao thông cũng thải ra một lượng khí ô nhiễm đáng kể.
Tại Hà Nội, khảo sát tại một số tuyến đường lớn như Giải Phóng, Trần Hưng Đạo, Trần
Nhật Duật và Phạm Văn Đồng cho thấy, người đi xe máy chịu tác động ô nhiễm không khí
nhiều nhất. Nồng độ bụi đối với người đi phương tiện này là: 580 (µg/m 3), người đi bộ: 495
(µg/ m3), ôtô con 408 (µg/ m3), xe buýt: 262 (µg/ m3). Nồng độ CO đối với người đi xe máy là:
18,6 (ppm), đi bộ: 8,5 (ppm); ôtô con 18,5 (ppm), xe buýt 11,5.
Với tốc độ tăng trưởng xe cơ giới từ 10-20% tại các thành phố lớn như TP.Hồ Chí Minh
và Hà Nội như hiện nay thì lượng phát thải các khí gây ô nhiễm dự báo đến năm 2010 tăng từ
2-5 lần. Điều này có tác động rất lớn đến chất lượng không khí môi trường của các thành phố.
(3)
d, Vai trò của việc xác định quy chuẩn môi trường không khí và 1 số bất cập khi áp
dụng.
* Vai trò.
Việc xây dựng và áp dụng quy chuẩn môi trường không khí trong thực tế đóng 1 vai
trò rất quan trọng trong việc kiểm soát ô nhiễm không khí. Cụ thể:

- Quy chuẩn chất lượng không khí là căn cứ để đánh giá hiện trạng môi trường không
khí, dự báo diễn biến môi trường và lập kế hoạch phát triển lâu dài, bền vững.
- Quy chuẩn chất lượng không khí là căn cứ để quản lý môi trường không khí thông
qua việc quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước trong
việc bảo vệ môi trường không khí ( Cấp giấy phép về môi trường cho các cơ sở kinh doanh,
quản lý các công trình kiểm soát ô nhiễm không khí …)
* Hạn chế:
Việc ban hành những quy chuẩn như hiện nay tuy đã gặt hái được nhiều thành công
song thực tế còn tồn tại rất nhiều bất cập. Mà điển hình như:
Page 4


- Nhiều người cho rằng ở Việt Nam có thể áp dụng các quy chuẩn môi trường không
khí tiên tiến của nước ngoài vào Việt nam, nhưng theo thực tiễn của đất nước ta thì chưa cho
phép thực hiện điều đó. Thật đơn giản vì nước ta là 1 nước kinh tế đang phát triển, kinh tế còn
nghèo nàn nên việc chú trọng đầu tư với 1 khối lượng lớn nguồn vốn vào vấn đề môi trường
như của các quốc gia phát triển là rất khó, nếu không muốn nói là không thể.
Hơn nữa mỗi 1 đất nước lại có những điều kiện tự nhiên là khác nhau nên càng không
thể lấy quy chuẩn của nước này áp dụng vào nước khác. Mặc dù vậy trong những trường hợp
cần thiết vẫn có thể áp dụng nhưng phải được sự cho phép của Bộ tài nguyên và môi trường.
- Có ý kiến của các nhà chuyên gia muốn áp dụng quy chuẩn môi trường không khí
theo tinh thần tự nguyện và không cần phải có sự tham gia của pháp luật. Đây thực sự là
những suy nghĩ rất tốt đẹp song lại không xét đến yếu tố thực tiễn. Việc đạt được quy chuẩn
môi trường không khí đối với các cơ sở kinh doanh, sản xuất đòi hỏi phải có sự đầu tư khá lớn
vào trang thiết bị, hệ thống xử lý chất thải. Điều này sẽ là giảm đi đáng kể lợi nhuận kinh
doanh, vì vậy họ thường tìm cách trốn tránh hoặc thực hiện một cách hình thức. Nên nếu
không có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật thì không thể đảm bảo quy chuẩn môi
trường không khí được thực hiện 1 cách nghiêm túc.
- Các quy định về tổng lượng chất thải, về thời điểm thải và vị trí địa lý, không gian áp
dụng các quy chuẩn môi trường không khí chưa được quy định 1 cách cụ thể.

+ Lượng chất thải nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào quy mô, loại hình sản xuất của
từng cơ sở sản xuất. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật chỉ quy định về nồng độ chất thải và số lần
xả thải mà không hề quy định đến tổng lượng thải. Điều này thực sự gây nên sự bất công đối
với những cơ sở nhỏ. Trong khi lượng thải họ thải ra là không đáng kể so với những cơ sở sản
xuất lớn.
+ Hơn nữa hiện nay pháp luật cũng chưa thấy quy định gì về địa điểm, thời gian, không
gian áp dụng các quy chuẩn môi trường không khí. Trong khi như đã biết thì mỗi vùng miền
khác nhau và mỗi khoảng thời gian khác nhau thì yêu cầu về chất lượng môi trường không khí
là khác nhau. Vùng miền núi vắng người phải khác với đô thị sầm uất.
Những bất cập trên thiết nghĩ cần được khắc phục và hoàn thiện hơn nữa nhằm tạo nên
một môi trường bình đẳng cho việc áp dụng các quy chuẩn chất lượng không khí, đồng thời
tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước thực hiện có hiệu quả trách nhiệm của mình.
2/ Pháp luật về phòng chống, khắc phục ô nhiễm không khí, cải thiện chất lượng
không khí.
a, Hoạt động quan trắc và định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường không khí của cơ
quan quản lý nhà nước.
Quan trắc môi trường không khí là hoạt động sử dụng hệ thống thiết bị kỹ thuật đặc biệt
để thu thập các chỉ tiêu vật lý (tiếng ồn), chỉ tiêu hóa học (hàm lượng khói, bụi, khí độc…),
xác định các nguồn gây ô nhiễm không khí, mức độ gây ô nhiễm không khí, dự báo diễn biến
tình hình môi trường không khí …Với chức năng đó, quan trắc môi trường không khí giúp cho
cơ quan quản lý nhà nước có thể nắm được tình hình chất lượng không khí, những biến đổi
Page 5


của nó từ đó dự báo, chủ động phòng chống và tiến tới loại trừ các nguyên nhân gây ô nhiễm
không khí.
Điều 94 đến Điều 97 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định quan trắc không khí nói
riêng và quan trắc môi trường nói chung là hoạt động được thực hiện bởi Bộ tài nguyên và
môi trường, các bộ, các cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, UBND cấp tỉnh và người
quản lý, vận hành cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Thông qua hoạt động sử dụng hệ thống

quan trắc, các số liệu về hiện trạng môi trường không khí, về khả năng diễn biến của nó trong
tương lai sẽ được thu thập trên phạm vi cả nước.
b, Hoạt động ĐTM .
Đây là hoạt động phòng ngừa ô nhiễm không khí nói chung trong đó có môi trường
không khí được tiến hành bằng cả cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân.
Từ phía các chủ dự án, phải lập báo cáo ĐTM với 3 nội dung cơ bản: phân tích hiện
trạng môi trường không khí tại địa bàn hoạt động của dự án hoặc cơ sở mình; dự báo diễn biến
môi trường không khí khi dự án đi vào hoạt động hoặc cơ sở tiếp tục hoạt động trên địa bàn
đó; kiến nghị các biện pháp thích hợp về biện pháp bảo vệ môi trường không khí.
Căn cứ để xác định cần hay không cần áp dụng trách nhiệm thực hiện việc ĐTM đối với
dự án cụ thể bao gồm: Địa điểm thực hiện dự án; mục đích của hoạt động phát triển; quy mô
hoạt động phát triển; công suất hoạt động; tác động của dự án như thế nào đến môi trường
xung quanh.
Từ phía cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, ĐTM là hoạt động thẩm tra lại tính
chính xác về mặt khoa học cũng như pháp lý của báo cáo ĐTM. Mọi sự tác động từ hoạt đông
phát triển sẽ được xem xét cân nhắc kỹ lưỡng, đồng thời đánh giá một cách đầy đủ và toàn
diện các tác động ấy để tìm gia các giải pháp thích hợp nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng
xấu đến môi trường không khí. Kết quả thẩm định báo cáo ĐTM là một trong những cơ sở
quan trọng để cơ quan có thẩm quyền xét duyệt dự án quyết định dự án cho phép hay không
cho phép dự án thực hiện, nếu dự án đã đi vào hoạt động thì phải đưa ra các biện pháp bắt
buộc thực hiện nhằm giải quyết các tồn tại về môi trường.
Hiện nay Luật bảo vệ môi trường 2005 không có quy định riêng cho môi trường không
khí, song không khí cũng là một thành phần xem xét trong hoạt động này.
c, Hoạt động thông tin về tình hình môi trường không khí.
Hoạt động này do các cơ quan nhà nước tiến hành theo các quy định tại các Điều 102
đến 104. Luật bảo vệ môi trường 2005. Các cơ quan chức năng trong phảm vị quyền nhiệm vụ
quyền hạn của mình có trách nhiệm xác định khu vực bị ô nhiễm và thông báo cho nhân dân
biết. Đó là các thông tin về chất lượng của không khí trên địa bàn đó, về những diễn biến về
môi trường không khí trong tương lai và cả những dự báo về các hiện tượng ô nhiễm không
khí, các sự cố môi trường không khí có thể xảy ra.

Hoạt động này có thể được thực hiện bởi những hình thức: thông báo trên các phương
tiện thông tin đại chúng, gửi công văn đến các địa phương… Hoạt động này vừa giúp cho cơ
Page 6


quan nhà nước nắm bắt được tình hình biến động của môi trường không khí, vừa giúp cho các
tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động phòng ngừa ô nhiễm.
d, Hoạt động khắc phục ô nhiễm không khí.
Theo quy định của Điều 93 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định rõ trách nhiệm điều
tra, xác định khu vực bị ô nhiễm thuộc về UBND cấp tỉnh và Bộ tài nguyên và môi trường.
Bên cạnh đó, tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường cũng phải tiến hành ngay cả biện pháp
để ngăn chặn, hạn chế nguồn gây ô nhiễm không khí. Việc quy định này giúp cho quá trình
khắc phục sự cố môi trường diễn ra một cách nhanh chóng kịp thời và khoa học nhằm giảm
thiểu tối đa thiệt hại có thể xảy ra. Điều đó có nghĩa là tình trạng gây ô nhiễm không khí từ sự
cố sẽ được kiểm soát kịp thời.
e, Hoạt động cải thiện chất lượng không khí.
Nội dung này bao gồm:
- Thực hiện các biện pháp hạn chế nguồn thải gây ô nhiễm không khí, hoặc các biện
pháp giả tỏa mức độ tập trung của nguồn thải.
- Trồng cây xanh hoặc mở rộng diện tích cây xanh, công viên, khu vui chơi, giải trí.
- Thực hiện các biện pháp hấp thụ khí thải, làm sạch không khí hoặc các biện pháp xử
lý khác.
UBND trực tiếp quản lý địa điểm bị ảnh hưởng thường xuyên của nguồn khí thải đóng
vai trò quan trọng của hoạt động này. Thực hiện hoạt động trên không những kiểm soát mà
còn nâng cao chất lượng của không khí xung quanh.
f, Thực tiễn áp dụng.
- Do trang thiết bị còn thiếu và lạc hậu nên việc quan trắc còn chưa chính xác. Hơn nữa
không được thực hiện một cách thường xuyên. Do vậy chưa đảm bảo được yếu tố thời sự. Dù
vậy trong thời gian gần đây việc quan trắc và đánh giá hiện trạng môi trường đã đóng góp
không nhỏ trong việc dự báo các hiện tượng ô nhiễm không khí và biến đổi không khí.

- Hiện nay phần lớn việc thực hiện các hoạt động ĐTM còn mang tính chất hình thức.
Có báo cáo ĐTM được làm đầy đủ, đáp ứng những yêu cầu cơ bản, nhưng bên cạnh đó cũng
có những báo cáo ĐTM còn rất sơ sài và chưa đưa ra được hướng khắc phục khả thi. Những
báo cáo ĐTM hoàn thiện lại không được thực hiện trên thực tế…Tuy vậy nhìn chung việc thực
hiện ĐTM cũng đã được triển khai và đưa lại những thành tựu đáng kể.
- Thông tin về môi trường chưa được sát sao, còn lạc hậu so với thực tế. Điều này gây
không ít khó khăn cho tổ chức, cá nhân và bản thân cơ quan nhà nước khi nắm bắt tình trạng
và xử lý những vi phạm.
- Hoạt động khắc phục ô nhiễm không khí và cải thiện môi trường không khí còn chưa
thực hiện triệt để. Chỉ thực hiện các biện pháp mang tính chất thô sơ và phong trào không đáp
ứng được diễn biến phức tạp của thực trạng môi trường.
3/ Pháp luật về kiểm soát nguồn gây ô nhiễm không khí.
Page 7


Vấn đề này được quy định bao gồm hệ thống các quy pháp luật điều chỉnh hoạt động
thải khí thải của các tổ chức, cá nhân vào môi trường xung quanh thông qua các hoạt động của
họ.
a, Kiểm soát những nguồn thải tĩnh.
Đây được xem là nguồn thải chủ yếu vì vậy Luật bảo vệ môi trường 2005 chủ yếu tập
trung điều chỉnh hành vi của các tổ chức, cá nhân có phát sinh khí thải trong sản xuất, dịch vụ,
kinh doanh. Các cá nhân, tổ chức phải tuân thủ những nghĩa vụ cơ bản sau: (Điều 36; 37 Luật
bảo vệ môi trường 2005)
- Thải khí trong giới hạn cho phép. Các cơ sở buộc phải xin giấy chứng nhận đạt quy
chuẩn môi trường (Giấy phép môi trường). Mục đích của nó là kiểm soát các chất thải khí
ngay từ nguồn phát sinh thông qua việc giới hạn lượng khí thải và nồng độ các chất độc hại có
trong khí thải của các cơ sở công nghiệp. Khi có giấy phép các cơ sở này phải tuân thủ những
điều được ghi trong giấy. Đối với các cơ sở công nghiệp có phát sinh ra khí thải thì được phép
xả khí thải ra môi trường xung quanh theo đúng quy chuẩn thải khí. Nếu xả quá giới hạn cho
phép thì phải chịu trách nhiệm pháp lý theo luật định.

- Khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao… phải có hệ thống
xử lý khí thải đạt tiêu chuẩn môi trường và phải được vận hành thường xuyên.
- Bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường trong khu sản xuất kinh doanh dịch vụ tập
trung có nhiệm vụ:
+ Quản lý hệ thống thu gom, tập trung và xử lý khí thải.
+ Tổ chức quan trắc, đánh giá hện trang môi trường, tổng hợp, xây dựng báo cáo môi
trường và định kỳ báo cáo với cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường cấp tỉnh. Thông qua
hoạt động này, những biến đổi xấu với môi trường không khí sẽ thường xuyên được xem xét
đánh giá.
+ Các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ phải có biện pháp giảm thiểu và xử lý bụi, khí
thải đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi thải ra môi trường; bảo đảm không để rò rỉ phát tán
khí thải, hơi khí độc hại ra môi trường xung quanh; khống chế tiếng ồn, phát sáng, phát nhiệt,
gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường xung quanh và người lao động.
+ Khi thi công công trình xây dựng trong khu dân cư, phải có bảo đảm không phát tán
bụi, tiếng ồn, độ rung vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Tại điều 7, Đ 84 Luật bảo vệ môi trường 2005 đã quy định về cấm những hành vi: “thải
khí, bụi khí có chất hoặc mùi độc hại ra không khí (K6. Đ7)… Đây là những hành vi vi phạm
quy chuẩn chất lượng môi trường không khí. Vì vậy các tổ chức, cá nhân trong hoạt động của
cơ sở mình có thải ra những chất như vậy cần phải có trách nhiệm tính toán để có thể khuối
trộn vào không khí mà không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh.
b, Kiểm soát nguồn thải động.
Nguồn thải động chủ yếu do các hoạt động giao thông vận tải đang có xu hướng tăng
dần theo thời gian. Các quy định pháp luật về vấn đề này không nhiều, mà chỉ điều chỉnh các
hoạt động của tổ chức cá nhân khi tham gia giao thông vận tải, nhằm giảm thiểu tiếng ồn, bụi,
chì và các chất độc khác vào môi trường xung quanh cụ thể như sau:
Page 8


- Các chủ phương tiện giao thông không được thải bụi, khói, khí độc quá giới hạn cho
phép vào không khí. Điều này được quy định trong quy chuẩn thải khí đối với các phương tiện

giao thông (TCVN 6438:2001- phương tiện giao thông đường bộ- giới hạn lớn nhất cho phép
của khí thải).
- Ô tô, mô tô, các phương tiện cơ giới khác từ xuất khẩu, lắp ráp trong nước hoặc nhập
khẩu phải đảm bảo quy chuẩn về khí thải và tiếng ồn. (Tại khoản 41 Luật bảo vệ môi trường
2005).
- Khoản 3 Điều 83 Luật bảo vệ môi trường 2005 cũng quy định: các phương tiện giao
thông, máy móc, thiết bị, công trình xây dựng có phát tán bụi, khí thải phải có bộ phận lọc,
giảm thiểu khí thải đạt quy chuẩn môi trường, có thiết bị che chắn hoặc các biện pháp khác
nhằm giảm thiểu bụi đạt quy chuẩn môi trường.
- Điều 48, 50, 52 Luật giao thông đường bộ quy định về xe máy, ôtô khi tham gia giao
thông phải có còi với âm lượng đạt quy chuẩn, có đủ bộ phận giảm thanh, giảm khói và được
kiểm tra định kỳ về kỹ thuật, quy chuẩn bảo vệ môi trường.
- Tại khoản 1 Điều 41 về điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ và an toàn giao
thông đô thị ban hành kèm theo nghị định số 36/CP ngày 29-05-1995 của chính phủ và chỉ thị
số 24/TTg ngày 23-11-2000 của thủ tướng chính phủ về việc sử dụng xăng không pha chì ở
Việt Nam: các chủ phương tiện có chạy xăng phải sử dụng xăng không pha chì, giảm thiểu
lượng chì thải vào môi trường xung quanh.
Thực trạng: Một vấn đề lớn được đặt ra ở đây là không chỉ có ôtô xả khí thải ra môi
trường mà cả xe máy. Hiện cả nước có đến 16 triệu xe máy (chiếm tới 96% số đầu phương
tiện cơ giới đang lưu hành), trong khi chỉ có khoảng 600.000 ôtô.
Nếu tính bình quân một ôtô có dung tích xilanh là 2,5 lít, và một xe máy là 0,1 lít thì 25
xe máy sẽ tương đương một ôtô. Như vậy 16 triệu xe máy cũng sẽ xả ra một lượng khí thải
bằng khoảng 640.000 ôtô. Chưa kể trong đô thị, xe máy sẽ có thời gian lăn bánh nhiều hơn vì
là phương tiện cơ động của người dân.
Hình ảnh các xe máy cũ nát, xả khói đen sì, mù mịt không phải là cảnh khó gặp tại các
đô thị hiện nay. Trong khi đó, lượng khí thải này chưa hề được kiểm soát và cũng không có lộ
trình loại bỏ xe cũ.
Hơn nữa, lượng xe máy cũng không ngừng tăng trong khi chất lượng thì ngày càng hạ.
Xe máy Trung Quốc với giá chỉ vài triệu đồng, động cơ không đủ độ kín và bền sẽ là nguồn ô
nhiễm tiềm tàng trong thời gian tới.

Đã đến lúc các nhà quản lý cần tìm biện pháp kiểm soát phù hợp để giảm thiểu khí thải
độc hại từ xe máy, bảo vệ môi trường một cách triệt để.(4)
c, Đánh giá :
Việc kiểm soát nguồn gây ô nhiễm không khí có ý nghĩa rất quan trọng trong việc kiểm
soát ô nhiễm không khí, vì nó là biện pháp có tính chất phòng ngừa, tuy nhiên để đạt được
hiệu quả của biện pháp này là 1 vấn đề phức tạp. Việc kiểm tra giám sát nguồn thải vô cùng
khó khăn. Công tác kiểm soát hiện nay mới chỉ thực hiện đuợc trên một số mặt, chưa bám sát
được tình hình thực tế và còn việc kiểm tra giám sát còn nhiều khó khắn do sự thiếu thốn về
Page 9


cơ sở vật chất khoa học kỹ .Về nguồn thải động : tuy đã có những quy định môi trường về vấn
đề giao thông nhưng 70% khí thải ô nhiễm là từ hoạt động giao thông 1. Về nguồn thải tĩnh,
hoạt động kiểm soát nguồn thải tĩnh mới chỉ dừng lại ở việc quy định các tiêu chuẩn, còn về
lượng khí thải thì rất khó kiểm soát, điều đó cũng dẫn đến việc không thể kiểm soát được tổng
lượng khí thải ra môi trường; ở các nước tiên tiến.
4. Hệ thống cơ quan kiểm soát ô nhiễm không khí.
a, Hệ thống các cơ quan kiểm soát ô nhiễm không khí
* Cơ quan có thẩm quyền chung:
- Chính phủ: là cơ quan hành pháp cao nhất. Căn cứ vào Luật tổ chức Chính phủ ngày
30/12/1992 và Điều 121 Luật bảo vệ môi trường 2005, Chính phủ giữ vai trò chỉ đạo trong
toàn bộ hoạt động bảo vệ và kiểm soát ô nhiễm không khí. Bên cạnh đó, Chính phủ còn có
nhiệm vụ thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, thi hành chính sách bảo vệ, cải tạo và tái
sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, thống nhất quản lý về môi trường trong phạm vi cả
nước.
- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: đây là cơ quan hành pháp là cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí ở địa phương ban hành một số văn bản
pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở địa phương, cũng như chỉ đảo thực hiện các văn
bản pháp luật đó, thẩm định báo cáo ĐTM, cấp các giấy phép về môi trường…(khoản 1 Điều
122 Luật bảo vệ môi trường 2005).

* Cơ quan có thẩm quyền chuyên môn.
- Bộ tài nguyên môi trường. Đây là cơ quan của chính phủ, có chức năng quản lý tổng
hợp các loại tài nguyên và môi trường cụ thể: chống tổn thất, hao phí tài nguyên trong quá
trình điều tra, trong quá trình khai thác và sử dụng làm phong phú thêm giữ cho môi trường
sống được trong sạch. Theo khoản 2 Điều 121 Luật bảo vệ môi trường 2005 thì: cơ quan này
có quyền thẩm định, phê duyệt báo cáo ĐMC, báo cáo ĐTM, đăng ký cam kết bảo vệ môi
trường trong phạm vi cả nước. Bên cạnh đó cơ quan này còn có chức năng kiểm tra, thanh tra,
xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp môi trường… Tổng cụ khí thượng thủy văn là một
đơn vị trực thuộc của Bộ tài nguyên và môi trường và giúp bộ này thực hiện chức năng của
mình.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan chực thuộc Chính phủ. Từ khoản 3 đến khoản 11
Điều 121 Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định cụ thể hoạt động của các cơ quan này.
- Sở tài nguyên và môi trường. Đây là cơ quan có nhiệm vụ giúp UBND cấp tỉnh kiểm
soát ô nhiễm không khí tại địa phương trong lĩnh vực chuyên môn như: thanh tra môi trường,
tiếp nhận và giải quyết khiếu lại, tố giác các phạm vi phạm tội, thẩm định báo cáo ĐTM
b, Thực tiễn áp dụng.
**************
5/ Xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm không khí.
1

số liệu Báo cáo môi trường không khí đô thị 2007

Page 10


a. Xử lý các hành vi vi phạm hành chính về kiểm soát ô nhiễm không khí.
Các hành vi vi phạm hành chính được thực hiện rất đa dạng, đối với kiểm soát ô nhiễm
không khí pháp luật mới chỉ ban hành một vài quy định riêng cụ thể là các hành vi về thải khí,
bụi và hành vi vi phạm các quy định về ô nhiễm không khí tại nghị định 121/CP ngày
12/05/2004 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Theo quy

định này bất cứ, tổ chức cá nhân nào có hành vi thải khí bụi quá nồng độ tối đa cho phép đã
được quy định trong quy chuẩn thải khí sẽ phải chịu trách nhiệm hành chính ngay cả khi hành
vi gây chưa gây thiệt hại.
III. NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG TRÊN VÀ CÁC GIẢI PHÁP
KHẮC PHỤC.
1/ Nguyên nhân của tình trạng trên.
Để xảy ra thực trạng trên ta phải kể đến những nguyên nhân cơ bản sau:
- Nguyên nhân phải kể đến đầu tiên là sự thiếu nhận thức của người dân và bản thân
cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không khí.
- Tiếp đến là do hệ thống pháp luật môi trường không khí còn thiếu và yếu. Chưa có
các quy chuẩn cho các vùng, ngành sản xuất nên việc áp dụng cũng như giải quyết các vi
phạm rất khó khăn và có phần chưa thỏa đáng.
- Hiện nay hệ thống quan trắc và cập nhật thông tin, số liệu ô nhiễm không khí còn
chậm chạp.
- Công nghệ và kỹ thuật sản xuất và xử lý chất thải còn quá lạc hậu so với sự phát
triển của nền kinh tế.
- Quá trình tiến hành hoạt động kiểm soát ô nhiễm không khí còn mang tính hình
thức, chưa dứt khoát và nhất là thiếu sự đồng bộ.
2/ Giải pháp khắc phục tình trạng trên.
* Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống chính sách, luật pháp bảo vệ môi trường không khí.
Tăng cường pháp chế về bảo vệ môi trường không khí bao gồm nội dung hoàn thiện hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí theo hướng quy định
rõ quyền lợi, trách nhiệm bảo vệ môi trường không khí của các tổ chức, cá nhân, các chế tài
cụ thể cho trường hợp vi phạm; xây dựng các quy định về bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực
môi trường không khí; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, lực lượng thanh tra, kiểm tra, triển
khai và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm nhằm bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh luật
pháp. Các đề xuất cụ thể:
- Nghiên cứu, xây dựng cơ chế thực sự lồng ghép các yêu cầu bảo vệ môi trường không
khí vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương, đặc biệt là
các quy hoạch phát triển đô thị và khu công nghiệp.

- Tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi nhằm khuyến khích đa dạng hoá các nguồn đầu
tư cho bảo vệ môi trường không khí.
- Đẩy mạnh áp dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường không khí.
Page 11


* Kiện toàn hệ thống quản lý về môi trường không khí.
Hình thành và phát triển hệ thống quản lý bảo vệ môi trường không khí từ cấp trung
ương đến địa phương theo hướng thành lập bộ phận quản lý môi trường không khí trong hệ
thống các cơ quan quản lý môi trường. Cụ thể là:
- Ở cấp Trung ương: trong Cục BVMT, hình thành một đơn vị riêng về bảo vệ môi
trường không khí.
- Ở cấp tỉnh/thành phố: hình thành một bộ phận chuyên về BVMT không khí, đặc biệt
tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị loại 1.
- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và các địa phương trong bảo vệ môi
trường không khí.
- Tăng cường cả về số lượng và chất lượng cán bộ chuyên trách về quản lý môi trường
nói chung và cán bộ chuyên trách về quản lý chất lượng không khí nói riêng ở cả các cấp từ
Trung ương đến địa phương sao cho phù hợp với điều kiện của từng khu vực.
* Tăng cường các biện pháp về bảo vệ môi trường không khí
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về nguồn phát thải vào môi trường
không khí. Tăng cường đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và kinh phí phục vụ các hoạt động
thanh tra, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
- Hoàn thiện và bổ sung các tiêu chuẩn về môi trường không khí.
- Nâng cao công tác tuyên truyền cũng như cung cấp thông tin chất lượng môi trường
không khí cho cộng đồng.
- Triển khai Quyết định 16/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 1 năm 2007 của Thủ tướng
Chính phủ về Quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc Tài nguyên và Môi trường, trong đó có
xây dựng mạng lưới quan trắc môi trường không khí.
- Thiết lập cơ sở dữ liệu về chất lượng môi trường không khí tại các thành phố và các

đô thị, nhằm chia sẻ và trao đổi thông tin giữa các thành phố, đô thị và phục vụ nghiên cứu,
theo dõi, đánh giá, dự báo về tình hình chất lượng môi trường không khí và hỗ trợ xây dựng
các giải pháp khả thi để bảo vệ môi trường không khí.
* Tăng cường áp dụng các công cụ kinh tế.
Đẩy mạnh xây dựng và ban hành áp dụng Phí BVMT đối với khí thải - một công cụ
kinh tế buộc các đối tượng gây ô nhiễm phải giảm thiểu các nguồn thải ra môi trường.
Bộ TN&MT đang phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức xây dựng Nghị định của Chính
phủ về Phí BVMT đối với khí thải như một công cụ kinh tế buộc các đối tượng gây ô nhiễm
phải giảm thiểu các nguồn thải ra môi trường. Mục tiêu của phí BVMT nói chung và phí
BVMT đối với khí thải nói riêng là thay đổi hành vi xả thải theo hướng giảm thiểu các tác
động xấu lên môi trường. Nghị định được tiếp cận theo hướng khuyến khích tổ chức, cá nhân
sử dụng nhiên liệu sạch, công nghệ, thiết bị tiên tiến và lắp đặt các thiết bị lọc, xử lý khí thải.
* Tăng cường hoạt động giáo dục - đào tạo và nghiên cứu về môi trường không khí:
Page 12


- Tiếp tục mở rộng số lượng chỉ tiêu đào tạo của các chuyên ngành môi trường ở tất cả
các trình độ đào tạo; trong đó mở rộng đào tạo các chuyên ngành liên quan đến môi trường
không khí.
- Tăng cường tổ chức và hỗ trợ gắn kết đào tạo với các hoạt động nghiên cứu khoa học
và công nghệ trong lĩnh vực môi trường không khí.
- Tăng cường các hoạt động nghiên cứu về môi trường không khí ở Việt Nam và các
ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến con người. (5)

LỜI KẾT
Như vậy chúng ta đã có một cái nhìn tổng quan hơn về hoạt động kiểm soát ô nhiễm
không khí ở Việt Nam. Quả thật hiện nay vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Nhưng với những gì
đã đạt được chúng ta vẫn có quyền tin rằng trong tương lai không xa hệ thống pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm không khí sẽ trở nên hoàn thiện hơn, đáp ứng một cách hiệu quả những đòi
hỏi của thực tế.

Để bảo vệ môi trường không khí nói riêng và môi trường nói chung cần phải có sự phối
kết hợp đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đồng thời phải đề ra những giải pháp khắc
phục thiết thực hơn nữa nhằm ngăn chặn tình trạng ô nhiễm không khí trong giai đoạn hiện
nay.
Trong bài tập này, do những nhận thức còn hạn chế cùng với việc tiếp cận thông tin còn
gặp nhiều khăn, nên phần thực hiện còn nhiều thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự
thông cảm của các thầy, cô giáo bộ môn Luật Môi trường. Chúng em xin chân thành cảm ơn.

Page 13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
I- Tài liệu trích dẫn.
(1). Báo cáo môi trường không khí đô thị 2007.
(2). Báo cáo môi trường không khí 2005.
(3). Báo cáo môi trường quốc gia năm 2007.
(4). Báo cáo môi trường không khí đô thị 2007.
(5). Trang web: thuvienkhoahoc.com
II- Tài liệu tham khảo.
1.

Page 14


cụ thể: TCVN 5937:2005 - Chất lượng không khí - Tiêu chuẩn chất lượng không khí
xung quanh; TCVN 5938:2005 - Chất lượng không khí - Nồng độ tối đa cho phép của một số
chất độc hại trong không khí xung quanh; TCVN 5939:2005 - Chất lượng không khí - Tiêu
chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ; TCVN 5940:2005 - Chất lượng
không khí - Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với một số chất hữu cơ và TCVN 5945:2005


MỤC LỤC

Page 15


BIÊN BẢN LÀM VIỆC NHÓM
Page 16


Page 17



×