Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Một số quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.74 KB, 51 trang )

Lời nói đầu
Theo quan điểm của người Babilon, người Ai Cập, Ấn Độ và Ba Tư
cổ đại thì nước là “nguồn gốc của mọi nguồn gốc”, là cội nguồn của tất cả
những gì tồn tại.
Nhà triết học cổ Hi Lạp Arixtot coi nước như một bộ phận của thiên
nhiên - học thuyết về 4 yếu tố: lửa, không khí, nước và đất.
Từ xưa đến nay chúng ta đều nhận thức được tầm quan trọng
của nước đối với sự sống như thế nào, không có nước thì sự sống trên trái
đất này cũng sẽ không tồn tại. Nhưng hiện nay môi trường nước ở Việt Nam
nói riêng và trên thế giới nói chung đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, từ đó sự
sống của con người cũng bị đe dọa, rất nhiều bệnh tật phát sinh như ung thư,
bệnh da liễu…, rất nhiều động vật sống dưới nước bị chết hàng loạt…Nước
quan trọng như thế nào? Ô nhiễm nguồn nước ra sao? Vậy chúng ta cần có
những giải pháp gì để khắc phục tình trạng đó?
Với sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Thủy, nhóm chúng
tôi nghiên cứu về đề tài “Một số quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô
nhiễm môi trường nước” để cùng các bạn tìm ra câu trả lời xác đáng nhất
cho những vấn đề chúng ta và cả xã hội đang quan tâm.
Nội dung đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Tổng quan về tài nguyên nước
Chương II : Quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi
trường nước ở Việt Nam hiện nay
Chương III : Hiện trạng thực thi pháp luật.Một số kiến nghị
1
Nội dung
Chương I: Tổng quan về tài nguyên nước
Theo điều 3.1 của Luật bảo vệ môi trường: “Môi trường bao gồm các
yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến
đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật”.
Nước là một thành phần của môi trường gắn liền với sự tồn tại
và phát triển vủa con người cũng như sự sống trên hành tinh.


Nước đươc coi là loại khoáng sản đặc biệt vì nó tàng trữ một
năng lượng lớn, hòa tan nhiều vật chất …phục vụ cho nhu cầu nhiều mặt của
con người.
Các nền văn minh lớn của nhân loại cũng sớm nảy nở trên các
con sông lớn như văn minh Ai Cập ở hạ lưu sông Nil, văn minh sông Hằng ở
Ấn Độ, sông Hồng ở Việt Nam, sông Hoàng Hà ở Trung Quốc.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, nước giữ vai trò
cực kì quan trọng, không những cần cho sự sống của mọi sinh vật mà còn là
nhân tố quyết định sự phát triển nền văn minh của xã hội loài người. Đối với
từng vùng hoặc quốc gia riêng biệt thì nước còn là một trong những yếu tố
chủ yếu quyết định sự phân bổ của lực lượng sản xuất. Do nước có tầm quan
trọng như vậy nên các quốc gia đều coi bảo vệ và sử dụng hợp lí nguồn tài
nguyên nước là một quốc sách.
* Vai trò của nước đối với thiên nhiên và con người:
2
Trái đất của chúng ta có 2/3 bề mặt là đại dương, 17% là nước mặn,
3% là nước ngọt (trong đó 77% đã bị đóng băng) .
Nước là chiếc nôi của sự sống, không có nước thì sẽ không có
sự sống. Nước tham gia vào vòng vật chất của tự nhiên, tham gia vào các
phản ứng hóa học, các quá trình biến đổi vật chất. Nước là nguồn vật chất
cần thiết cho con người. Tham gia vào các cấu trúc tế bào, phản ứng sinh
hóa, điều hòa thân nhiệt, hòa tan các chất hữu cơ. Nhu cầu của sinh vật là
khoảng 10 tấn nước/ 1 tế bào sống. Nước đóng vai trò quan trọng trong các
ngành sản xuất và các hoạt động phát triển của con người. Nước tạo thành
mạng lưới giao thông, thủy lợi và nguồn điện năng phục vụ đời sống của con
người.

Nước là một nhu cầu cần thiết cho sự sống trên trái đất, đặc biệt là sự
sống của loài người. Song lượng nước trên trái đất đang tồn tại ở dạng phục
vụ cho cuộc sống con người chiếm tỉ lệ rất ít nên việc sử dụng hợp lí nguồn

nước, phân phối và giữ cho nguồn nước được trong sạch đang trở thành một
thách thức cho cả nhân loại.
1.Tài nguyên nước trên thế giới:
Theo tính toán thì khối lượng nước ở trạng thái tự do phủ lên trái đất
là trên 1,4 tỉ km3, nước rất phong phú, phân bố trong các môi trường khác
nhau như đại dương, biển, ao , hồ, sông , suối, các núi tuyết ở Bắc cực và
Nam cực.
Nước đại dương : 1 tỷ 300 triệu km3.
Nước lục địa (sông ngòi, ao, hồ): 83,320 km3.
Nước trong đất : 7500 km3.
3
Nước băng hà : 24 km3.
Nước trong khí quyển : 14 km3.
Hơi nước trong khí quyển cứ 9 ngày thì thay đổi hoàn toàn. Hàng năm
lượng mưa rơi xuống 105.000 km3 thì có 2/3 quay lại khí quyển. Song
nguồn tài nguyên nước phân bổ không đồng đều trong không gian và thời
gian. Nước thưa ở vùng nhiệt đới, khô hạn ở vùng Trung Á, Bắc Phi, Tây
Nam nước Mĩ.
Khả năng sử dụng nuớc của loài người đã đạt tới 9000km3/năm.
Nhìn chung thì thiên nhiên cung cấp đủ nước cho 10 tỷ người. Song nước
bây giờ bị thiếu do sử dụng lãng phí, thất thoát nước, do bốc hơi nước và bị
ô nhiễm. Từng quốc gia trên thế giới sử dụng nước không đồng đều.
2. Tài nguyên nước ở Việt Nam:
Nét riêng về khí hậu của Việt Nam là vùng nhiệt đới ẩm, lượng mưa
trung bình hàng năm khoảng 2000mm, nhưng lựợng mưa lại phân bố không
đều, 85% lượng mưa tập trung về mùa mưa.
Hệ thống sông ngòi nước ta khá dày đặc, phân bố tương đối đồng đều
trên lãnh thổ. Trung bình cứ 20km dọc theo bờ biển thì có 1 con sông.
Nước ta có bờ biển dài hơn 3260km, trong đó chứa nhiều tài nguyên
khoáng sản như mỏ dầu, khí đốt, nhiều động thực vật, hải sản quý.

So với nhiều nước trên thế giới thì Việt Nam có tài nguyên nước khá
dồi dào, lượng nước trung bình đầu người là 17.000m3/năm. Hệ số khai thác
đạt 3% tổng lượng nước tự nhiên.
Theo Luật tài nguyên nước 2005 của nước CHXHCHVN: “Nước là
tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống và môi
trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước; mặt khác
nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường;
4
Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi cá nhân trong việc bảo
vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc phục hậu quả
tác hại do nước gây ra “;
Tài nguyên nước là thuộc sở hữu toàn dân và thuộc sự quản lý thống
nhất của Nhà nước. Tổ chức, cá nhân được quyền khai thác, sử dụng tài
nguyên nước cho đời sống và sản xuất, Nhà nước bảo hộ quyền lợi hợp pháp
của tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Quản lý tài nguyên nước: Nhà nước có chính sách quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên nước, Chính
phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước và mọi hoạt động bảo
vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi cá nhân có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước.
Bảo vệ tài nguyên nước chính là bảo vệ sự sống còn của loài người
cũng như sự sống của trái đất. Vậy nên bảo vệ tài nguyên nước là một nội
dung không thể thiếu của pháp luật môi trường.
Tính tất yếu phải bảo vệ tài nguyên nước: Nước có vai trò vô cùng
quan trọng trong đời sống con người, nước dùng cho nhu cầu ăn uống, vệ
sinh, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ…không có nước thì không
có sự sống của con người cũng như sư sống trên trái đất.

Tùy theo tính chất, đặc điểm cũng như yêu cầu quản lí, sử dụng tài
nguyên nước vào những mục đích khác nhau, pháp luật phân chia nước nói
chung thành các loại cụ thể:
5
• Nước mặt (là nước tồn tại trên bề mặt đất liền hoặc hải đảo)
• Nước dưới đất (là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới mặt đất)
• Nước sinh hoạt (nước dùng cho ăn uống ).
• Nước sinh hoạt (là nguồn nước có thể cung cấp nước sinh họat hoặc
mới có thể xử lí thành nước sạch một cách kinh tế ).
• Nước quốc tế (là nguồn nước từ lãnh thổ Việt Nam chảy sang lãnh thổ
các nước khác, từ lãnh thổ các nước khác chảy sang lãnh thổ Việt
Nam hoặc nằm trên biên giới giữa Việt Nam và nước láng giềng)…
3. Ô nhiễm nước:
Theo điều 3.6 Luật tài nguyên nước năm 2005: ”Ô nhiễm môi
trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu
chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật“.
“Ô nhiễm nguồn nước” là sự thay đổi tính chất vật lý, tính chất hoá
học, thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
Trong quá trình sử dụng nước sạch vào mục đích khác nhau của đời
sống, con người đã thải ra môi trường xung quanh 1 lượng nước bị ô nhiễm.
Nước bẩn thải từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp đô thị đã đưa vào
nguồn nước sạch 1 khối lượng khá lớn chất bẩn và làm thay đổi những đặc
tính cơ bản của nước tự nhiên làm cho nước bị ô nhiễm.
Hàng năm nền công nghiệp Hoa Kì đã dùng 400 ngàn kg thủy ngân để
chế tạo thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ dại nhằm sử dụng cho nhu cầu công
nghiệp, và độc tố thì thải ra vùng nước mặt.
Ở Ấn Độ khoảng 70% nước mặt đang bị nhiễm bẩn.
Ở Trung Quốc thì 70 con sông đang bị ô nhiễm nặng. Ô nhiễm đại
dương cũng đã trở thành một thực tế rất đáng lo ngại.
6

Những con sông nổi tiếng như sông Ranh đang biến thành “đường
cống công cộng “ khổng lồ của Châu Âu , sông Hoàng Hà ( Trung Quốc ) đã
bị chuyển màu và bị sủi bọt…Sông Mê Kông trở thành nơi giấu rác của
Châu Á.
Biển cũng có nước đã đổi màu và tương lai có thể sẽ đổi dòng. Biển
chiếm 65% bề mặt trái đất, không còn là lá phổi của trái đất mà đã trở thành
hố rác của loài người.
Ngày nay vấn đề cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nước
còn đang là vấn đề khó khăn và gay gắt đối với toàn thể loài người..
7
Chương II:Quy chế pháp lý về hoạt động kiểm soát ô nhiễm môi trường
nước ở Việt Nam hiện nay
I. Thực trạng ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay vấn đề thiếu nước ở một số nơi đang trở thành vấn đề cấp
bách, nguồn nước ở hầu hết các nơi có sự xuất hiện của con người đều đã và
đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Các nhà bác học nói rằng nước trên hành tinh
này là rất nhiều nhưng cũng là rất ít. Rất nhiều bởi vì nào biển cả, sông hồ,
băng tuyết, mưa rơi… Nhưng rất ít vì nhu cầu ngày nay của loài người đã
ngang bằng với những nguồn nước ngọt có khả năng tái sinh. Trong quá
trình sản xuất và sinh hoạt chúng ta đã làm nhiễm bẩn quá nhiều.
Theo WHO, hằng ngày có một lượng lớn nước cống chưa được xử lý
đổ vào các sông, hồ, đại dương trên khắp thế giới. Theo báo cáo tổng hợp về
sức khoẻ trẻ em và môi trường (Atlas of children’s health and the
environment) của WHO, mỗi gram nước cống chứa khoảng 10 triệu vi trùng,
1 triệu vi khuẩn, 1000 nang kí sinh trùng và 100 trứng sán các loại. Riêng ở
sông Hằng, Ấn Độ, cứ mỗi phút dòng sông này “tiếp nhận” đến 1 triệu lít
nước như thế. WHO cũng cho biết rằng trước tình hình ô nhiễm ngày càng
nghiêm trọng như thế việc rửa tay trước và sau khi ăn sẽ cứu sống khoảng 1
triệu người mỗi năm.
Như vậy ô nhiễm môi trường nước cùng với những tác nhân độc hại

khác trong môi trường sống đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ con
người trên toàn thế giới.
8
Ở Việt Nam hiện nay thực trạng ô nhiễm môi trường nước cũng đang
ở mức báo động. Cùng với tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh
và sự gia tăng dân số đã gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên
nước trong vùng lãnh thổ.
1.Ô nhiễm nước sinh hoạt:
Tài nguyên nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của
chúng ta nhưng trữ lượng nước là có hạn. Để đảm bảo nhu cầu hàng ngày,
con người đã khai thác triệt để nguồn nước từ nước ở sông hồ ao suối đến
nguồn nước ngầm, nước mưa. Nhưng chúng ta lại không có sự quản lý và sử
dụng hợp lý làm cho nguồn nước vừa sụt giảm về trữ lượng vừa bị ô nhiễm
nghiêm trọng.
Theo báo cáo của ngành cấp thoát nước thành phố Hồ Chí Minh năm
2007 thì khối lượng nước sạch được cung cấp 1 ngày là 1.160.000 m3/ngày.
Ở những nơi được cung cấp nước sạch thì tình trạng lãng phí nước vẫn xảy
ra rất nhiều trong khi đó nhiều vùng lại chưa có nước sạch mà việc cấp nước
cho sinh hoạt chủ yếu lấy từ việc khai thác nước ngầm như từ các giếng
khoan, giếng đào, ... hoặc từ các bể chứa nước mưa. Song việc khai thác này
không có quy hoạch hợp lý và hầu hết không qua xử lý ô nhiễm dẫn tới việc
cạn kiệt nguồn nước ngầm, gây sụt, lún đất và việc sử dụng nguồn nước
không đảm bảo vệ sinh. Tình trạng cạn kiệt nguồn nước diễn ra ở hầu hết
các thành phố lớn có nhu cầu khai thác sử dụng rất cao.
Ở nông thôn, tình trang ô nhiễm môi trường nước cũng rất đáng báo
động. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, hàng năm các dịch bệnh
này giảm tới 35% tiềm năng sức lao động và tiêu tốn một khoản không nhỏ
cho chi phí phòng chống dịch. Có nơi người ta vừa sử dụng nước ao, hồ để
ăn vừa để giặt giũ gây mất vệ sinh là nguyên nhân của rất nhiều căn bệnh về
9

da và đường tiêu hoá. Ví du như: Ở xã Hoàng Tây, huyện Kim Bảng, tỉnh
Hà Nam ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt là
nguyên nhân làm cho tỉ lệ người chết do bệnh ung thư tăng từ 28,5% năm
2003 lên 37% năm 2006, bệnh viêm da dị ứng tăng tương ứng từ 28% lên
41%.
Tình trạng trên đặc biệt xảy ra ở các vùng nông thôn nơi cơ sở hạ tầng
còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không qua xử lý
mà thải thẳng vào hệ thống thoát nước hoặc sông ngòi. Hệ thống cống rãnh
đều thiết kế nổi có nơi con không có nắp cống. Ở những nơi đó, người dân
còn nghèo nên không có điều kiện để xây dựng bể biogas và công trình vệ
sinh đảm bảo tiêu chuẩn.
Có nơi là do sự hiểu biết không đầy đủ của người dân về tác hại của ô
nhiễm môi trường. Ví dụ như ở xã Hoàng Tây, tỉnh Hà Nam mặc dù chính
quyền xã đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xây dựng trạm cung cấp nước
sạch, thành lập các đội thu gom rác thải, chất thải và hỗ trợ người dân xây
dựng bể biogas để giảm chất thải chăn nuôi nhưng đến nay chỉ co vỏn vẹn
30 chiếc bể còn 2 trạm cung cấp nước sạch với kinh phí 1,5 tỉ đồng từ
chương trình quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường hứa hẹn mang đến
nguồn nước cũng chỉ hoạt động 3 tháng rồi nằm đắp chiếu. Nguyên nhân
trên làm cho tinh trạng ô nhiễm moi trường nước về mặt hữu cơ ngày càng
cao. Theo báo cáo của Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn số vi khuẩn
Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500- 3.500MNP/ 100ml ở các vùng
ven sông Tiền và sông Hậu tăng lên tới 3.800-12.500MNP/100ml ở các kênh
tưới tiêu.
Ngay cả ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì
tình trạng ô nhiễm môi trường nước do nước thải sinh hoạt cũng rất trầm
10
trọng. Hầu hết nguồn nước thải không có hệ thống xử lý tập trung mà xả trực
tiếp ra nguồn tiếp nhận như sông, hồ, kênh mương. Moi trường nước là nơi
tiếp nhận chất thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số

chất lơ lửng SS, BOD, COD, oxy bão hoà đều vượt 5-10 lần, thậm chí 20 lần
TCCP. Theo thống kê của sở KHCN&MT Cần Thơ, trung bình mỗi ngày
một người dân đô thị Cần Thơ thải ra hơn 0,89 Kg rác. Lượng rác thu gom
đổ vào bãi rác chỉ khoảng 60%, số còn lại người dân đổ ra sông, ao, hồ, cống
rãnh, kênh, rạch gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Lượng rác thải này
cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ô nhiễm biển hiện nay. Theo thống
kê thì có hơn ¾ số chất ô nhiễm là từ đất liền theo sông chảy ra biển hoặc
trực tiếp xả ra biển hoặc từ khí quyển. Hơn 90% toàn bộ rác thải, hoá chất và
các loại vật liệu đều đọng lại trên bờ biển, ở vùng ngập nước, trong vùng san
hô và các hệ sinh thái bờ biển.
Việc ô nhiễm nước mặt còn kéo theo sự ô nhiễm nước ngầm.
Theo số liệu điều tra của Liên đoàn địa chất thuỷ văn miền Bắc cho
thấy hàm lượng sắt, mangan, kẽm trong nước ngầm ở khắp mọi nơi ở Hà
Nội đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép, đặc biệt là Mangan. Trung tâm nước
sạch và vệ sinh môi trường (bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) cũng
đã phối hợp điều tra nhiễm bẩn asen ở vùng Hà Nội, Việt Trì và đã ghi nhận
rằng các mẫu nước giếng ở Quỳnh Lôi, Thanh Nhàn (Hà Nội) chứa hàm
lượng asen cao hơn tiêu chuẩn cho phép 25%. Tình trạng trên không chỉ xảy
ra ở Hà Nội mà là thực trạng phổ biến trên thế giới hiện nay. Nó không còn
là vấn đề xa xôi nữa mà đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống của mỗi
chúng ta: mỗi ngày tình trạng ô nhiễm nước đã gây ra xấp xỉ 14000 cái chết
cho dân cư trên thế giới, mà nguyên nhân chủ yếu là do ăn nước bẩn chưa
11
qua xử lý. Rất nhiều những căn bệnh phát sinh do sử dụng nguồn nước bị ô
nhiễm như ung thư, dị ứng da, ngộ độc, các bệnh về tiêu hoá, về mắt, …
Còn đối với hệ sinh thái việc ô nhiễm nước từ chất thải sinh hoạt sẽ
gây ra tác hại rất lớn làm cho chu kỳ phát triển của tảo tăng nhanh do lượng
muối khoáng và hàm lượng các chất hữu cơ quá dư thừa làm cho nước bị
mất oxy, các khí CO2, CH4, H2S tăng lên, tăng độ đục của nước, do đó hệ
sinh thái bị đổ vỡ như đã xảy ra ở biển Ban tích và ở một số sông hồ nước ta

như hồ Ba Mẫu. Qua nghiên cứu các nhà khoa học cũng đã khẳng định rằng
chính các chất thải do con người gây ra là nguyên nhân gây ra những biến
đổi lưu lượng mưa trogn thế kỷ 20. Có thể nói, tại những vùng ôn đới ở Bắc
bán cầu trong đó có Châu Âu, Mỹ và Canada, hoạt động sống của con người
đã làm cho lượng mưa trên trái đất tăng nhanh từ 50% lên tới 85%. Còn
ngược lai ở những vùng nhiệt đới và bán nhiệt đới ở phía Bắc thì lượng mưa
lại giảm từ 20% tới 40%. Điều này khiến hiện tượng hạn hán ở Mexico và sa
mạc Sahara trở nên trầm trọng hơn.
Ngoài những ảnh hưởng do hoạt động của con người còn có những
ảnh hưởng mang tính tự nhiên gây ô nhiễm, suy thoái nước như hiện tượng
động đất, núi lửa phun, lũ lụt, sóng thần, hạn hán … Do đó, bảo vệ, phát
triển nguồn nước cần phải xem xét các nguyên nhân khách quan cũng như
chủ quan gây ô nhiễm môi trường nước để có giải pháp thích hợp.
Qua đây chúng ta có thể thấy rõ ô nhiễm môi trường nước đã và đang
gây ra những hậu quả hết sức nặng nề. Nghiêm trọng và cấp bách là vậy
nhưng hàng năm ngân sách nhà nước ta chi cho vấn đề bảo vệ môi trường
chỉ là 0,1%GDP, thua xa so với các nước khác.
12
2. Ô nhiễm môi trường nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh:
Hoạt động sản xuất kinh doanh có đặc thù là sử dụng nguồn nước tập
trung với một lưu lượng lớn. Điều đó dễ gây tình trạng khai thác quá mức
dẫn tới suy thoái, cạn kiệt nguồn nước ở những khu vực nhất định (nhất là
cạn kiệt mạch nước ngầm) biểu hiện cụ thể trong các mặt sau:
a. Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp :
Ở nước ta nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế, nhu
cầu sử dụng nước cho sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn nhất trong các
nhu cầu sử dụng nước. Nhu cầu tưới tiêu năm 2000 là 76,6 % m
2
, chiếm 84
% tổng nhu cầu sử dụng nước toàn quốc và sẽ còn tiếp tục gia tăng khi mục

tiêu đảm bảo nước tưới cho nông nghiệp đến năm 2010 là 12 triệu ha tương
ứng với lượng nước sử dụng khoảng 88,8%.
Phải nói rằng sự phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, đã tạo nên sự chuyển đổi mạnh mẽ cả về cơ cấu kinh tế cũng như
quá trình đô thị hóa khu vực nông thôn, cũng đặt những thách thức mới
trong việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước .
Có một thực tế là một số vùng nông thôn mới đã hình thành ngay ở
những vùng rừng nguyên sinh, vùng đồi núi, vùng đầm lầy, vùng đất cát ven
biển và hải đảo, … đã làm mất dần rừng phòng hộ đầu nguồn gây ô nhiễm
nguồn nước và gây những tác động xấu cho môi trường nước như lũ lụt, hạn
hán.
Ngành chăn nuôi tập trung theo quy mô công nghiệp, kể cả chăn nuôi
gia súc và thủy hải sản cũng dẫn tới tình trạng tương tự thậm chí còn nguy
hại hơn khi dư lượng thuốc kích thích tăng trưởng, bảo quản thức ăn …
được hòa tan và xả vào nguồn nước.
13
Việc lạm dụng phân bón (kể cả phân hữu cơ và phân hóa học) thuốc
kích thích tăng trưởng, thuốc trừ sâu, diệt cỏ trong nông nghiệp; việc chế
biến nông, lâm, thủy, hải sản tập trung cũng xả vào nguồn nước một lượng
không nhỏ hóa chất độc hại làm suy giảm chất lượng nguồn nước kể cả nước
mặn và nước ngầm.
Việc khai thác nước dưới đất phục vụ sinh hoạt, chăn nuôi, trồng trọt
một cách bừa bãi, không theo quy hoạch, thiếu quản lý chặt chẽ đã dẫn tới
việc hạ thấp mức nước ngầm thậm chí làm suy giảm cả về số lượng và chất
lượng nguồn nước ngầm tới mức khó hồi phục xảy ra ở một số địa phương.
Việc khoan giếng lấy nước ngầm không đúng quy trình kỹ thuật,
không chèn lấp khi sử dụng là nguyên nhân dẫn tới hiện tượng ô nhiễm
xuyên tầng, làm giảm chất lượng các nguồn nước ngầm rất có giá trị ở tầng
sâu. Khai thác nước ngầm với quy mô lớn gây nên sự sụt lún đất, làm hư
hỏng các công trình xây dựng và ở một số địa phương, có thể làm trầm trọng

thêm mức độ ngập lụt. Đây là vấn đề phải được quan tâm đúng mức, đặc
biệt là với các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long nơi có địa hình tương đối
bằng phẳng và có cao trình mặt đất thấp.
Thực tế còn cho thấy: Có một số điạ phương do không tính toán đến
khả năng nguồn nước tự nhiên mà vẫn chuyển đổi cơ cấu cây trồng với quy
mô lớn dẫn tới tình trạng thiếu nước, cây trồng chết hoặc không mang lại
hiệu quả kinh tế như mong muốn là những bài học không nhỏ.
Ví dụ: Ở thành phố Hà Nội, hàng năm 5 huyện ngoại thành sử dụng
trung bình 30.000 tấn phân tươi để bón rau đã làm mất vệ sinh và gây ô
nhiễm nước mặt và nước ngầm tầng trên ở các khu vực ngoại thành. Ngoài
ra, hiện tượng lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) ở những vùng
chuyên canh cây trồng gây hậu quả nghiêm trọng: Phá vỡ sự cân bằng môi
14
trường và hệ sinh thái, tồn đọng một lượng lớn dư lượng thuốc BVTV trong
đất, gây ảnh hưởng lâu dài và khó khắc phục. Một số làng nghề truyền thống
như gốm Bát Tràng, bún Phú Đô, chế biến phế thải tại Triều Khúc ... đang
thách thức ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Các hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản tràn lan không những
làm cạn kiệt nguồn thủy sản mà còn làm ô nhiễm vùng biển, đặc biệt là các
hoạt động nuôi tôm gây ra những hiệu quả tiêu cực:
Cạn kiệt nguồn nước ngọt và nước ngầm
Sự khác biệt lớn giữa nuôi tôm trên cát và nuôi tôm thông thường là ở
chỗ nuôi tôm trên cát cần rất nhiều nước, cả nước biển lẫn nước ngọt. Các
khu vực nuôi tôm trên cát đều nằm sát biển, có thể bơm trực tiếp từ biển vào.
Tuy nhiên vấn đề khó khăn nhất lại là nguồn nước ngọt. Các khu vực nuôi
tôm trên cát thường xây dựng ở các bãi ngang ven biển, nơi mà nguồn nước
ngọt rất hạn chế so với các nơi khác. Nhiều nơi nước ngọt thậm chí còn
không đủ cung cấp cho sản xuất nông nghiệp. Mặt khác mùa vụ nuôi chính
lại rơi vào mùa khô - thời điểm khan hiếm nước ngọt trong năm. Nếu việc
khai thác nước ngầm phục vụ hoạt động nuôi tôm trên cát vượt quá giới hạn

cho phép có thể dẫn tới sụt lở địa tầng, cạn kiệt nguồn nước ngầm ngọt, ảnh
hưởng trực tiếp đến nguồn nước sinh hoạt của nhân dân và cho sản xuất
nông nghiệp tại các khu vực lân cận.
Ô nhiễm biển và nước ngầm do chất thải từ nuôi trồng.
Vấn đề chất thải từ nuôi tôm, dù bất kỳ ở đâu, đều là một vấn đề lớn
cần quan tâm.
Trong các mô hình nuôi tôm trên cát hiện nay, việc xả nước thải chưa
qua xử lý còn tương đối tuỳ tiện, đa số được thải trực tiếp ra biển. Nếu ở quy
15
mô nhỏ thì trong một vài năm đầu có thể chưa gây ra ảnh hưởng đáng kể.
Nhưng nếu diện tích nuôi lớn và việc phát thải diễn ra trong thời gian dài thì
nó có thể gây ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ, gây phù dưỡng, ảnh
hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của nguồn lợi hải sản tự nhiên.
Ngoài việc xả nước thải ra biển, nhiều hộ nuôi còn thải trực tiếp nước
thải và bùn ao ngay trên khu vực đất cát cạnh bờ đầm nuôi, gây ô nhiễm và
mặn hoá nguồn nước ngầm ngọt. Dịch bệnh có thể lây lan qua các đầm nuôi
khác do sử dụng nước ngầm đã bị ảnh hưởng bởi nước thải xuống từ các
đầm nuôi bị nhiễm bệnh, đem mầm bệnh từ đầm này qua đầm khác tạo cơ
hội bùng phát dịch bệnh tràn lan, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất.
Mặn hoá đất và nước ngầm
Vùng cát thuộc loại cố kết địa tầng yếu, nên việc lạm dụng quá mức
nước ngầm ngọt cho nuôi tôm trên cát như hiện nay sẽ dẫn đến tình trạng sụt
lún địa tầng khu vực, nước ngầm bị cạn kiệt gây mất cân bằng áp lực tạo
điều kiện cho nước mặn xâm nhập từ biển vào, gây mặn hoá nước ngầm
ngọt. Thiếu nước ngầm, độ ẩm của đất giảm, nước bị nhiễm mặn sẽ ảnh
hưởng trực tiếp tới việc phát triển cây nông nghiệp ở khu vực lân cận.
Mặt khác đất cát dễ thẩm thấu, nếu nuôi tôm ở quy mô lớn, việc thất
thoát, thẩm thấu nước trong quá trình bơm nước từ biển vào, thải nước ra
cũng như trong quá trình nuôi sẽ làm một lượng lớn nước mặn ngấm vào
trong lòng đất, gây mặn hoá đất và nguồn nước ngầm ngọt, thậm chí ở tầng

sâu hơn
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho
nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751.999 ha. Do nuôi trồng
thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã
gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng
16
nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì
các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị
ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và
xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở
một số vùng ven biển Việt Nam.
b. Trong hoạt động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
Hoạt động sản xuất công nghiệp thải ra một lượng lớn nước thải công
nghiệp (thường chứa các chất gây ô nhiễm môi trường với mức độ đáng kể)
và các chất thải khác. Lượng nước thải các chất này thường chưa qua xử lý
hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn, được thải trực tiếp vào các nguồn nước mặt,
hoặc ngấm qua đất tới các mạch nước ngầm. Đây chính là nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm hiện nay ở Việt Nam.
Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay ở Việt Nam có khoảng trên 100
khu, cụm công nghiệp đã và đang được xây dựng nhưng rất ít khu công
nghiệp có hệ thống xử lý nước thải công nghiệp đạt tiêu chuẩn. Hàng triệu
m3 nước thải công nghiệp xả ra môi trường mỗi ngày làm cho nguồn nước
ngày càng bị ô nhiễm trầm trọng hơn. Như khu công nghiệp gang thép Thái
Nguyên, nước thải đã biến nước sông Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt
hàng chục cây số, giấy Phú Thọ đang ngày đêm đe dọa tính mạng của hàng
trăm người dân sống ở khu vực gần nhà máy. Hàng loạt ngôi làng “ung thư“
đã xuất hiện trong thời gian gần đây là hệ quả của những nhà máy xả nước
thải ra môi trường chưa qua xử lý. Thực tế đã chứng minh, tăng trưởng kinh
tế tỷ lệ thuận với việc ô nhiễm nguồn nước,… Song hành với những bước
chuyển về kinh tế, cái giá phải trả là nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nặng

nề.
17
Hầu hết các nước thải tại các nhà máy khu công nghiệp, làng nghề ở
các đô thị đều xả trực tiếp vào cống rãnh, sông ngòi mà không qua bất kỳ
khâu xử lý nào. Nước thải bao gồm các loại hóa chất hóa học, hữu cơ, chất
rắn lơ lửng, kim loại nặng, a xit, kiềm, các loại hợp chất phenol vô cùng độc
hại mang mầm mống dịch bệnh lan tỏa ra hệ thống sông ngòi. Hệ thống sông
ngòi, hồ ao ở gần những đô thị lớn đều bị ô nhiễm; ni lon, giấy, rác thải, xác
động vật, dập dềnh trôi nổi làm tắc nghẽn dòng sông. Theo các nhà khoa
học, cứ 1m3 nước thải lan tỏa làm ô nhiễm 40-60m3 nước sạch. Nếu không
có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời, nước thải sẽ gây ô nhiễm môi
trường sống, lãng phí nguồn nước mặt, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức
khỏe người dân.
Tại các đô thị lớn, hệ thống thoát nước dùng chung cho tất cả: nước
mưa, nước thải sinh hoạt, nước công nghiệp. Do hệ thống thoát nước không
đảm bảo, cứ mùa mưa lại bị ngập lụt, nước bẩn tràn lên đường phố, chảy vào
các hộ gia đình, ảnh hưởng đến sức khỏe, môi trường sống của người dân.
Các thành phố đa phần chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Hầu hết
sông ngòi trong cả nước tiếp nhận nước thải sinh hoạt từ các đô thị ở khu
dân cư, nhà hàng; nước thải của các cơ sở y tế, cơ sở công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp, … chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép đổ vào. Hiện nay,
việc đầu tư và áp dụng các công nghệ xử lý nước thải chưa đáp ứng được
yêu cầu bảo vệ môi trường. 70% các khu công nghiệp không có hệ thống xử
lý nước thải tập trung, hoặc một số cơ sở sản xuất có xử lý nước thải nhưng
không đạt tiêu chuẩn cho phép. Qua kiểm tra các cơ sở sản xuất hóa chất
trên toàn quốc cho thấy, chỉ có 12% các cơ sở xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn
môi trường. Các làng nghề ở đô thị với nhiều loại hình sản xuất tiểu thủ
công nghiệp như: chế biến thực phẩm, cơ khí, thủ công mỹ nghệ, chế biến
18
lâm sản, vật liệu xây dựng phát triển góp phần cải thiện đời sống của nhân

dân. Tuy nhiên, phần lớn các cơ sở này đều phát triển tự phát theo nhu cầu
của thị trường với thiết bị và công nghệ sản xuất lạc hậu, không đầu tư xây
dựng trạm xử lý nước thải trực tiếp qua các hệ thống cống rãnh. Kiểm tra 3
làng nghề tái chế nhựa ở Triều Khúc, dệt nhuộm Tân Triều và bún Phú Đô
Hà Nội cho thấy nước thải tại mương thải chung của các làng nghề, trước
khi thải ra ngoài bị ô nhiễm nghiêm trọng, các chất hữu cơ BOD vượt đến
14,4 lần; COD vượt 10,8 lần, chất rắn lơ lửng vượt 1,4 lần, dầu mỡ vượt 5,5
lần.
Ông Đặng Dương Bình, trưởng phòng môi trường - khí tượng thủy
văn Sở Tài Nguyên môi trường và nhà đất Hà Nội cho biết: Xử lý nước thải
đang là một thách thức lớn, thành phố với hơn 2,7 triệu dân tổng lượng nước
thải của thành phố khoảng hơn 500.000 m3/ngày đêm, trong đó lượng nước
thải sinh hoạt khoảng 400.000 m3, nước thải công nghiệp 85.000-
90.000m3. Hà Nội có 5 khu công nghiệp tập trung, 13 cụm công nghiệp vừa
và nhỏ, mới có khu vực Bắc Thăng Long, Sài Đồng có trạm xử lý nước thải.
Nước thải qua hệ thống cống, mương đô thị chảy ra 4 con sông thông nối
nhau: Tô Lịch , sông Lừ, sông Sét , Kim Ngưu , theo dòng sông Châu giang
chảy vào sông Nhuệ - Đáy , hồ Yên Sở ra các tỉnh lân cận. Nhưng dòng sông
này, nước bị ô nhiễm do các chất hóa học, hữu cơ. Hàm lượng DO ở các
điểm đo trên các sông Nhuệ , Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ và Sét dao động từ
1,6 -5 mg/l, trong đó DO ở sông Lừ, Kim Ngưu và Tô Lịch đều có giá trị
thấp hơn 2 mg/l. Trên 99% các điểm quan trắc chất lượng nước mặt trên lưu
vực sông Nhuệ - Đáy có hàm lượng các chất ô nhiễm hữu cơ không đảm
bảo tiêu chuẩn đối với nguồn nước sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt
.
19
Tại thành phố Việt Trì, nước thải công nghiệp cũng được đổ trực tiếp
vào sông Hồng không qua xử lý làm cho hàm lượng kim loại nặng, các chất
hữu cơ đặc biệt là hợp chất phenol được clo hóa, BOD, COD rất cao. Sông
Hồng tiếp nhận gần 100.000m3 /ngày đêm của thành phố Việt trì, trong đó

nước thải công nghiệp chiếm 30 % .
Ở thành phố Hồ Chí Minh, lượng nước thải công nghiệp xả ra môi
trường hơn 400.000 m3 ngày đêm. Theo sở tài nguyên môi trường TP Hồ
Chí Minh, trong đó số 12 KCN trên địa bàn, mới có KCN Lê Minh Xuân,
Tân Tạo có hệ thống xử lý nước thải, còn lại các KCN với khoảng hơn
30.000 m3/ngày đêm thải ra sông ngòi, kênh rạch. Thành phố với gần 5 triệu
dân, tổng lượng nước thải sinh hoạt khoảng 600.000 m3/ ngày đêm, chỉ 60%
được xử lý sơ bộ. Nước thải xả trực tiếp ra các kênh Nhiêu Lộc, kênh Tân
hóa lan tỏa đi các sông Sài Gòn – Đồng Nai, Nhà Bè, chợ Đệm, sông Tranh
… Hiện nay, lưu vực sông Sài Gòn – Đồng Nai bị ô nhiễm trên diện rộng
với mức độ tăng dần từ thượng lưu đến hạ lưu, chủ yếu là ô nhiễm hữu cơ, vi
sinh vật và bị axit hóa, một số khu vực hạ lưu bị ô nhiễm nặng. Qua các kết
quả phân tích chất lượng nước tại các trạm dầu nguồn sông Sài Gòn – Đồng
Nai bị ô nhiễm hữu cơ, đặc biệt là ô nhiễm dầu.
Tính chung trên địa bàn cả nước, lượng nước thải các loại chưa được
xử lý nhưng vẫn xả thẳng ra môi trường hàng năm lên tới 1,5 tỷ mét khối;
trong đó các khu đô thị và khu công nghiệp mỗi ngày thải khoảng hơn 3
triệu mét khối nước thải sinh hoạt và nước thải sản xuất xả trực tiếp vào
nguồn nước mặt. Với hàm lượng các chất gây ô nhiễm, khối lượng nước thải
này đã và đang gây ô nhiễm nghiêm trọng cho rất nhiều con sông, mà chính
những dòng sông đó lại là nguồn cấp nước chủ yếu cho các nhà máy nước
20
công suất lớn và trạm cấp nước quy mô nhỏ hơn phục vụ cấp nước sinh hoạt
và sản xuất hàng ngày tại các đô thị, các khu tập chung đông dân cư.
c. Thực trạng ô nhiễm môi trường nước do các hoạt động dịch vụ
Cùng với sự phát triển của các nghành công nông nghiệp, dịch vụ
ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần vào việc phát triển kinh tế. Đi cùng
với nó là nạn ô nhiễm môi trường nước do các hoạt động dịch vụ như vận tải
đường sông, hoạt động kinh tế … Và đặc biệt là các hoạt động du lịch làm
cho biển Việt Nam đạng bị đục hóa và ô nhiễm nghiêm trọng. Vịnh Hạ

Long, đầm Lăng Cô, vịnh Nha Trang .. . là minh chứng rõ nhất của những
tác hại này.
Gần đây nhất, việc phát triển du lịch lặn ở biển Nha Trang cũng khiến
các rạn san hô bị gãy nát, sinh vật biển mất hang sinh sống, chất hàng loạt,
ảnh hưởng trầm trọng đến đa dạng sinh học. Theo thống kê, mỗi ngày có
trên 40 tàu thuyền du lịch, khoảng 600 khách lặn xem san hô chính là tác
nhân của tình trạng “đau đầu” này. Theo kết quả khảo sát của các nhà khoa
học trong và ngoài nước, 80% tài sản vô giá của biển Việt Nam như rạn nứt
san hô, hệ sinh thái thảm cỏ biển … đang nằm trong tình trạng rủi ro và 50%
trong số đó cảnh cáo là rủi ro cao, khó có thể khôi phục được.
Hằng năm vào mùa mưa, từ tháng 6 đến trung tuần tháng 7 âm lịch,
những vùng Nam Trung Bộ, đặc biệt là Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình
Thuận, ... bờ biển trở nên trắng xóa do hiện tượng “bột báng” kết thành từ
hàm lượng phù sa lơ lửng, xác chết, sinh vật và rác thải … nổi lềnh bềnh
khiến nước bốc mùi hôi.
Theo PGS-TS Nguyễn Chu Hồi, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy
hoạch thủy sản – Bộ thủy sản thì tại nhiều bãi biển bị ô nhiễm của Việt Nam,
có hơn 20 giống ký sinh trùng thuộc 2 nhóm vi nấm ký sinh gây u, viêm cơ
21
quan nội tạng dẫn đến tử vong. Có bãi biển đã gặp nấm ký sinh trên 100% số
mẫu phân tích. Sự xuất hiện của vi nấm ký sinh bãi biển thường liên quan
đến ô nhiễm phân rác, nước thải không xử lý và do người tắm biển mang
đến.
Không chỉ ở những biển du lịch mà ở nhiều vùng biển khác từ Bắc
đến Nam, rác thải có chu kỳ phân hủy chậm như bao nhựa, polymel vứt bừa
bãi. Khi con người tự do xả rác xuống chúng sẽ tạo ra những màng ngăn,
khiến cho quá trình trao đổi khí giữa nước và đáy không thực hiện được,
vùng đáy biển từ thoáng ký trở thành yếm khí, phát sinh ra khí sunphua
hyddro (H2S), gây mùi thối, biến vùng nước sống thành nước chết. Một khi
đã biến thành vùng nước chết thì phải khó khăn để khôi phục lại được, nếu

có thì phải rất khó khăn để khôi phục lại, nếu có thì phải mất 60 - 100 năm
sau mới khôi phục lại được .
II-Một số quy định pháp lý về kiểm soát ô nhiễm môi trường nước ở Việt
Nam.
Tài nguyên nước rất đa dạng và có vai trò lớn đối với đời sống to lớn
đối với đời sống con người, tuy nhiên hoạt động của con người đã và đang
tác động, gây ảnh hưởng xấu tới tài nguyên nước, dẫn tới cần có biện pháp
kiểm soát ô nhiễm môi trường nước. Bảo vệ tài nguyên nước là phù hợp với
nhu cầu khách quan, tuy nhiên đòi hỏi đó chỉ đáp ứng một cách hiệu quả khi
sử dụng công cụ pháp luật để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Bởi vì pháp
luật có những ưu thế đặc biệt của một công cụ quản lý mà các công cụ khác
không có được. Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, tính xã hội bắt buộc
chung và được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước,
do đó sự điều chỉnh bằng pháp luật trong việc kiểm soát ô nhiễm các nguồn
nước là đặc biệt hiệu quả so với các biện pháp khác. Pháp luật về kiểm soát
22
ô nhiễm môi trường nước đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cũng như các tổ chức, các nhân trong việc bảo
vệ, phát triển nguồn nước để từ đó buộc cơ quan nhà nước cũng như các tổ
chức, cá nhân thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ về kiểm soát ô nhiễm
nước. Đây chính là cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động kiểm soát môi trường
nước.
1. Nghĩa vụ của Nhà nước trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường
nước
Các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình khai thác sử dụng, bảo vệ
phát triển tài nguyên môi trường nước diến ra hết sức phức tạp đòi hỏi phải
có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Nghĩa vụ của nhà nước trong việc kiểm
soát ô nhiễm môi trường nước gồm có các nội dung sau:
a. Đánh giá hiện trạng tài nguyên nước
Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên nước được quy định trong

nhiều văn bản quy phạm pháp luật hiện hành (khoản 3 điều 57 Luật tài
nguyên nước 1998: khoản 6 Điều 2 Nghị định số 91/2002/NĐ – CP ngày 11
tháng 11 năm 2002) quy định chức năng nhiệm vụ , quyền hạn cơ cấu tổ
chức bộ tài nguyên và môi trường; Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 179/CP
ngày 30/12/1999 hướng dẫn thi hành Luật tài nguyên nước 1998; Điều 60,
61, 63, 65, Luật bảo vệ môi trường năm 2005.
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Bộ tài nguyên và môi
trường có trách nhiệm tổng hợp số liệu, quản lý điều tra cơ bản, kiểm kê,
đánh giá tài nguyên nước và xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước và
xây dựng cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước (khoản 6 Điều 2 Nghị định số
91/2002/CP-NĐ ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ tài nguyên và môi trường ).
23
b. Xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường về
tài nguyên nước
Tiêu chuẩn về môi trường về tài nguyên nước được hiểu là các chuẩn
mực, giới hạn về hóa học, lý học, sinh học được quy định bởi pháp luật,
nhằm xác định rõ tính chất nước, dùng làm căn cứ để kiểm soát môi trường
nước.
Tiêu chuẩn môi trường nước phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành .Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Bộ tài nguyên môi
trường (khoản 3 Điều 2 nghị định 91/2002/NĐ- CP ngày 11/11/2002). Hiện
nay các tiêu chuẩn về nước được quy định trong quyết định số 35/2002/QĐ-
BKHCN& MT ngày 25/062002 của Bộ trưởng Bộ khoa học công nghệ và
môi trường về việc công bố danh mục các tiêu chuẩn Việt Nam về môi
trường bắt buộc áp dụng.
.
Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định khá chi tiết về quy hoạch, kế
hoạch bảo vệ môi trường đối với các nguồn nước (Điều 55, 59, 63). Thẩm
quyền xây dựng và phê duyệt các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ

tài nguyên nước được quy định như sau: Bộ tài nguyên môi trường có trách
nhiệm trình Chính phủ chiến lược, quy hoạch phát triển, kế hoạch dài hạn, 5
năm và hàng năm về việc bảo vệ, phát triển khai thác sử dụng nước (khoản 2
điều 2 nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002). Trên cơ sở quy
hoạch, kế hoạch, chiến lược do Bộ tài nguyên môi trường đã trình, Chính
phủ sẽ phê duyệt các chiến lược, kế hoạch quốc gia về bảo vệ phát triển tài
nguyên nước (khoản 2 Điều 59 Luật tài nguyên nước năm 1998). Bộ tài
nguyên môi trường phê duyệt các quy hoạch lưu vực sông theo ủy quyền của
chính phủ.
24
Những năm gần đây Nhà nước ta đã xây dựng và tổ chức thực hiện
nhiều chương trình , chiến lược bảo vệ , phát triển tài nguyên nước như: “
Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn“
( quyết định số 237/1998/QĐ-Ttg ngày 3/12/1998 của thủ tứơng chính phủ
phê duyệt chương trình này)…Theo định hướng chương trình này, nhà nước
đặt ra mục tiêu đến năm 2020 là xoá bỏ tình trạng ngập úng thường xuyên
trong mùa mưa ở đô thị, từng đô thị có hệ thống thoát nước thải với công
nghệ xử lý phù hợp đảm bảo vệ sinh môi trường, mở rộng phạm vi phục vụ
của các hệ thống thoát nước đô thị, khu công nghiệp, áp dụng tiêu chuẩn,
quy phạm tiên tiến, đưa lĩnh vực thoát nước đô thị Việt Nam lên tầm mức
các nước trong khu vực. Đặc biệt , “Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020” (quyết định số 256/2003/QĐ-
TT ngày 02/12/2003 của thủ tướng chính phủ , phê duyệt chiến lược này), đã
đặt ra mục tiêu đến năm 2010: 40% các đô thị, 70% các khu công nghiệp,
khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 95% dân số đô thị và
85% dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; đến năm
2020 đạt 100% dân số đô thị và 95% dân số nông thôn được sử dụng nước
sạch, 100% đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước
thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
d. Xây dựng và sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động bảo vệ, phát

triển tài nguyên nước:
Luật bảo vệ môi trường 2005 quy định khá cụ thể các nguồn tài chính
cho hoạt động bảo vệ môi trường nói chung, bảo vệ tài nguyên nước nói
riêng (điều 110 ).
Điều 46 Luật tài nguyên nước năm 1998 cũng quy định khá chi tiết về
nguồn tài chính phục vụ cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nước .
25

×