Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Quy Trình Kỹ Thuật Chăn Nuôi Bò Thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.75 KB, 30 trang )

Quy trình kỹ thuật chăn nuôi Bò thịt
1. Mục đích yêu cầu
- Phổ biến cho nông dân những kỹ thuật cơ bản về giống, chăm sóc, nuôi dưỡng, phòng bệnh, để đạt
hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi bò thịt.
- Yêu cầu: Ngắn gọn, dễ nhớ, dễ làm theo quy trình.
2. Đặc tính sinh vật học – tiêu hoá
- Bò là đại gia súc nhai lại.
- Thức ăn của bò chủ yếu là thức ăn thô xanh. Nếu ăn nhiều thức ăn tinh sẽ bị bệnh.
- Về sinh sản:
+ Đối với bò đực: Tuổi bắt đầu phối giống từ 24-26 tháng tuổi. Tuổi phối giống tốt nhất từ
2-6 năm.
+ Đối với bò cái: Tuổi bắt đầu phối giống từ 18-24 tháng tuổi. Có thể phối giống bằng thụ
tinh nhân tạo hay cho con đực nhảy trực tiếp. Định mức một đực giống / 30-40 bò cái. Chu kỳ động
dục là 21 ngày. Thời gian mang thai trung bình là 281 - 285 ngày (9 tháng 10 ngày). Thời gian động
dục lại sau khi sinh là 60 - 70 ngày.
- Chọn giống chăn nuôi bò thịt chất lượng cao: Về ngoại hình chọn con có thân hình vạm vỡ, mình
tròn, phía mông và vai phát triển, tổng thể nhìn vào bò có hình chữ nhật.
- Các giống chăn nuôi con lai: Nhóm Zebu x Bò vàng, F1HF, F2HF không sản xuất sữa, Shahiwal,
Brahman trắng hoặc đỏ, Brouhuogber.
3 - Nuôi dưỡng chăm sóc vỗ béo theo giai đoạn
a) Nuôi bê từ 1 - 5 tháng tuổi.
- Từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi, nuôi bê tại nhà cạnh mẹ, luôn giữ ấm tránh gió lùa, cho bê nằm chỗ
khô sạch.
- Từ tháng thứ 2, tập cho bê ăn cỏ xanh phơi khô được nắng. Cỏ tươi rửa sạch để ráo, cho bê ăn
thức ăn xanh và thức ăn tinh như khẩu phần đã định ở phần trên.
- Từ tháng thứ 4 trở đi tập cho bê ăn thêm thức ăn củ quả như : khoai lang, bí đỏ,..
- Trời nắng ấm tập cho bê vận động tự do dưới ánh nắng để bê có đủ Vitamin D3, tạo cho bộ xương
cứng cáp.
- Thức ăn:
+ Thức ăn thô: 5 – 7kg cỏ/con/ngày.
+ Thức ăn tinh: 0,6 – 0,8 kg/con/ngày với 100 gam Protein tiêu hoá và 2.800Kcal/kg.


b) Nuôi bê từ 6 - 20 tháng tuổi (nuôi bê hậu bị vỗ béo)
6 tháng tuổi cai sữa cho bê.
- Phương thức nuôi nhốt: Cho bê ra sân vận động 2 - 4 giờ/ngày.
Cung cấp đầy đủ thức ăn xanh, thức ăn tinh hỗn hợp. Thường xuyên cung cấp đủ nước uống cho bê
trong giai đoạn này.
- Phương thức chăn thả : Hiện còn khá nhiều địa phương trong tỉnh còn áp dụng phương thức này.
Nhưng muốn nuôi bò thịt có hiệu quả kinh tế cao cần đầu tư thâm canh theo quy trình và chăn nuôi
bò lai.
- Thức ăn:


+ Thức ăn thô xanh: 6 tháng tuổi: 10 kg /con/ngày; 7-12 tháng tuổi: 15kg/con/ngày; 13-20 tháng
tuổi 30 kg/con/ngày.
+ Thức ăn tinh: 6 tháng tuổi 0,8 – 1 kg/con/ngày với 100 gam Protein tiêu hoá và 2.800Kcal/kg.
c) Nuôi vỗ béo bò từ 21 - 24 tháng tuổi
- Nuôi nhốt giảm vận động, tăng cường cho bò ăn các loại thức ăn giàu dinh dưỡng, cao năng
lượng, cho bò tắm nắng 2 giờ/ngày, giảm nhiệt độ và cường độ ánh sáng chuồng nuôi.
- Những con có trọng lượng lớn, bị bệnh chân móng, cần sửa móng cho bò bằng các dụng cụ sắc
như dao, đục và dụng cụ chuyên dùng khác.
- Thường xuyên tắm chải cho bò để kích thích bò ăn uống khoẻ. Mùa hè tắm 2 lần/ngày. Mùa đông
chải khô 1 tuần 2 lần cho bò bằng bàn chải.
- Xuất bò: Khi bò đã béo đúng tiêu chuẩn, quan sát vùng võng (vùng lưng) đã béo bằng, nông dân ta
thường gọi là "bò béo bằng lưng", thì xuất bán.
- Thức ăn:
+ Thức ăn thô xanh: 30 kg/con/ngày (cỏ tươi hay khô, rơm được xử lý mềm hoá và tăng độ đạm).
+ Thức ăn tinh: 1,5 – 2,5 kg/con/ngày với Protein tiêu hoá 100 gam và 2.800 Kcal/kg thức ăn.
+ Nước uống: 50-60 lít/con/ngày. Có thể sử dụng muối ăn pha với nồng độ 9%.
4- Phòng và trị bệnh
- Tiêm phòng định kỳ hàng năm vào 2 đợt : 15/03 và 15/08, Vacxin tụ huyết trùng cho bò chăn nuôi
trong vùng an toàn dịch của dự án.

- Vệ sinh phòng bệnh: Chuồng trại, máng ăn, máng uống môi trường xung quanh và cơ thể bò phải
luôn sạch sẽ, cánh ly nguồn bệnh, mầm bệnh.
- Tẩy giun đũa cho bê định kỳ vào tháng thứ nhất, tháng thứ 3 và tháng thứ 9 bằng Piperazin 2 3g/10 kg trọng lượng. Cho uống hoặc tiêm 5 mg Levamisol/10 kg trọng lượng. Nếu bò ỉa chảy liên
tục có mùi tanh khẳm, xù lông sáng sớm và chiều tối cần tẩy sán lá gan bằng cách tiêm bắp :
Dovernix 1ml/15 kg trọng lượng, hoặc cho uống Dertil B1 liều lượng viên/ 50 kg trọng lượng.
- Định mức thuốc thú y: 10.000 đồng/con/năm.
5- Mức đầu tư - Mức công nhân.
- Một lao động nuôi được 20 con bò thịt trong nông hộ, lao động này phải làm các nội dung:
+ Trồng cỏ kết hợp chăm bón và cắt cỏ chuyển về chuồng.
+ Chăm sóc, nuôi dưỡng theo dõi bệnh tật.
+ Chế biến, dữ trữ và bảo quản thức ăn.
+ Cấp thức ăn tinh, nước uống theo định mức.
+ Công tác thú y thông thường: Tiêm phòng, vệ sinh môi trường định kỳ.
- Chăn nuôi trang trại: 3 nhân công và 1 người hợp đồng trang trại có thể nuôi 100 bò thịt 1 lứa.
- Định mức trồng cỏ: 2 sào/1 con bò thịt (500m2/sào), được đầu tư:
+ Phân chuồng: 400 – 500 kg/sào
+ Đạm, kali (5 kg urê và 1,5 kg kali/500m2/ 1 lần bón thúc và bón 11 lần/năm).
+ Giống cỏ : 3.000 kg/ha. Sử dụng giống cỏ voi lai, cỏ tây Nghệ An, ngô dày.
* Định mức xây dựng chuồng trại:
- Chuồng xây dựng theo kiểu thiết kế chuồng 1 dãy hoặc 2 dãy.


- Chuồng lợp lá hay ngói đỏ, tường kín phía Bắc, thoáng phía Nam, nền chuồng khô nước, lót nền
mềm. Định mức 2,5 –3 m2 / con./.

Chế bế thức ăn chăn nuôi Bò
Chăn nuôi bò là nghề truyền thống của bà con nông dân trong tỉnh, ngoài sản xuất nông nghiệp bà
con nông dân tận dụng thời gian nông nhàn để chăn nuôi bò cải thiện cuộc sống. Ngoài ra, từ khi
phong trào chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi phát triển tạo ra nhiều phụ phẩm trong nông
nghiệp đã giúp bà con nông dân có đủ nguồn thức ăn phục vụ chăn nuôi. Tuy nhiên năm nay do tình

hình bệnh vàng lùn và lùn xoắn lá gây hại lúa, tỉnh AG đã chỉ đạo địa phương ngừng sản xuất vụ 3
thay vào đó xả lũ để diệt mầm bệnh, làm cho nhiều hộ chăn nuôi bò gặp khó vì thiếu nguồn thức ăn.
Phương pháp chế biến rơm thành thức ăn cho chăn nuôi bò sẽ giải quyết vấn đề khó khăn trong
chăn nuôi bò hiện nay.
Để giúp người chăn nuôi bò có thể tạo nguồn thức ăn trong những tháng mùa nước nổi và thời điểm
giao mùa, Trung tâm khuyến nông tỉnh phối hợp với ngành nông nghiệp các huyện, thị thành tổ
chức tập huấn khuyến cáo về kỹ thuật chăm sóc gia súc mùa lũ và giới thiệu một số biện pháp tạo
nguồn thức ăn cho chăn nuôi bò như trồng cỏ dọc các tuyến đê bao, cách chế biến rơm thành thức
ăn chua và sử dụng đá liếm bổ sung chất khoáng cho bò đã được bà con nông dân quan tâm thực
hiện. Mới đây, Trung tâm khuyến nông tỉnh đã phối hợp với Ban quản lý Dự án kiểm soát lũ Bắc
Vàm Nao và Trường Đại học AG tổ chức lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật chế biến thức ăn cho
các hộ chăn nuôi bò ở xã Phú Bình huyện Phú Tân. Xử lý rơm bằng phân urê là biện pháp tốt, nhằm
tăng lượng đạm, làm mềm rơm rạ giúp tăng tỉ lệ tiêu hoá, nâng cao hiệu qủa kinh tế trong chăn nuôi
bò. Thạc sĩ Nguyễn Thị Thu Hồng, Giảng viên Bộ môn chăn nuôi thú y Khoa Nông nghiệp Trường
Đại học AG đã giới thiệu về quy trình chế biến thức ăn cho bò, trong đó có kỹ thuật dùng rơm ủ với
phân Urê, tạo ra nguồn thức ăn chua giúp bò tiêu hoá thức ăn tốt hơn, đảm bảo dinh dưỡng cao góp
phần giải quyết nguồn thức ăn trong chăn nuôi bò hiện nay.
Cách chế biến thức ăn với mô hình ủ rơm ủ urê trong bể xi măng có lót nylon, với 4 ký phân Urê
pha loãng 100 lít nước, sau khi tủ nylon dằn đáy và cho lớp rơm khô khoảng 20 ký, dùng dung dịch
nước tưới đều trên rơm, dậm đều ở các gốc bể, cho tiếp lớp thứ 2, đến lớp cuối cùng và tưới dậm
đều, gói nylon thật chặt sau 7 ngày lấy ra cho bò ăn. Theo anh Trần Văn Cường, hộ nuôi bò ở xã
Phú Bình thì phương pháp dùng rơm ủ urê vừa dễ làm, có thể tận dụng nguồn rơm rạ sau thu hoạch
chế biến dự trữ thức ăn cho chăn nuôi bò. Còn anh Mai Văn Nhái, chủ trang trại nuôi 10 con bò ở
ấp Bình Phú 1 xã Phú Bình bày tỏ phấn khởi về phương pháp chế biến thức ăn mới có thể giúp anh
giải quyết những khó khăn về thức ăn trong mô hình nuôi bò của mình.
Rơm ủ với phân urê là giải pháp thức ăn phù hợp với mô hình chăn nuôi bò trong nông thôn. Thực
hiện cách chế biến thức ăn này dễ thực hiện, bà con nông dân chỉ cần dự trữ nguồn rơm sau mỗi vụ
thu hoạch sau đó chế biến thành thức ăn giàu dinh dưỡng phục vụ chăn nuôi. Tuy nhiên bà con
nông dân cần lưu ý, đây là loại thức ăn chua lạ với khẩu phần thức ăn hàng ngày của bò, do vậy cần
tập cho bò làm quen với loại thức ăn mới, sau đó tăng dần khẩu phần thức ăn phù hợp với trọng

lượng bò. Với biện pháp ủ rơm với phân urê, lượng đạm dinh dưỡng sẽ tăng gấp 5 lần so với lượng
đạm có trong rơm bình thường, và loại thức ăn này còn có thể kích thích tiêu hoá do men chua tạo
nên giúp bò ăn nhiều hơn và tăng trọng ổn định, đồng thời khắc phục tình trạng khan hiếm thức ăn
lúc giao mùa.

Kỹ thuật vỗ béo bò
Hiện nay, nông dân Bến Tre có xu hướng mua bò gầy về vỗ béo để bán bò thịt. Tuy nhiên,
nhiều người vẫn lúng túng về kỹ thuật vỗ béo bò để đem lại triệu quả kinh tế cao.
Chọn bò để vỗ bé Bò lý tưởng để nuôi vỗ béo là bò có bộ khung cơ thể càng lớn càng tốt.
Loại bò này sẽ đạt được tốc độ tăng trọng khá nhanh. Thời gian cần thiết vỗ béo bò chỉ
cần khoảng 2 tháng. Bò cái loại càng gầy, càng xấu có thể mang lại nhiều lợi nhuận ở giai


đoạn đầu vỗ béo vì tiêu tốn thức ăn ít. Bò gầy thường mua giá rẻ hơn. Hoặc vỗ béo bò
đực tơ lai Sind siêu thịt.
Nhu cầu thức ăn và năng lượng vỗ béo bò: Để bo có tốc độ lớn nhanh nhất thì lượng thức
ăn đảm bảo năng lượng cao được ăn vào hàng ngày là 2,5% trọng lượng cơ thể. Ví dụ,
bò nặng 200kg cần khoảng 5kg vật chất khô trong một ngày, còn thức ăn thô xơ khoảng
15 - 20kg. Khẩu phần hoàn chỉnh là đủ tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết cho bò. Bò có
thể tự do lựa chọn sau khi đã trộn lẫn hoàn toàn cả hai loại thức ăn tinh và thô với nhau.
Phương pháp cho ăn và tập cho bò ăn thức ăn tinh vô cùng quan trọng. Lúc đầu nên cho
bò ăn nhiều thức ăn thô xanh, ít thức ăn tinh để bò làm quen với khẩu phần năng lượng
cao. Nếu ngay từ đầu bò ăn nhiều thức ăn tinh có thể bị chết do ngộ độc axít (acidosis).
Thức ăn thô xanh cần sử dựng kết hợp với thức ăn tinh để tạo ra một khẩu phần ăn hoàn
chỉnh.
Phương pháp cho bò ăn: Tốt nhất là trộn vào máng ăn hỗn hợp bao gồm các nguyên
liệu như sau: 5 kg mía chặt nhỏ hoặc cỏ xanh chặt nhỏ và 4kg thức ăn tinh hỗn hợp (65%
bột khoai mì), rơm để riêng nếu bò muốn ăn và uống nước tự do. Phương pháp vỗ béo sử
dụng cây mía chặt nhỏ hoặc cỏ xanh cộng với thức ăn tinh (khoai mì) rất thuận tiện và rẻ
tiền. Nguyên liệu thô dùng để phối hợp thức ăn tinh thường không phải nghiện nhỏ trừ

ngô (bắp) khi cần được thay thế cho tấm. Phối hợp 100 kg thức ăn trộn bằng xẻng trên
nền nhà bằng xi măng, gạch hoặc bê tông. Việc cân đo số lượng thành phần các nguyên
liệu thức ăn rất quan trọng, đặc biệt đối với 3% urê có trong khẩu phần. Vì nếu urê vượt
quá giới hạn cho phép có thể gây ngộ độc do hàm lượng Amôniăc, vì vậy cần tuân thủ
theo sự hướng dẫn khi cân nguyên vật liệu để phối hợp thức ăn cũng như khi cho bò ăn
loại khẩu phần này.
Ngoài ra cần giữ vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, thoáng mát về mùa nông, ấm về mùa mưa.
Thức ăn phải bảo quản nơi khô ráo, tuân thủ đúng theo quy trình phòng bệnh và định kỳ
xổ lãi cho bò.

Quy trình kỹ thuật Chăn nuôi bò giống Lai
I . Bò đực giống lai zê bu.
1. Chọn bò đực giống:
- Các bò đực lai Zêbu F2 ¾ máu Zêbu trở lên.
- Ngoại hình: mang những đặc điểm chung của các giống bò Zêbu như tầm vóc khá lớn,
kết cấu ngoại hình rắn chắc, u vai (bướu) phát triển, yếm và rốn phát triển, tai to màu sắc
đa dạng.
- Các bộ phận: đầu to vừa phải, ức rộng, đầy đặn, vai nở, ngực rộng sâu, 4 chân thẳng to,
gân guốc, 2 chân trước cách xa nhau, 2 đùi sau dài to, bàn chân sau xuôi, ngắn, đuôi to
dài, tinh hoàn đều đặn, to vừa.
- Trọng lượng bò:
+ Bê đực 1 năm tuổi có trọng lượng ≥ 145 kg.
+ Bê đực 2 năm tuổi có trọng lượng ≥ 250 kg.
+ Bò đực trưởng thành có trọng lượng ≥ 370 kg.
+ Chỉ chọn bò đực đạt trọng lượng tối thiểu từ 250 kg.
- Xác định tuổi tương đối của bò:
+ Bê sơ sinh đã có 4 cặp răng sữa (răng cửa).
+ Bê thay cặp răng sữa giữa ở độ tuổi 18-24 tháng tuổi.



+ Thay cặp răng thứ 2 và 3 khi bò 3 và 3,5 tuổi.
+ Thay cặp răng cuối cùng khi bò được 4-5 tuổi và hàm răng đầy khít.
+ Những năm sau đó răng ngày càng bị mòn và thưa dần, việc xác định tuổi bằnhg cách
xem răng đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Chỉ chọn mua bò đực giống từ 17 tháng tuổi đến
dưới 5 tuổi; tuổi phối giống lần đầu từ 24 -26 tháng, tốt nhất từ 2 -5 tuổi.
2. Thức ăn - dinh dưỡng:
- Khẩu phần cho bò đực giống phải tính toán cân đối, cung cấp đủ năng lượng cho cơ thể
hoạt động. Bò đực giống trước mùa phối giống phải tăng cường thức ăn để đủ độ béo cần
thiết. Trong mùa phối giống và nhất là ngày phối giống phải đảm bảo đủ thức ăn protein
nhất là protein động vật, bổ sung trứng gà và thóc mầm có nhiều vitamin E.
- Kỹ thuật khai thác và sử dụng thức ăn xanh, thô:
+ Bò có thể ăn và tiêu hóa được nhiều loại thức ăn như: rơm, cỏ, cây bắp, cây đậu, ngọn
mía,… là những loại có nhiều chất xơ.
+ Nhu cầu vật chất khô ăn vào 1 ngày đêm bằng 2% trọng lượng bò (một bò 400 kg cần
lượng thức ăn quy khô: 8 kg/ngày).
+ Lượng thức ăn xanh (các loại cỏ tự nhiên hoặc cỏ trồng) chiếm 60-70% khẩu phần.
+ Một bò đực 400 kg cần có khoảng 12 tấn thức ăn xanh/năm, trung bình mỗi ngày cần
30-35 kg thức ăn xanh.
- Thức ăn tinh là thức ăn hỗn hợp có cám, bắp, các chất đạm, bột cá, khô dầu, muối và
khoáng; nhu cầu thức ăn tinh 0,4-0,5 đơn vị thức ăn (ĐVTA)/100 kg thể trọng. Thức ăn
cần đảm bảo lượng vitamine D và caroten. Lượng thức ăn tinh chiếm 20-30% khẩu phần.
Một bò đực giống 350 - 400 kg cần khoảng 850 kg thức ăn tinh/năm, mỗi ngày khoảng 2-3
kg thức ăn tinh.
- Khẩu phần/ ngaøy cho bò đực giống trọng lượng 400 kg như sau:
+ Cỏ chăn thả 5 giờ x 3 kg = 15 kg;
+ Cỏ cắt = 15 kg
+ Rơm = 4 kg;
+ Cám gạo hoặc bắp nghiền = 1,5kg
+ Khô dầu phộng = 0,7 kg;
+ Viên khoáng (đá liếm) = 0,1kg

+ Muối ăn = 0,05 kg
Tổng = 36,35 kg
- Nếu bò phối giống nhiều trên 4 lần/tuần hoặc bò nuôi kết hợp cày kéo thì cần tăng tiêu
chuẩn thức ăn lên 10% so với khẩu phần trên, cụ thể mỗi ngày cần cho ăn thêm 1 kg thóc
nảy mầm và 3 kg củ, quả để tăng khả năng phối giống.
- Nước uống: nước uống sẽ giúp cho bò hấp thu, tiêu hóa thức ăn để duy trì hoạt động
sống và sản xuất. Phải cung cấp đầy đủ nước sạch cho bò, số lượng nước uống phụ
thuộc vào nhiệt độ môi trường, vật chất khô của lượng thức ăn ăn vào và trạng thái sinh lý
của bò. Vì vậy cần cho bò uống đủ nước ít nhất 2 lần/ngày, có thể bổ sung khẩu phần
muối ăn nêu trên vào nước uống.
3 . Chuồng trại và vệ sinh phòng, trị bệnh:
1.3 Chuồng trại:


+ Din tớch chung ti thiu 6m2/1 bũ c ging. Cú mỏng n c, thc n b sung v
mỏng ung y .
+ Nen chung cn khụ rỏo, ỏnh sỏng, sch s, mỏt m, coự ủoọ doỏc 2-3%
2.3 Phũng bnh:
+ Sau khi mua bũ ni khỏc v phi c nuụi cỏch ly theo dừi bnh t 7 -10 ngy tin
hnh tiờm phũng cỏc bnh t huyt trựng, bnh l mm long múng v phũngcỏc bnh ni,
ngoi ký sinh trựng bng phun thuc hoc tiờm t 10 20 ngy / ln; mi nm phi tiờm
phũng 2 t bnh t huyt trựng v bnh l mm long múng.
3.3 Mt s bnh thng gp:
- Bnh t huyt trựng:
+ Nguyờn nhõn: do vi trựng Pastuerella Bioseptica, bnh thng xy ra cựng vi dch t
huyt trựng trờn n trõu. Lõm ng bnh xy ra quanh nm do mựa ma m cao,
mựa khụ tri núng biờn nhit ngy ờm chờnh lch ln, ngun nc khan him v
b ụ nhim,
+ Triu chng:
Th nh: cỏc niờm mc mt, ming t mỏu; ho, khú th, chy nc mi vng, phi cú

nc;
tiờu
chy.
Th nng: st cao, xut huyt niờm mc mt, ming; phự c, sng cung hng, li
bm tớm, th khú, a ra mỏu; thỳ cht trong 2-3 ngy sau ú.
+ iu tr: dựng liờn tc khỏng sinh trong 3-5 ngy.
+ Phũng bnh: bng vacxin t huyt trựng vi liu 5 ml/con v 6 thỏng tiờm li 1 ln.
- Bnh l mm long múng:
+ Nguyờn nhõn: do 7 chng ca vi rỳt hng thng bỡ aphthovirut gõy ra, l bnh cp
tớnh, lõy lan rt nhanh, mnh, rng, bnh lõy lan qua ng hụ hp, tip xỳc trc tip qua
vt thng, nc ming, nc tiu, thc n, qua khụng khớ;
+ Triu chng: bũ st t 3 -6 ngy 40 -41, r n ung kộm, lụng xự, ming chy nhiu
nc bt nh bt bia, khoộ ming, nu rng, vnh múng l loột mang m, bũ i li khú
khn;
+ phũng, iu tr bnh: ch iu tr triu chng i vi nhng con mi mc bnh th nhe,
trỏnh k phỏt cỏc bnh khỏc; bnh khụng cú thuc tr (khi bũ mc bnh LMLM thỡ
khụng s dng lm ging); ch tuõn th bin phỏp tiờm phũng nh k nm 2 ln v tiờm
b sung theo la tui;
- Bnh ký sinh trựng: ch yu l ve, cỏc bnh nm ngoi da v ký sinh trựng;
+ Ve bỏm ngoi da, hỳt mỏu v truyn bnh ký sinh trựng mỏu cho bũ, cỏc vt ve bỏm d
gõy bnh ngoi da (nm, mc, l loột,). Phũng v dit ve bng cỏch phun xt thuc dit
ve, thc hin v sinh ng c v chn th nh k. Dit ve ngoi da cho bũ ni khụ sch
v thng xuyờn tm chi phũng bnh ngoi da;
+ i vi bnh ký sinh trựng ni quan ch yu thng xy ra trờn nhng con bờ di 1
nm tui: bờ b ho, bng to, lụng xự, gy m. Mt s thuc tr ký sinh trựng nh:
Levamisol, Tetramisol, Menbendasol, Ivermectin,
4/ Chm súc, qun lý:
- Hng ngy nờn cú ch chn th t 3-5 gi vn ng, tng cng sc khe.Tm
chi phi hp xoa búp hng ngy duy trỡ tỡnh trng hng phn, v sinh thõn th, bo v
chõn múng, lm thun tớnh v khụng quỏ hung hng, nhỳt nhỏt.



- Khẩu phần phải đảm bảo trên 30% là thức ăn xanh.
-Thái độ người chăm sóc phải ôn hòa, nhẫn nại, bình tĩnh không quát tháo, đánh đập gây
cho bò hung dữ. Bò đực từ 8-10 tháng tuổi cần xỏ mũi để dễ khống chế, quản lý.
- Bò đực 24-26 tháng tuổi bắt đầu cho phối giống.
- Phối lần đầu 1 lần/tuần, về sau 2-4 lần/tuần, trường hợp bò đực nuôi kết hợp với cày kéo
chỉ phối 2 lần/tuần.
- Cho bò đực phối giống vào lúc trời mát, sau ăn 3-4 giờ, nơi phối sạch sẽ, bằng phẳng để
giữ vệ sinh, tránh viêm nhiễm.
- Phối trực tiếp có hướng dẫn 1 bò đực/50 bò cái sinh sản/1 năm.
II . Bò cái giống:
1. Chọn bò cái giống:
- Các bò cái giống lai Zêbu F2 ¾ máu Zêbu trở lên
- Ngoại hình: mang những đặc điểm chung của bò cái lai sind như tầm vóc tương đối lớn,
lông màu đỏ cánh dán hoặc vàng xẫm, yếm lớn kéo dài đến bụng, âm hộ có nhiều nếp
nhăn.
- Bò khỏe mạnh, đầu thanh nhẹ, thế đứng vững vàng, ngực sâu rộng mông phẳng và lớn,
vú đồng đều.
- Trọng lượng của bò phải đạt từ 220 kg trở lên, từ 18- 24 tháng tuổi.
- Tuổi phối giống lần đầu từ 20 – 24 tháng tuổi, trọng lượng đạt 220 -250kg.
2. Kỹ thuật nuôi dưỡng và quản lý bò cái lai sind:
a) Thức ăn - dinh dưỡng:
- Kỹ thuật khai thác và sử dụng thức ăn xanh, thô:
+ Bò có thể ăn và tiêu hóa được nhiều loại thức ăn như: rơm, cỏ, cây bắp, cây đậu, ngọn
mía,… là những loại có nhiều chất xơ.
+ Nhu cầu vật chất khô ăn vào 1 ngày đêm bằng 3% trọng lượng bò (một bò 250 kg cần
lượng thức ăn quy khô 7,5 kg/ngày).
+ Lượng thức ăn xanh (các loại cỏ tự nhiên hoặc cỏ trồng) chiếm 60-70% khẩu phần.
+ Một bò cái 250 kg cần có khoảng 10 tấn thức ăn xanh/năm, trung bình mỗi ngày cần 2227 kg thức ăn xanh.

- Thức ăn tinh là thức ăn hỗn hợp có cám, bắp, các chất đạm, bột cá, khô dầu, muối và
khoáng; nhu cầu thức ăn tinh 0,4-0,5 đơn vị thức ăn (ĐVTA)/100 kg thể trọng.
- Nước uống: phải cung cấp đầy đủ nước sạch cho bò.
3 . Chuồng trại và vệ sinh phòng, trị bệnh:
1.3 Chuồng trại:
+ Diện tích chuồng tối thiểu 5 - 6 m2/1 bò caùi giống. Có máng ăn cỏ, thức ăn bổ sung và
máng uống đầy đủ.
+ Nền Chuồng cần khôráo, đủ ánh sáng, sạch sẽ, mát mẻ, có độ dốc 2-3%
2.4 Phòng bệnh:
+ Sau khi mua bò ở nơi khác về phải được nuôi cách ly theo dõi bệnh từ 7 -10 ngày tiến
hành tiêm phòng các bệnh tụ huyết trùng, bệnh lở mồm long móng và phòngcác bệnh nội,


ngoại ký sinh trùng bằng phun thuốc hoặc tiêm từ 10 – 20 ngày / lần; mỗi năm phải tiêm
phòng 2 đợt bệnh tụ huyết trùng và bệnh lở mồm long móng.
3.3 Một số bệnh thường gặp:
- Bệnh tụ huyết trùng:
+ Nguyên nhân: do vi trùng Pastuerella Bioseptica, bệnh thường xảy ra cùng với dịch tụ
huyết trùng trên đàn trâu. Ở Lâm Đồng bệnh xảy ra quanh năm do mùa mưa ẩm độ cao,
mùa khô trời nóng biên độ nhiệt độ ngày đêm chênh lệch lớn, nguồn nước khan hiếm và
bị ô nhiễm,…
+ Triệu chứng:
Thể nhẹ: các niêm mạc mắt, miệng tụ máu; ho, khó thở, chảy nước mũi vàng, phổi có
nước; tiêu chảy.
Thể nặng: sốt cao, xuất huyết ở niêm mạc mắt, miệng; phù cổ, sưng cuống họng, lưỡi
bầm tím, thở khó, ỉa ra máu; thú chết trong 2-3 ngày sau đó.
+ Điều trị: dùng liên tục kháng sinh trong 3-5 ngày.
+ Phòng bệnh: bằng vacxin tụ huyết trùng với liều 5 ml/con và 6 tháng tiêm lại 1 lần.
- Bệnh lở mồm long móng:
+ Nguyên nhân: do 7 chủng của vi rút hướng thượng bì aphthovirut gây ra, là bệnh cấp

tính, lây lan rất nhanh, mạnh, rộng, bệnh lây lan qua đường hô hấp, tiếp xúc trực tiếp qua
vết thương, nước miếng, nước tiểu, thức a8n, qua không khí;
+ Triệu chứng: bò sốt từ 3 -6 ngày 40 -41độ, ủ rủ ăn uống kém, lông xù, miệng chảy nhiều
nước bọt như bọt bia, khoé miệng, nứu răng, vành móng lở lo1et mang mủ, bò đi lại khó
khăn;
+ Phòng, điều trị bệnh: chỉ điều trị triệu chứng đối với những con mới mắc bệnh ở thể nhe,
để tránh kế phát các bệnh khác; bệnh không có thuốc trị (khi bò mắc bệnh LMLM thì
không sử dụng làm giống); chỉ tuân thủ biện pháp tiêm phòng định kỳ năm 2 lần và tiêm
bổ sung theo lứa tuổi;
- Bệnh ký sinh trùng: chủ yếu là ve, các bệnh nấm ngoài da và ký sinh trùng.
+ Ve bám ngoài da, hút máu và truyền bệnh ký sinh trùng máu cho bò, các vết ve bám dễ
gây bệnh ngoài da (nấm, mốc, lở loét,…). Phòng và diệt ve bằng cách phun xịt thuốc diệt
ve, thực hiện vệ sinh đồng cỏ và chăn thả định kỳ. Diệt ve ngoài da cho bò ở nơi khô sạch
và thường xuyên tắm chải để phòng bệnh ngoài da.
+ Đối với bệnh ký sinh trùng nội quan chủ yếu thường xảy ra trên những con bê dưới 1
năm tuổi: bê bị ho, bụng to, lông xù, gầy ốm. Một số thuốc trị ký sinh trùng như:
Levamisol, Tetramisol, Menbendasol, Ivermectin,…
c) Chăm sóc, quản lý:
- Phối giống lần đầu cho bò khi được 16-18 tháng tuổi và khối lượng bò đạt được 70%
khối lượng bò trưởng thành.
Thời gian phối giống thích hợp trong khỏang từ 8-20 giờ sau khi bò có triệu chứng động
hớn (kêu rống, bỏ ăn, nhảy lên những con khác, âm hộ đỏ…).
III . Phương thức chăn nuôi và quản lý:
1. Quản lý đàn:
- Đánh số, kẹp số cho bò theo lứa tuổi và tính biệt giống( đực, cái) để dễ theo dõi quản lý .
- Chế biến và dự trữ thêm thức ăn để bổ sung cho bò vào mùa mưa bão, mùa khô.


- Phân đàn bò đực, bò cái hậu bị, bò cái sinh sản nhốt riêng.
2. Phương thức chăn thả:

- Nuôi tại chuồng kết hợp chăn thả; áp dụng cho đàn bò mới nhập về nuôi tân đáo cách ly,
thực hiện tiêm phòng các loại vaccine tại khu chăn thả có qui mô đồng cỏ tự nhiên và cỏ
trồng.
- Nuôi nhốt tại chuồng 100%; áp dung cho đàn bò đã được nuôi tân đáo cách ly, tiêm
phòng đầy đủ các bệnh dịch và chuẩn bị xuất bán tại khu chuồng tập kết (thời gian từ 5 -7
ngày trước khi bán).

Kỹ thuật chăm sóc Bò đực giống và Bê lai
I. Kỹ thuật chăm sóc bò đực giống:
+Trong quá trình nuôi dưỡng bò đực giống phải tuân thủ nguyên tắc nuôi dưỡng tốt ngay
từ đầu.
Không để nhiệt độ chuồng nuôi quá cao, về mùa nắng có thể tắm cho bò đực giống và giờ
nóng cao điểm và áp dụng biện pháp tắm phun.
+ Thường xuyên cho bò đực giống vận động 1-2 lần/ngày trên quãng đường dài tối thiểu
5km, mục đích rèn luyện cơ xương và giãn căng thần kinh.
+ Nguời chăn dắt giữ cho bò phải thân thiện với bò đực giống để tránh tai nạn do bò đực
giống gây ra.
+ Chải lông 1-2lần/ngày để vệ sinh và tạo kích thích phi sinh dục.
+ Định kỳ sửa móng và diệt ký sinh trùng ngoài da cho bò đực giống.
+ Tổ chức huấn luyện và theo dõi bò nhảy giá.
+ Chuồng bò đực giống phải nhốt riêng có diện tích tối thiểu 2 x 2,5m.
+ Cho bò đực giống ăn uống đầy đủ cả chất lượng và số lượng, đảm bảo sức khoẻ và
kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho bò đực giống.
+ Đối với bò đực nhảy trực tiếp phải có sổ ghi chép ngày giờ và bò cái được phối giống
nhằm có điều kiện theo dõi đời con.
II. Kỹ thuật chăm sóc bê lai:
+ Từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi cho bê ở nhà cạnh bò mẹ. Bê giai đoạn này cần được giữ
ấm, tránh gió lùa, chỗ ở của bê phải khô ráo sạch sẽ. Thời gian này thức ăn của bê là
hoàn toàn bằng sữa mẹ.
+ Khi bê trên 1 tháng tuổi chăn thả theo mẹ ở các bãi cỏ gần chuồng và tập cho bê ăn

thức ăn tinh: cháo, củ, quả...
+ Từ 3-6 tháng tuổi cho ăn 5-10kg cỏ tươi và 0,2kg thức ăn tinh, cho bê bú tự do.
+ Nên cai sữa bê lúc 6 tháng tuổi.
Khi bê được 6-24 tháng tuổi: Chăn thả là chính, mỗi ngày bê ăn 10-20kg cỏ tươi và ăn
thêm các loại khác: ngọn mía, cây ngô non, củ quả và 0,2-0,4kg mật đường.
+ Cho bê uống nước đủ và sạch.
+ Chú ý các bệnh ỉa chảy và viêm phổi cho bê.
III. Một số bệnh thường gặp ở bò:
1. Bệnh lỡ mồm long móng: Đây là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của nhiều loài gia súc có
móng guốc như: trâu, bò, dĩ, hươu, nai, lợn...
Bệnh do một loại siêu vi trùng gây ra, loại virus này có nhiều type, nhiều chủng. Bệnh lây
lan nhanh và hậu quả rất lớn: gia súc non chết 50-60%, gia súc cày kéo mất sức, gia súc
cho sữa giảm tiết sữa. Việc chữa bệnh và chăm sóc rất tốn kém.
Triệu chứng:
Thời gian nung bệnh từ 2-5 ngày, khi mới bắt đầu xuất hiện bò ủ rũ, lông dựng, sốt nhẹ, đi
đứng khó khăn chậm chạp. Bệnh gây nhiều mụn nước ở lợi, vòm họng, vú, kẻ móng
chân. Do viêm miệng nên con vật bị sốt, miệng thường sùi bọt như bọt bia.
Mụn nước lớn dần và vỡ ra. Sau 1-2 ngày sau khi mụn vỡ các vết loét ở miệng, chân làm


gia súc không ăn được và bị què. Các vết loét tiếp xúc với đất nước bẩn rất dễ bị nhiễm
trùng, bị nặng móng chân của bò hở ra, có con bị lọt cả móng ra ngoài.
Bệnh tích:
Ở đường tiêu hoá niêm mạc có mụn loét, mép chân, răng, lưỡi, thực quản, dạ mũi khế, dạ
cỏ, ruột non có những mảng xuất huyết tụ máu. Đường hô hấp: Viêm phế quản, phổi,
cuống phổi, cơ tim biến chất, dĩ mềm nát, có vết xám trắng nhạt hay vàng nhạt, màng tim
chứa nước, lách sưng đen, chân có mụn loét.
Phòng trừ và trị bệnh
Phòng bệnh:
+ Khi nghi có bệnh phải báo ngay cho cán bộ thú y.

Vùng có bệnh cũ phải tiêm vacxin hàng năm.
+ Cách ly triệt để trâu, bò bị bệnh cho đến khi khỏi hẳn.
+ Tiêu độc hàng ngày chuồng nuôi, chất thải của gia súc bị bệnh, dụng cụ chăn nuôi bằng
vôi bột, Formon, nước sôi, xút...
Chữa bệnh:
Dùng dung dịch thuốc tím 0,1% hoặc giấm chua, nước chanh, khế, nước muối rửa các vết
loét hàng ngày, liên tục 4-5 ngày. Các vết loét ở chân có thể dùng bàn chải chà rửa sạch
đất, cắt bỏ da chết.
Nếu nhiễm trùng nặng thì dùng kháng sinh Penicyline, Streptomycine... tiêm thêm Vitamin
C và các thuốc chống viêm, tăng lực.
2. Bệnh tụ huyết trùng:
Nguyên nhân:
Do vi khuẩn, bệnh lây nhiễm qua thức ăn, nước uống, người và dụng cụ chăn nuôi, thú y.
Bệnh có thể tự phát do vi khuẩn ký sinh sẵn trong đường hô hấp của bò.
Triệu chứng:
Bò ngưng nhai lại bỏ ăn sau đó chướng hơi và nước miếng, nước mũi chảy nhiều, nhiệt
độ cơ thể sốt cao: 41- 42,5oC, con bò thở mạnh, mắt đỏ, phân thường có máu tươi do
xuất huyết ruột, nước tiểu đỏ hơi vàng và có mùi khai đặc biệt. Ở thể nặng con bò có thể
liệt một chân hoặc toàn thân.
Bệnh tích:
Thịt có nhiều nước và đỏ tím, toàn bộ hạch lâm ra đều tụ huyết và sưng đen, phổi tụ huyết
đen. Trong khí quản, phế quản có bọt nước nhiều, tim xuất huyết, xoang bao tim có tích
nước vàng.
Phòng bệnh:
Tiêm phòng bằng vacxin tụ huyết trùng loại keo phèn 2ml/1 con cho bò từ 6 tháng tuổi trở
lên, bò chữa từ tháng thứ 4 trở đi đều tiêm được. Định kỳ 1 năm 2 lần.
Trị bệnh:
Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời bò sẽ khỏi ở tỷ lệ cao. Dùng kháng sinh đặc trị
Gram âm như Streptomycine tiêm bắp liều 30mg/1kg thể trọng ngày 2 lần, liệu trình 3-5
ngày hoặc Kanamycine, Gentamycine, Teracyline... Khi tiêm kháng sinh kết hợp tiêm

thuốc hạ nhiệt Anagin, trợ lực Vitamin C, Gluconat Canxi, ADE Bcomplex, trợ tim
Strychirin B1, Cophora...
Trong quá trình điều trị cần chăm sóc bò tốt và cách ly bò bệnh ra khỏi đàn để điều trị.
3. Hội chứng ỉa chảy ở bê nghé:
Ỉa chảy là một vấn đề nan giải và thường gặp ở gia súc non và do nhiều nguyên nhân gây
ra: vi khuẩn, virus, thức ăn, nước uống, khí hậu...sau đây là một số vấn đề thường gặp.
a.Bệnh ỉa chảy ở bê kèm theo nhiễm trùng huyết:
Gây ra do một nhóm virus có độc lực cao gây ỉa chảy và viêm phổi. Bê có thể nhiễm loại
virus này rất sớm, đặc biệt có thể do nhiễm trùng cấp tính 12-96 giờ sau khi sinh, đôi khi
chưa kịp xuất hiện triệu chứng ỉa chảy... Triệu chứng ỉa chảy xuất hiện từ 4 ngày đến 20
ngày, kèm theo có triệu chứng viêm phổi.
Phòng bệnh:


Loại này chủ yếu là vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, vú mẹ, vệ sinh thức ăn, nước uống và bổ
sung Vitamin A hoặc dùng Sulfonamides và kháng sinh phòng sau 10 ngày.
Điều trị:
Tiếp nước sinh lý và dung dịch điện giải cho bê từ 500-1000ml/1con, tốc độ tiếp 1-2ml/1
phút. Dùng dung dịch điện giải: NaCL: 5,5g/lít, CaCL2: 0,3; MgCl-H2O: 0,3g...
Điều trị bằng kháng sinh: cho uống Streptomycine (1g) nên nhắc lại sau 12 giờ, uống
Oxytetramycine 250mg-500mg nhắc lại sau 6-12 giờ.
b. Ỉa chảy do vi khuẩn Samonella:
Bệnh thường nhiễm Samonella với tỷ lệ lớn, nó có thể là một yếu tố độc lập hoặc kết hợp
gây nên ỉa chảy ở bê nghé.
Triệu chứng:
Chủ yếu là gây ỉa chảy, mất nước, có thể chết sau vài giờ đến vài ngày nếu không điều trị
kịp thời.
Phát hiện bằng cách nuôi cấy bệnh phẩm phân trong môi trường nuôi cấy đặc biệt.
Điều trị:
Tốt nhất là Sulfathalidine với liều cao hoặc Chloramphenicol liều 500-1500mg cho 1 bê

uống trong 1 ngày, bê uống liên tục 3-5 ngày.
c. Bệnh cầu trùng bê nghé:
Đây là bệnh ký sinh trùng gây ra do một loại đơn bào ký sinh trong niêm mạc đường tiêu
hoá, thuộc họ Eimeria, nó có tới ít nhất là 10 loài Eimeria gây bệnh cho bê, nghé. Hai loài
có độc lực quan trọng nhất là Eimeria zureui và E. bovis.
Bệnh gây thiệt hại kinh tế lớn do ỉa chảy nặng có máu màng nhầy, gia súc còi cọc, chậm
sinh trưởng và phát triển. Gia súc thường mắc bệnh sớm sau 2-3 tuần đến 6 tháng tuổi.
Bệnh này gây tổn thương niêm mạc ruột và mạch máu ruột. Gây ỉa chảy nặng nề kèm
theo máu và màng nhầy.
Điều trị:
Dùng Sulfonamides, như: Sulfaguinoxaline, Sulfamethazine, Sulfadimedine... liều lượng
50-60mg/kg P dùng liên tục trong 3-5 ngày.
Có thể dùng Furazolidon liều 15-20mg/1kg P liên tục trong 3 ngày.
d. Bệnh giun đũa bê nghé:
Là loại bệnh do giun tròn Toxocarum vitunorum ký sinh ở ruột non bê nghé.
Thường hay mắc ở bê nghé 15-65 ngày tuổi, với triệu chứng điển hình là phân trắng thối
khắm do sữa không tiêu.
Đây là bệnh thường xảy ra, nhất là vào mùa mưa rét ở miền núi. Bệnh nặng ở bê, nghé
gây thiệt hại lớn. Bê, nghé mắc bệnh thường dưới 4 tháng tuổi.
Bệnh lây lan trực tiếp do trứng có sức gây bệnh ô nhiễm trong chuồng trại, thức ăn nước
uống qua đường tiêu hoá vào niêm mạc ruột theo hệ thống tuần hoàn lên gan, phổi đi
khắp cơ thể rồi trở về ký sinh ở ruột (hoàn thành vòng đời trong 6 tuần). Bệnh cũng có thể
lây lan qua bào thai, trong quá trình di hành của ấu trùng trong hệ tuần hoàn và vào tử
cung qua bào thai.
Bệnh có thể làm tổn thương niêm mạc ruột, mạch quản và các cơ quan mà ấu trùng đi
qua. Khi giun trưởng thành có thể làm tắc ruột, tắc ống mật.
Triệu chứng:
Biểu hiện rõ nhất là đi phân trắng, đầu tiên con vật lờ đờ, kém ăn. Khi nặng con vật bỏ ăn
nằm một chỗ, đau bụng, phân lỏng màu trắng, mùi khắm. Con vật sốt 40-41oC, có triệu
chứng thần kinh.

Điều trị:
Tẩy giun đũa cho bê, nghé bị bệnh bằng các loại thuốc sau:
+ Piperazin Sunfat liều 0,5g/kg P.
+ Medevet liều 200mg/1kg P.
+ Levaneyzon liều 1ml/10kg P.
Nên áp dụng tẩy phòng cho bê nghé ở những vùng hay mắc bệnh vào ngày thứ 10-30-50


sau khi sinh.
4. Bệnh viêm khớp bê nghé:
Xảy ra ở bê nghé sau khi sinh 1 tháng, trâu bò lớn cũng bị nhưng ít.
Nguyên nhân:
- Do bị té ngã làm xây xát các khớp -viêm khớp.
- Do kế phát các bệnh viêm rốn, viêm tử cung... Vi khuẩn vào máu di căn tới khớp gây
viêm.
Triệu chứng:
Thường thấy ở khớp gối sưng to sờ vào thấy cứng hoặc mềm, đi đứng cà nhắc và ít đi lại.
Điều trị:
Nếu bóp thấy mềm nhũn ra dùng kim 14 chọc dò có mủ không, nếu có mủ phải giải phẫu
lấy mủ ra và bơm rửa lại bằng nước sinh lý 9‰. Sau đó sát trùng bằng thuốc đỏ và băng
lại (nếu vết mở rộng).
Nếu mới sưng chưa có mủ ta tiêm thuốc:
- Chlotetraol tiêm bắp, hoặc xung quanh ở khớp đã bị với liều 1ml/5kg P/1 ngày liên tục 34 ngày.
- Vitamin C (ống 500mg). Bê nghé 3-4 ống/1 lần/1 ngày, trâu bò 6-8 ống/1 lần/ 1 ngày.
Hoặc dùng Penicyline 15000 - 30000 UI/ 1 kg P ngày 2 lần, chích liên tục 3-5 ngày.
- Kết hợp tiêm ADE Bcomplex, Dexavet.
Ngoài ra còn có thể dùng một số loại kháng sinh khác: Neoxin Tylan 50, Suanovil,
Novocin, Erythromycine...

Nuôi bò thịt chất lượng cao

Muốn chăn nuôi bò thịt đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, cần quan
tâm đến những vấn đề cơ bản như: Giống, tuổi, giới tính, khối lượng lúc giết mổ, dinh
dưỡng và phương thức vỗ béo.
1. Giống: Giống là một trong những vấn đề quan trọng nhất. Giống khác nhau thì tốc độ
sinh trưởng, phát triển, tích lũy thịt, mỡ khác nhau: Con lai của bò Charolaise có tỷ lệ thịt
xẻ cao hơn con lai của bò Hereford và ngược lại, tổ chức mỡ của thịt bò Charolaise thấp
hơn thịt bò Hereford. Bò vàng Việt Nam có tỷ lệ thịt xẻ là 42%, tỷ lệ thịt tinh là 31%, trong
khi đó bò thịt Charolaise có tỷ lệ thịt xẻ 60%, tỷ lệ thịt tinh là 45%.
Hiện nay trên thế giới nhiều giống bò có tỷ lệ thịt xẻ tới 70%, tỷ lệ thịt tinh trên 50%, giá trị
dinh dưỡng thịt rất cao và rất thơm, ngon. Ngoài các giống bò chuyên thịt, ở các cơ sở
chăn nuôi bò sữa, người ta cũng chọn lọc những bê đực khỏe mạnh đưa vào nuôi dưỡng
với một chế độ thích hợp để vỗ béo và giết mổ. Đây cũng là những nguồn cung cấp sản
phẩm thịt bò chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng thịt bò.
2. Tuổi: Trong quy trình vỗ béo và giết mổ, hiện nay người ta thường nuôi bò từ 16 – 24
tháng tuổi với quy trình công nghệ cao để giết mổ.
Tuổi giết mổ khác nhau thì chất lượng thịt cũng khác nhau: Bê và bò tơ cho thịt màu nhạt,
ít mỡ, thịt mềm và thơm ngon hơn. Bò lớn tuổi cho thịt màu đỏ, đậm, nhiều mỡ, thịt dai
hơn và tất nhiên là không thơm ngon bằng thịt bê tơ. Tỷ lệ các cơ quan nội tạng sẽ giảm
theo tuổi và ngược lại độ béo sẽ tăng dần lên.
3. Giới tính: Thường thì bò cái thớ thịt nhỏ hơn bò đực, mô giữa các cơ ít hơn, thịt vị đậm
hơn, vỗ béo nhanh hơn. Ngược lại bò đực có tỷ lệ thịt xẻ cao hơn bò cái cùng độ tuổi vì
bò cái có cơ quan sinh dục phát triển hơn bò đực. Trong quy trình vỗ béo người ta có thể
thiến bò đực lúc 7 – 12 tháng tuổi để vỗ béo, nếu bò thiến sớm để vỗ béo thì thịt bò sẽ
mềm hơn và béo nhanh hơn.
4. Khối lượng lúc giết mổ: Khối lượng bò đưa vào giết mổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: Giống, khả năng tăng trọng, thời điểm tích lũy nạc lớn nhất, chế độ nuôi dưỡng, hệ
số tiêu tốn thức ăn, thị trường và giá cả...
5. Dinh dưỡng và phương thức vỗ béo : Kỹ thuật chăn nuôi thâm canh bò thịt hiện nay



là chọn lọc những bê khỏe mạnh của các giống cao sản chuyên thịt, đưa vào nuôi dưỡng
với chế độ thâm canh cao để đạt được khối lượng giết mổ cao nhất ở giai đoạn bê sinh
trưởng với cường độ cao nhất (dưới 24 tháng tuổi). Các khẩu phần ăn khác nhau sẽ cho
tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh khác nhau khi giết mổ.
Dù vỗ béo theo phương thức nào, vỗ béo sớm hay vỗ béo muộn, đối với bò thịt trước khi
giết mổ bắt buộc phải có công đoạn vỗ béo. Vỗ béo là dùng biện pháp dinh dưỡng, chăm
sóc nuôi dưỡng làm cho khối lượng con vật tăng nhanh và phẩm chất thịt được cải thiện.
Thời gian vỗ béo tùy thuộc vào phương thức vỗ béo, thức ăn, giống, độ béo của bò. Thời
gian vỗ béo quá ngắn thì thịt sẽ nhiều nước, thời gian vỗ béo thích hợp thì chất lượng thịt
sẽ cao hơn.
Khẩu phần thức ăn vỗ béo cho bò giàu đạm và nhiều sắt thì thịt bò sẽ đỏ đậm, khẩu phần
thức ăn có nhiều bột bắp thì mỡ bò sẽ vàng, thịt thơm ngon và khẩu phần thức ăn có tỷ lệ
các phụ phẩm công nghiệp thì thịt bò có thớ lớn và nhiều mỡ giắt (mỡ giữa các lớp thịt).

Kỹ thuật chăn nuôi bê trong giai đoạn bú sữa
Thời gian bú sữa của bê hướng sữa ở nước ta khoảng từ 3-5 tháng, trong thời gian đó bê
hoàn thiện dần chức năng tiêu hoá dạ cỏ, do vậy việc sử dụng các loại thức ăn nuôi bê
cũng phải hướng theo các đặc điểm đó.
Sữa là loại thức ăn quan trọng của bê, sau khi sinh bê phải được bú sữa đầu 5-7 ngày, vì
sữa đầu không chỉ là nguồn thức ăn dễ tiêu hoá, thoả mãn các nhu cầu dinh dưỡng của
bê, mà còn cung cấp khả năng đề kháng của bê. Sữa đầu có hàm lượng MgSO4 cao,
hoạt động như là một chất tẩy nhẹ, tẩy "cứt su" làm sạch đường tiêu hoá. Độ chua của
sữa đầu cao ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh đường ruột. Đặc biệt sữa đầu
chứa Immunoglobulin cao (5,5-6,8%). Khoảng 24 giờ sau khi sinh, niêm mạc ruột hấp thu
nguyên vẹn Immunoglobulin vào máu và trở thành nguồn kháng thể đầu tiên trong máu bê
sơ sinh. Thêm vào đó sự biến đổi thành phần sữa đầu thường diễn ra nhanh chóng trong
bầu vú bò. Do vậy cần sử dụng tối đa các đặc điểm sinh học và hoá học đặc thù của sữa
đầu để nuôi bê sơ sinh.
Mỗi ngày có thể cho bê bú 4-5 lần sữa đầu, khối lượng sữa đầu mỗi lần cho bú không
vượt quá 6% khối lượng bê sơ sinh, tốt hơn nên cho bú trực tiếp sữa đầu ở bầu vú mẹ nó.

Trong trường hợp có nhiều bò mẹ đẻ cùng thời gian, việc hỗn hợp sữa đầu của nhiều con
mẹ với nhau cho bê bú sẽ nâng cao tác dụng bảo hộ của kháng thể trong sữa đầu so với
sữa đầu của bò mẹ riêng rẽ. Cần cho bê bú sữa đầu càng sớm càng tốt, chậm nhất cũng
không để quá một giờ sau khi sinh. Tuyệt đối không được thanh trùng sữa đầu bằng nhiệt,
vì sữa đầu sẽ bị đông đặc ở nhiệt độ khoảng 80 độ C trở lên.
2. Sử dụng sữa thường nuôi bê
Lượng sữa thường dùng nuôi bê phụ thuộc vào định hướng phát triển của đàn bê và chất
lượng sữa thay thế nếu có. Các nhà chăn nuôi nước ta cung cấp cho bê cái Holstein
Friesian khoảng 400-420kg sữa nguyên trong vòng 4-4,5 tháng, cho bê lai Holstein
Friesian khoảng 250-300kg trong vòng 3 tháng. Trước khi bê sử dụng được thức ăn tinh
và thức ăn thô, sữa nguyên chất và sữa thay thế (nếu có) là loại thức ăn duy nhất thoả
mãn nhu cầu dinh dưỡng của bê, việc tính toán khối lượng sữa hàng ngày phụ thuộc vào
kế hoạch sinh trưởng của bê. Sau 3-4 tuần tuổi, lượng sữa cung cấp hàng ngày dần dần
giảm xuống, đạt mức thấp nhất vào thời điểm cai sữa.
Khi cho bê ăn sữa nguyên chất hoặc sữa thay thế, cần giữ vệ sinh sạch sẽ, đảm bảo cho
bê nuốt sữa từ từ (dung lượng sữa mỗi lần nuốt không vượt quá 30ml) để tránh sữa trào
vào dạ cỏ. Nhiệt độ sữa cho bú có thể khác nhau, nhưng không được thay đổi đột ngột.
Cũng cần cố định giờ cho bú sữa hàng ngày.
3. Sữa thay thế
Để tiết kiệm sữa nguyên, người chăn nuôi có thể chế biến sưa thay thế nuôi bê. Sữa thay
thế tốt phải có đặc điểm sinh học gần giống sữa nguyên và có thể sử dụng sớm cùng với
sữa nguyên. Thành phần của sữa thay thế cần chứa 22% protein, 10% mỡ, 95% TDN,


4,19 Mcal/kg, 0,7% Ca, 0,5%P, 3797 UI vitamin A và các thành phần dinh dưỡng khác.
Mỡ trong sữa thay thế nên dùng dầu thực vật, vì chúng có nhiệt độ nóng chảy thấp (36 độ
C), đồng thời chứa tương đối phong phú các axit béo không no cần thiết như axit linoleic
và axit linolenic. Về kỹ thuật cần đặc biệt chú ý tới sự nhũ hoá bền vững của mữ trong
sữa thay thế khi hoà thành dạng nước cho bú.
Đường trong sữa thay thế: đường lacto có thể thay thế đường gluco. Tuy nhiên, những

nghiên cứu gần đây cho biết đường lacto trong sữa có thể thay thế bằng tinh bột thuỷ
phân. Bê có thể thích nghi với sự phân tiết đủ số lượng amylaza tuỵ và maltaza ruột non
để tiêu hoá tinh bột, nhưng men phân giải đường sucrose không nên dùng trong thành
phần sữa thay thế.
Protein trong sữa thay thế: Việc lựa chọn proein thay thế casein trong sữa thay thế gặp
một số khó khăn, có hai lý do sau đây:
Casein có đặc tính ngưng kết bông ở dạ khế do hoạt tính của men rennin.
Hoạt động của Proteaza trong dạ khế có tính đặc trưng với casein. Do đó việc lựa chọn
một loại protein thay thế casein trong sữa thay thế đã đựoc chú ý. Để vượt qua thuộc tính
không ngưng kết của protein, có thể dùng bột cá đã được thuỷ phân bằng papain. Trước
khi cho ăn, sữa thay thế được hoà tan với nước sạch (một phần sữa bột + 7 phần nước)
để tạo ra dung dịch chứa 12% vật chất khô tương đương sữa nguyên và được sử dụng
như sữa tươi bình thường. Người chăn nuôi thường sử dụng sữa nguyên nôi bê trong 2-3
tuần đầu sau đó chuyển sang dùng sữa thay thế. Dùng sữa thay thể thay sữa nguyên hạ
được giá thành sản phẩm và tăng lượng sữa nguyên cho tiêu dùng xã hội.
4. Thức ăn tinh hỗn hợp
Thức ăn tinh hỗn hợp dùng nuôi bê trong thời gian bú sữa chứa hàm lượng protein từ
16% trở lên, 80%TDN, 0,6%CA, 0,42 P và các thành phần dinh dưỡng khác. Thức ăn tinh
loại này có thể cung cấp cho bê ngay từ 1-2 tuần tuổi, lúc đầu bê tập ăn với số lượng rất
ít, sau đó tăng dần với số lượng thức ăn thô. Từ 3 tháng tuổi trở lên, bê chuyển sang ăn
các loại thức ăn tinh rẻ tiền hơn, hàm lượng protein thấp hơn.
5. Thức ăn thô
Cỏ khô là loại thức ăn tốt để nuôi bê, nên chọn cỏ khô loại tốt, tập cho bê ăn vào khoảng
10-15 ngày tuổi. Sau đó có thể dùng cỏ khô loại nào cũng được, nhưng tốt hơn nên chọn
loại cỏ khô thu hoạch vào giai đoạn cỏ bánh tẻ, có hàm lượng các chất dinh dưỡng cao
hơn, tính ngon miệng cao kích thích tính thích ăn của bê. Không cho bê ăn thức ăn ủ
xanh.
Cỏ tươi sử dụng thay thế cỏ khô hoặc cho ăn cùng với cỏ khô đạt kết quả tốt. Tuy nhiên
cần chú ý ngăn ngừa tác hại của ký sinh trùng khi bê ăn trên đồng cỏ, tốt hơn là tránh
chăn thả bê vào khu vự dùng cho bò trưởng thành.

6. Trong những tháng tuổi đầu tiên , sự hoạt động của hệ vi sinh vật trong dạ cỏ thấp,
nên tất cả các loại vitamin cần thiết cho hoạt động sống của bê cần được cung cấp từ
thức ăn. Trong những ngày đầu sau khi sinh, nên định kỳ cung cấp cho bê các capsule,
hoặc các loại thức ăn bổ sung đặc biệt chứa vitamin A, D, E và có thể có các chất kháng
sinh. Khi bê được đưa ra tắm nắng đầy đủ hoặc được ăn cỏ phơi khô bằng ánh nắng mặt
trời thì không cần cung cấp vitamin D. Trong các trường hợp đặc biệt ở những vùng thiếu
selenium hoặc các axit không no trong thức ăn, cần thiết phải bổ sung vitamin E.

Kỹ thuật vỗ béo Bò lấy thịt trên cơ sở nguồn thức ăn tại địa phương
Trong những năm qua, được sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và trong nước về phát
triển chăn nuôi bò thịt, hàng ngàn bê lai hướng thịt được sinh ra và đã cung cấp một số
lượng thịt bò lớn cho xã hội.
Miền Trung và Tây nguyên là khu vực có tiềm năng lớn để phát triển chăn nuôi, đặc biệt là


chăn nuôi bò. Tại khu vực này có tói 1,4 triệu con, chiếm trên 40% đàn bò toàn quốc. Đàn
bò được nuôi chủ yếu nhằm mục tiêu sinh sản và lầy thịt.
Trong những năm qua, được sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và trong nước về phát
triển chăn nuôi bò thịt, hàng ngàn bê lai hướng thịt được sinh ra và đã cung cấp một số
lượng thịt bò lớn cho xã hội.
Ở nước ta trong khuôn khổ của chương trình phát triển chăn nuôi quốc gia KN.02.06 và
dự án phát triển chăn nuôi bò thịt VIE86/008, nhiều thí nghiệm theo dõi về khả năng phát
triển của bê lai hướng thịt đã được triển khai. Bê lai hường thịt có khả năng tăng
568g/ngày vào lúc 15 tháng tuổi trên cơ sở khẩu phần ăn có bổ sung. Sử dụng nguồn
thức ăn là phế phụ phẩm nông nghiệp để vỗ béo bò lai hướng thịt đã đạt tăng trọng
800g/ngày ở tháng vỗ béo thứ nhất (GS. Lê Viết Ly, PTS. Vũ Văn Nội, và cộng sự, 1995).
Tuy nhiên cho đến nay tỷ trọng về số lượng bê lai hướng thịt so với tổng đàn bò trong
toàn quốc vẫn còn chiếm một tỷ lệ thấp.
Nguồn thịt bò cung cấp cho nhu cầu của xã hội hiện nay chủ yếu là những bò loại thải có
thẻ trạng yếu. Vì thế những bò đem giết thịt có tỉ lệ thịt xẻ thấp, chất lượng thịt kém. Hàng

năm tại khu vực miền Trung và Tây nguyên có từ 130-150 ngàn bò loại thải được bán giết
thịt. Giả thiết rằng với số lượng bò như trên được nuôi béo trước khi bán thịt thì số lượng
và chất lượng thịt bò được tăng lên đáng kể.
Ở Trung Quốc việc sử dụng các loại phụ phế phẩm nông nghiệp để nuôi bò thịt đã được
phổ biến từ những năm 1980. Trong năm 1992 có tới 6 triệu tấn rơm ủ ure được dùng làm
thức ăn cho bò lấy thịt. Lượng rơm ủ ure được sử dụng từ 2-4kg cho mỗi đầu gia
súc/ngày đêm. Ngoài ra khô dầu bông cũng được sử dụng để vỗ béo bò. Việc sử dụng
các phế phụ phẩm nông nghiệp để nuôi bò thịt ở Trung quốc đã mang lại lựoi nhuận từ
300-524 nhân dân tệ/1 đầu gia súc.
Trước tình hình nhu cầu về thịt ngày càng tăng của xã hội, xem xét tiềm năng to lớn về
nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương, việc sử dụng phế phụ phẩm để vỗ béo bò trước khi
giết thịt trong thời gian 60-90 ngày để tăng sản lượng thịt và tăng thu nhập cho người
chăn nuôi là một yêu cầu được đặt ra. Chính vì vậy, chúng tôi triển khai đề tài: "Nghiên
cứu kỹ thuật vỗ béo bò lấy thịt trên cơ sở sử dụng nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương".
Kỹ thuật chăm sóc Bò đực giống và Bê lai
I.

Kỹ

thuật

chăm

sóc



đực

giống:


+Trong quá trình nuôi dưỡng bò đực giống phải tuân thủ nguyên tắc nuôi dưỡng tốt ngay từ đầu.
Không để nhiệt độ chuồng nuôi quá cao, về mùa nắng có thể tắm cho bò đực giống và giờ nóng cao
điểm và áp dụng biện pháp tắm phun.
+ Thường xuyên cho bò đực giống vận động 1-2 lần/ngày trên quãng đường dài tối thiểu 5km, mục
đích rèn luyện cơ xương và giãn căng thần kinh.
+ Nguời chăn dắt giữ cho bò phải thân thiện với bò đực giống để tránh tai nạn do bò đực giống gây
ra.
+ Chải lông 1-2lần/ngày để vệ sinh và tạo kích thích phi sinh dục.
+ Định kỳ sửa móng và diệt ký sinh trùng ngoài da cho bò đực giống.
+ Tổ chức huấn luyện và theo dõi bò nhảy giá.
+ Chuồng bò đực giống phải nhốt riêng có diện tích tối thiểu 2 x 2,5m.
+ Cho bò đực giống ăn uống đầy đủ cả chất lượng và số lượng, đảm bảo sức khoẻ và kiểm tra sức


khoẻ định kỳ cho bò đực giống.
+ Đối với bò đực nhảy trực tiếp phải có sổ ghi chép ngày giờ và bò cái được phối giống nhằm có
điều
kiện
theo
dõi
đời
con.
II.

Kỹ

thuật

chăm


sóc



lai:

+ Từ sơ sinh đến 30 ngày tuổi cho bê ở nhà cạnh bò mẹ. Bê giai đoạn này cần được giữ ấm, tránh
gió lùa, chỗ ở của bê phải khô ráo sạch sẽ. Thời gian này thức ăn của bê là hoàn toàn bằng sữa mẹ.
+ Khi bê trên 1 tháng tuổi chăn thả theo mẹ ở các bãi cỏ gần chuồng và tập cho bê ăn thức ăn tinh:
cháo, củ, quả...
+ Từ 3-6 tháng tuổi cho ăn 5-10kg cỏ tươi và 0,2kg thức ăn tinh, cho bê bú tự do.
+ Nên cai sữa bê lúc 6 tháng tuổi.
Khi bê được 6-24 tháng tuổi: Chăn thả là chính, mỗi ngày bê ăn 10-20kg cỏ tươi và ăn thêm các loại
khác: ngọn mía, cây ngô non, củ quả và 0,2-0,4kg mật đường.
+ Cho bê uống nước đủ và sạch.
+
III.

Chú

ý
Một

các

bệnh
số

ỉa


chảy

bệnh



viêm

thường

phổi

gặp

cho

bê.



bò:

1. Bệnh lỡ mồm long móng: Đây là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm của nhiều loài gia súc có móng
guốc như: trâu, bò, dĩ, hươu, nai, lợn...
Bệnh do một loại siêu vi trùng gây ra, loại virus này có nhiều type, nhiều chủng. Bệnh lây lan nhanh
và hậu quả rất lớn: gia súc non chết 50-60%, gia súc cày kéo mất sức, gia súc cho sữa giảm tiết sữa.
Việc chữa bệnh và chăm sóc rất tốn kém.
Triệu


chứng:

Thời gian nung bệnh từ 2-5 ngày, khi mới bắt đầu xuất hiện bò ủ rũ, lông dựng, sốt nhẹ, đi đứng
khó khăn chậm chạp. Bệnh gây nhiều mụn nước ở lợi, vòm họng, vú, kẻ móng chân. Do viêm
miệng nên con vật bị sốt, miệng thường sùi bọt như bọt bia.
Mụn nước lớn dần và vỡ ra. Sau 1-2 ngày sau khi mụn vỡ các vết loét ở miệng, chân làm gia súc
không ăn được và bị què. Các vết loét tiếp xúc với đất nước bẩn rất dễ bị nhiễm trùng, bị nặng
móng
chân
của

hở
ra,

con
bị
lọt
cả
móng
ra
ngoài.
Bệnh

tích:

Ở đường tiêu hoá niêm mạc có mụn loét, mép chân, răng, lưỡi, thực quản, dạ mũi khế, dạ cỏ, ruột
non có những mảng xuất huyết tụ máu. Đường hô hấp: Viêm phế quản, phổi, cuống phổi, cơ tim
biến chất, dĩ mềm nát, có vết xám trắng nhạt hay vàng nhạt, màng tim chứa nước, lách sưng đen,
chân


mụn
loét.
Phòng

trừ



trị

bệnh

Phòng
+
Khi
nghi

bệnh
phải
Vùng có bệnh cũ phải tiêm vacxin hàng năm.

bệnh:
báo

+ Cách ly triệt để trâu, bò bị bệnh cho đến khi khỏi hẳn.

ngay

cho


cán

bộ

thú

y.


+ Tiêu độc hàng ngày chuồng nuôi, chất thải của gia súc bị bệnh, dụng cụ chăn nuôi bằng vôi bột,
Formon,
nước
sôi,
xút...
Chữa

bệnh:

Dùng dung dịch thuốc tím 0,1% hoặc giấm chua, nước chanh, khế, nước muối rửa các vết loét hàng
ngày, liên tục 4-5 ngày. Các vết loét ở chân có thể dùng bàn chải chà rửa sạch đất, cắt bỏ da chết.
Nếu nhiễm trùng nặng thì dùng kháng sinh Penicyline, Streptomycine... tiêm thêm Vitamin C và
các
thuốc
chống
viêm,
tăng
lực.
2.

Bệnh


tụ

huyết

trùng:

Nguyên

nhân:

Do vi khuẩn, bệnh lây nhiễm qua thức ăn, nước uống, người và dụng cụ chăn nuôi, thú y. Bệnh có
thể tự phát do vi khuẩn ký sinh sẵn trong đường hô hấp của bò.
Triệu chứng:
Bò ngưng nhai lại bỏ ăn sau đó chướng hơi và nước miếng, nước mũi chảy nhiều, nhiệt độ cơ thể
sốt cao: 41- 42,5oC, con bò thở mạnh, mắt đỏ, phân thường có máu tươi do xuất huyết ruột, nước
tiểu đỏ hơi vàng và có mùi khai đặc biệt. Ở thể nặng con bò có thể liệt một chân hoặc toàn thân.
Bệnh tích:
Thịt có nhiều nước và đỏ tím, toàn bộ hạch lâm ra đều tụ huyết và sưng đen, phổi tụ huyết đen.
Trong khí quản, phế quản có bọt nước nhiều, tim xuất huyết, xoang bao tim có tích nước vàng.
Phòng

bệnh:

Tiêm phòng bằng vacxin tụ huyết trùng loại keo phèn 2ml/1 con cho bò từ 6 tháng tuổi trở lên, bò
chữa từ tháng thứ 4 trở đi đều tiêm được. Định kỳ 1 năm 2 lần.
Trị bệnh:
Nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời bò sẽ khỏi ở tỷ lệ cao. Dùng kháng sinh đặc trị Gram âm như
Streptomycine tiêm bắp liều 30mg/1kg thể trọng ngày 2 lần, liệu trình 3-5 ngày hoặc Kanamycine,
Gentamycine, Teracyline... Khi tiêm kháng sinh kết hợp tiêm thuốc hạ nhiệt Anagin, trợ lực

Vitamin C, Gluconat Canxi, ADE Bcomplex, trợ tim Strychirin B1, Cophora...
Trong quá trình điều trị cần chăm sóc bò tốt và cách ly bò bệnh ra khỏi đàn để điều trị.
3.

Hội

chứng

ỉa

chảy





nghé:

Ỉa chảy là một vấn đề nan giải và thường gặp ở gia súc non và do nhiều nguyên nhân gây ra: vi
khuẩn, virus, thức ăn, nước uống, khí hậu...sau đây là một số vấn đề thường gặp.
a.Bệnh

ỉa

chảy






kèm

theo

nhiễm

trùng

huyết:

Gây ra do một nhóm virus có độc lực cao gây ỉa chảy và viêm phổi. Bê có thể nhiễm loại virus này
rất sớm, đặc biệt có thể do nhiễm trùng cấp tính 12-96 giờ sau khi sinh, đôi khi chưa kịp xuất hiện
triệu chứng ỉa chảy... Triệu chứng ỉa chảy xuất hiện từ 4 ngày đến 20 ngày, kèm theo có triệu chứng
viêm phổi.
Phòng bệnh:


Loại này chủ yếu là vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, vú mẹ, vệ sinh thức ăn, nước uống và bổ sung
Vitamin A hoặc dùng Sulfonamides và kháng sinh phòng sau 10 ngày.
Điều

trị:

Tiếp nước sinh lý và dung dịch điện giải cho bê từ 500-1000ml/1con, tốc độ tiếp 1-2ml/1 phút.
Dùng dung dịch điện giải: NaCL: 5,5g/lít, CaCL2: 0,3; MgCl-H2O: 0,3g...
Điều trị bằng kháng sinh: cho uống Streptomycine (1g) nên nhắc lại sau 12 giờ, uống
Oxytetramycine
250mg-500mg
nhắc
lại

sau
6-12
giờ.
b.

Ỉa

chảy

do

vi

khuẩn

Samonella:

Bệnh thường nhiễm Samonella với tỷ lệ lớn, nó có thể là một yếu tố độc lập hoặc kết hợp gây nên ỉa
chảy ở bê nghé.
Triệu chứng:
Chủ yếu là gây ỉa chảy, mất nước, có thể chết sau vài giờ đến vài ngày nếu không điều trị kịp thời.
Phát hiện bằng cách nuôi cấy bệnh phẩm phân trong môi trường nuôi cấy đặc biệt.
Điều trị:
Tốt nhất là Sulfathalidine với liều cao hoặc Chloramphenicol liều 500-1500mg cho 1 bê uống trong
1
ngày,

uống
liên
tục

3-5
ngày.
c.

Bệnh

cầu

trùng



nghé:

Đây là bệnh ký sinh trùng gây ra do một loại đơn bào ký sinh trong niêm mạc đường tiêu hoá, thuộc
họ Eimeria, nó có tới ít nhất là 10 loài Eimeria gây bệnh cho bê, nghé. Hai loài có độc lực quan
trọng nhất là Eimeria zureui và E. bovis.
Bệnh gây thiệt hại kinh tế lớn do ỉa chảy nặng có máu màng nhầy, gia súc còi cọc, chậm sinh
trưởng và phát triển. Gia súc thường mắc bệnh sớm sau 2-3 tuần đến 6 tháng tuổi. Bệnh này gây tổn
thương niêm mạc ruột và mạch máu ruột. Gây ỉa chảy nặng nề kèm theo máu và màng nhầy.
Điều trị:
Dùng Sulfonamides, như: Sulfaguinoxaline, Sulfamethazine, Sulfadimedine... liều lượng 5060mg/kg P dùng liên tục trong 3-5 ngày.

d.

thể

dùng

Furazolidon


Bệnh

liều
giun

15-20mg/1kg

P

liên

tục

đũa



trong

3

ngày.
nghé:

Là loại bệnh do giun tròn Toxocarum vitunorum ký sinh ở ruột non bê nghé.
Thường hay mắc ở bê nghé 15-65 ngày tuổi, với triệu chứng điển hình là phân trắng thối khắm do
sữa không tiêu.
Đây là bệnh thường xảy ra, nhất là vào mùa mưa rét ở miền núi. Bệnh nặng ở bê, nghé gây thiệt hại
lớn. Bê, nghé mắc bệnh thường dưới 4 tháng tuổi.

Bệnh lây lan trực tiếp do trứng có sức gây bệnh ô nhiễm trong chuồng trại, thức ăn nước uống qua
đường tiêu hoá vào niêm mạc ruột theo hệ thống tuần hoàn lên gan, phổi đi khắp cơ thể rồi trở về ký
sinh ở ruột (hoàn thành vòng đời trong 6 tuần). Bệnh cũng có thể lây lan qua bào thai, trong quá
trình di hành của ấu trùng trong hệ tuần hoàn và vào tử cung qua bào thai.
Bệnh có thể làm tổn thương niêm mạc ruột, mạch quản và các cơ quan mà ấu trùng đi qua. Khi giun
trưởng
thành

thể
làm
tắc
ruột,
tắc
ống
mật.


Triệu

chứng:

Biểu hiện rõ nhất là đi phân trắng, đầu tiên con vật lờ đờ, kém ăn. Khi nặng con vật bỏ ăn nằm một
chỗ, đau bụng, phân lỏng màu trắng, mùi khắm. Con vật sốt 40-41oC, có triệu chứng thần kinh.
Điều trị:
Tẩy giun đũa cho bê, nghé bị bệnh bằng các loại thuốc sau:
+ Piperazin Sunfat liều 0,5g/kg P.
+ Medevet liều 200mg/1kg P.
+ Levaneyzon liều 1ml/10kg P.
Nên áp dụng tẩy phòng cho bê nghé ở những vùng hay mắc bệnh vào ngày thứ 10-30-50 sau khi
sinh.

4.

Bệnh

viêm

khớp



nghé:

Xảy ra ở bê nghé sau khi sinh 1 tháng, trâu bò lớn cũng bị nhưng ít.
Nguyên

nhân:

- Do bị té ngã làm xây xát các khớp -viêm khớp.
- Do kế phát các bệnh viêm rốn, viêm tử cung... Vi khuẩn vào máu di căn tới khớp gây viêm.
Triệu

chứng:

Thường thấy ở khớp gối sưng to sờ vào thấy cứng hoặc mềm, đi đứng cà nhắc và ít đi lại.
Điều

trị:

Nếu bóp thấy mềm nhũn ra dùng kim 14 chọc dò có mủ không, nếu có mủ phải giải phẫu lấy mủ ra
và bơm rửa lại bằng nước sinh lý 9‰. Sau đó sát trùng bằng thuốc đỏ và băng lại (nếu vết mở

rộng).
Nếu mới sưng chưa có mủ ta tiêm thuốc:
- Chlotetraol tiêm bắp, hoặc xung quanh ở khớp đã bị với liều 1ml/5kg P/1 ngày liên tục 3-4 ngày.
- Vitamin C (ống 500mg). Bê nghé 3-4 ống/1 lần/1 ngày, trâu bò 6-8 ống/1 lần/ 1 ngày.
Hoặc dùng Penicyline 15000 - 30000 UI/ 1 kg P ngày 2 lần, chích liên tục 3-5 ngày.
- Kết hợp tiêm ADE Bcomplex, Dexavet.
Ngoài ra còn có thể dùng một số loại kháng sinh khác: Neoxin Tylan 50, Suanovil, Novocin,
Erythromycine...

KỸ THUẬT CHĂM SÓC VÀ NUÔI DƯỠNG BÊ, NGHÉ BÚ SỮA
Thời kỳ bê, nghé bú sữa dài ngày hay ngắn ngày tùy thuộc vào hướng nuôi dưỡng và
mục đích lấy sản phẩm.
Sau khi nuôi tại nhà hộ sinh 7 – 10 ngày, bê, nghé được chuyển sang nuôi theo chế độ bú
sữa. Đối với trường hợp chăn nuôi bò lấy sữa thì những bê đực thương phẩm không
được nuôi tiếp sữa mà giết thịt hoặc bán lại cho những người nuôi vỗ béo bằng sữa thay


thế.
Thời gian nuôi bê, nghé giai đoạn bú sữa có thể kéo dài từ 3 đến 6 tháng. Lượng sữa
nguyên sử dụng trong giai đoạn này có thể từ 300 đến 500 kg đối với bê, nghé cái và từ
400 đến 600 kg đối với bê, nghé đực. Nói chung, những bê, nghé đực và cái được chọn
làm giống phải được ăn sữa nhiều hơn từ 50 – 60%. Trong một ngày đêm chỉ cần cho bê,
nghé ăn sữa hai lần ( sáng và chiều) sau mỗi lần vắt sữa. Sữa của tất cả trâu bò mẹ có
thể dùng cho tất cả bê, nghé con cần ăn sữa.
Sữa vắt xong nên cho bê, nghé ăn ngay để bảo đảm độ nhiệt cần thiết và không cần phải
hấp cách thuỷ. Nên cho bê, nghé ăn sữa trong sô. Sô cho bê, nghé ăn sữa phải được rửa
sạch và tráng nước sôi sau mỗi lần cho ăn. Cần tập cho bê, nghé ăn được sớm các loại
thức ăn bổ sung, nhất là thức ăn thô xanh. Việc nuôi dưỡng bê, nghé có kết quả tuỳ thuộc
vào việc huấn luyện cho chúng sớm tiếp nhận thức ăn thực vật. Bê nghé càng sớm ăn
được cỏ khô, cỏ xanh, cỏ ủ tươi, thức ăn tinh thì càng có điều kiện phát triển tốt vào thời

kỳ sau cai sữa. Bởi vì, việc sớm ăn thức ăn thực vật có tác dụng thúc đẩy sự phát triển hệ
thống tiêu hoá, đảm bảo tốt khả năng tiêu hoá các chất dinh dưỡng. Chính vì vậy, từ ngày
15 sau khi đẻ có thể tập cho bê, nghé ăn thức ăn tinh, từ ngày thứ 20, tập cho chúng ăn
cỏ khô và ngày thứ 30 tập cho ăn cỏ non, cỏ ủ tươi.
Nguyên tắc tập cho ăn thức ăn bổ sung là cho ăn từ ít đến nhiều. Thức ăn cho bê, nghé
phải sạch sẽ, phẩm chất tốt. Cần đảm bảo thường xuyên có nước uống sạch sẽ, đầy đủ.
Tốt nhất là bố trí máng thức ăn tinh, máng cỏ khô và máng nước ngoài sân chơi để bê,
nghé có thể tự do liếm láp ngay từ ngày đầu.
Hiện nay, trong kỹ thuật nuôi dưỡng nghé cũng như nuôi bê sữa dưới 6 tháng tuổi, người
ta có xu hướng giảm lượng sữa tươi, thời gian ăn sữa rút ngắn xuống 3-4 tháng, đồng
thời tập cho bê, nghé ăn các loại thức ăn cỏ xanh, củ quả và thức ăn tinh. Việc giảm tiêu
chuẩn sữa nguyên đến mức tối thiểu dần đến chậm tăng khối lượng cơ thể vào thời kỳ
đầu của bê, nghé, nhưng về sau có sự bù trừ để tới lúc bê, nghé đạt 12 – 18 tháng tuổi lại
phát triển bình thường.
Trong điều kiện trâu bò trong các gia đình để lấy thịt hoặc sử dụng sức kéo, có thể để bê,
nghé trực tiếp bú mẹ những cũng cần lưu ý cho bê, nghé tập ăn hoặc chăn thả tự do trên
bãi chăn. Việc chăn thả trên bãi chăn ngoài vấn đề giúp bê, nghé có thể tự liếm láp, sớm
tập ăn còn tăng khả năng vận động , giúp cho quá trình trao đổi chất tăng và cơ thể thêm
rắn chắc, khoẻ mạnh.

Kỹ thuật nuôi dưỡng bê con
Trong chăn nuôi bò sinh sản, để có được bê con sau này lớn lên trở thành bò khoẻ mạnh
thì cần phải đảm bảo chăm sóc theo từng giai đoạn sau:
1 Chăm sóc bê ngay từ khi còn ở trong bụng mẹ:
Một bò cái có sinh lý tốt thì sẽ sinh ra một bê con khoẻ mạnh. Sự phát triển vượt bậc của
bào thai thường diễn ra vào 2 tháng cuối của thai kỳ, có nghĩa bò cái mang thai vào giai
đoạn này cần dinh dưỡng cao. Cần phải cạn sữa (ngưng vắt sữa) đối với bò mẹ mang
thai trước khi đẻ ít nhất là 60 ngày để bò mẹ tập trung dinh dưỡng cho giai đoạn phát triển
vượt bậc của bào thai, đồng thời bầu vú cần phải có thời gian nghỉ ngơi và phục hồi để có
thể tiếp tục SX sữa tốt cho chu kỳ SX sữa kế tiếp sau khi sinh bê con. Hầu hết các bò cái

vắt sữa vào cuối kỳ thường có trạng thái gầy còm, vì thế ta cần cung cấp đầy đủ thức ăn
để bò giữ được thể trạng bóng mượt trong suốt kỳ cạn sữa.
2. Chăm sóc bê trong lúc đẻ:
Lúc bò chuẩn bị đẻ ta phải luôn kiểm tra bầu vú nhằm phòng ngừa viêm vú để sau này
dễ kiểm soát và khống chế bệnh viêm vú sau khi đẻ của bò mẹ. Bầu vú sưng to và phát


triển chậm ở bò tơ và nhanh hơn ở bò dạ. Sự hình thành sữa đầu trong suốt 24 giờ trước
khi bò đẻ. Khâu đuôi sụp xuống, âm hộ sưng huyết, tất cả các dấu hiệu trên cho biết bò
đang trong giai đoạn đầu của tiến trình sinh đẻ...
3. Chăm sóc bê sơ sinh:
Điều quan trọng là bê sơ sinh phải được cho bú càng sớm càng tốt. Sữa đầu này rất
nhuận tràng, dễ tiêu hoá, hàm lượng vitamin A cao và có chứa kháng thể cần thiết cho bê
con, giúp cho bê con ít bị bệnh tật sau này. Bê con phải được bú lượng sữa đầu từ 6 - 12
lần ngày. Vì thế nếu ta tách bê con ngay sau khi sinh thì mỗi giờ sau bê con phải được bú
từ 1 - 1,5 lít sữa đầu.
Cần phải tách bê con khỏi bò mẹ sau khi sinh để tránh bò bị quấy nhiễu bởi bê con, bê
chưa bao giờ bú mẹ sẽ dễ tập bú bình hoặc uống bằng xô hơn. Làm như thế cũng xác
định được lượng sữa của bò mẹ. Bò mẹ không vướng bê con nên có thể nhập đàn trở lại.
* Các qui luật chung khi cho bê bú, uống sữa:
- Cho bê uống sữa theo đinh kỳ thời gian trong ngày.
- Lượng sữa các lần bê con uống bằng nhau.
- Không cho bê uống quá nhiều sữa, có nhiều bê bị chết do uống sữa quá nhiều hơn là bị
bỏ đói.
- Tính toán sao cho lượng sữa bê bú hàng ngày tương đương với 10% trọng lượng bê.
- Tất cả mọi thay đổi về thức ăn cho bê phải từ từ.
- Khi có bê nhốt chung trong chuồng thì phải lần lượt cho bê uống từng con một.
- Nước uống cho bê lúc nào cũng phải đầy đủ.
- Các dụng cụ cho bê uống, bú phải vệ sinh sạch sẽ và tiệt trùng.
* Phương pháp cho bê con ăn:

Nếu cho bê uống sữa bằng xô thì có khuynh hướng bê uống sữa quá nhanh gây quá tải
đối với dạ dày có thể gây nên rối loạn tiêu hoá, do đó cần phải cho bê uống từ từ.
Ta có thể tập cho bê uống sữa trong xô bằng cách đưa xô sữa vào gần miệng bê, rồi
nhúng tay vào sữa, sau đó đưa lên miệng cho bê bú và hạ thấp dần tay xuống để miệng
bê tiếp xúc với sữa, khi đó bỏ tay ra ngoài, như vậy bê có thể liếm sữa và tự uống.
Qui trình nuôi dưỡng và chăm sóc bê con:
Lượng sữa đầu cho con bú ít nhất là 4 lít/bê/ngày trong 2 ngày, mỗi lần uống khoảng 11,5lít. Nhằm đề phòng thiếu hụt kháng thể cho bê sơ sinh cần chú ý:
- Cạn sữa cho bò mang thai ít nhất 8 tuần trước khi đẻ.
- Tránh không vắt sữa cho bò trước khi đẻ
- Lượng sữa đầu dư của bò lức mới đẻ có thể được tồn trữ trong túi Plastic trong ngăn
lạnh.
- Nếu vì một lý do nào đó không có sữa đầu cho bê sơ sinh thì có thể dùng cách sau:
* Đánh một quả trứng với khoảng 0,85 lít sữa nguyên, thêm vào 0,28lít nước ấm với một
muỗng canh dầu gan cá và một muỗng dầu hải ly. Cho bê ăn hỗn hợp này 3 lần/ngày
trong vòng 4 ngày, loại bỏ dầu hải ly khi quan sát thấy bê tiêu ra phân bình thường.
Vitamin A có thể cung cấp bằng cách tiêm một liều 250.000 - 500.000 đơn vị, rồi sau đó
cho bê uống vita- min A 5.000 đơn vị/ngày trong 5 ngày.


* Sữa nguyên: Thông thường bê sẽ phát triển tốt nếu như chúng được ăn sữa nguyên ít
nhất từ 2 -3 tuần đầu hoặc lâu hơn. Qui luật chủ yếu để xác định lượng sữa nguyên cho
bê (hoặc lượng dung dịch dinh dưỡng thay thế) hàng ngày là bằng 10% trọng lượng của
cơ thể bê. Lượng tối đa có thể cho bú thường là vào tuần tuổi thứ 3 - 6. Rồi sau đó lượng
sữa sẽ giảm dần cho đến khi cai sữa hoàn toàn cho bê. Trong trường họp bê phát triển
yếu kém, thời gian cho ăn sữa kéo dài hơn bình thường.
Hỗn hợp thức ăn cho bê tập ăn
Hỗn hợp thức ăn cho bê tập ăn ở dạng khô, vụn hoặc thức ăn viên với thành phần hỗn
hợp đầy đủ chất dinh dưỡng, lượng đạm 16 - 20%, không cần thiết phải có đạm có nguồi
gốc động vật, nhưng cần có đạm chất lượng cao khi phối hợp hỗn hợp thức ăn tập ăn
cho bê. Thành phần nguyên liệu có thể gồm các nguyên liệu có sẵn như: Bắp, cám gạo, rỉ

mật, bột đậu nành, muối khoáng... Khi nuôi bê trong chuồng, lượng xơ cần trong thức ăn
tập ăn là 6 - 8%. Nếu khẩu phần ăn của bê không có cỏ khô thì tỷ lệ xơ cần cao hơn. Có
thể cho bê tập ăn vào ngày thứ 10 sau khi đẻ nhằm kích thích sự tiêu hoá của bê, sau đó
tăng dần lượng thức ăn tập ăn cho đến lượng tối đa 2kg/ngày cho đến 4 tháng tuổi. Sau
đó bê sẽ chuyển sang giai đoạn phát triển và sẽ được cho ăn cám hỗn hợp của bò trưởng
thành.
Cỏ khô:
Sự phát triển của bê con chỉ được nuôi bằng sữa và thức ăn tập ăn (tỷ lệ phát triển 20%
vào 2,5 tháng tuổi). Nên sử dụng lá cỏ khô nhỏ và nhuyễn cho bê con, tốt nhất là ngọn cỏ
(cỏ voi hoặc cỏ tự nhiên) đã phơi khô khoảng 1-2 giờ. Tuy nhiên lượng cỏ cho ăn phải giới
hạn cho đến khi bê có thể tiêu thụ 0,75kg thức ăn tập ăn/ngày. Nếu cho bê ăn cỏ mà thấy
bê không tiêu thụ hết lượng thức ăn tập ăn thì nên ngưng. Không cho ăn cỏ khô tiếp vì bê
sẽ không phát triển tốt khi khẩu phần chỉ là cỏ khô trong thời gian này. 2-3 tuần sau khi
sinh, nếu bê được cho ăn thức ăn tập ăn hoặc cỏ khô thì sự lên men sẽ hình thành trong
dạ cỏ bê 3-4 tuần tuổi. Đến 6- 8 tuần tuổi thì bê có thể tiêu thụ 0,25kg cỏ khô/ngày. Sau 3
tháng thì có thể cho bê ăn cỏ hoặc thức ăn thô xanh khác tự do.
Khoáng chất:
Hỗn hợp khoáng chất cung cấp 1% Đicanxin-photphat và 1% muối ăn thường được trộn
vào thức ăn tập ăn cho bê. Nếu trong thành phần thức ăn tập ăn cho bê không có khoáng
chất trên thì phải bổ sung hỗn hợp các loại khoáng trên bằng đá liếm.
Nuôi dưỡng bê trong vòng từ 3-12 tháng:
Sự lên men của các loại thức ăn khô trong dạ cỏ dạ tổ ong sẽ được hoàn thiện vào lúc 2
tháng tuổi. Khi bê 3 tháng tuổi có thể tiêu hoá các loại thức ăn thô xanh như bò trưởng
thành. Nếu bê không được cung cấp thức ăn thô xanh có chất lượng cao thì cần bổ sung
cám hỗn hợp trong khẩu phần ăn hàng ngày cho đến khi bê 1 tuổi. Thức ăn hỗn hợp có
12- 13% protein cùng với cỏ khô có chất lượng tốt hoặc thức ăn hỗn hợp có từ 15-16%
protein cùng với loại cỏ khô có chất lượng kém (hoặc cỏ ủ) cũng là khẩu phần thích hợp
cho bê ở giai đoạn này. Số lượng thức ăn hỗn hợp được giới hạn cho ăn là không quá
2kg/ngày rồi giảm dần sau 6 tháng tuổi khi mà bê có thể tiêu thụ thức ăn thô xanh để đáp
ứng phần lớn nhu cầu dinh dưỡng của nó. Lượng thức ăn thô xanh và lượng thức ăn hỗn

hợp sẽ được cân đối tuỳ theo thể trạng của bê. Nước uống luôn phải cung cấp đủ cho bê.
Sự phát triển của bê:
Khi bê con có trọng lượng trên 40kg được nuôi dưỡng với khẩu phần sữa tự do thì nó có
thể tăng trọng 0,9kg/ ngày. Qui trình cho ăn giới hạn sẽ giảm bớt tốc độ tăng trưởng của
bê tuỳ theo mức độ dinh dưỡng đã cung cấp. Bê rất nhạy cảm với tỷ lệ béo có trong sữa
(bất kỳ thức uống thay thế sữa nào cũng phải có tỷ lệ béo từ 2,5 - 3%). Vì tỷ lệ chất béo
trong sữa rất khác nhau trong suốt thời gian vắt sữa (béo thấp trong các tia sữa đầu vì tỷ


lệ béo cao hơn vào cuối lúc vắt sữa). Vì thế chúng ta nên vắt sữa xong rồi mới cho bê
uống. Điều này giúp tránh được tình trạng thất thường của tỷ lệ chất béo trong sữa cho bê
uống (chú ý là không bao giờ cho bê uống sữa hoà chung với nước).
Cai sữa:
Có thể cai sữa hoàn toàn cho bê khi:
a) Bê đã ăn được ít nhất 80gr thức ăn hỗn hợp/ngày, cỏ và nước uống tự do.
b) Trọng lượng đạt khoảng 65-75kg (có vòng ngực là 90 - 95cm).
c) Vào khoảng 8-10 tuần tuổi trở lên.
Chăm sóc và nuôi dưỡng bê sữa
Theo đánh giá của các nhà khoa học chuyên về bò sữa, kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng
bê ngay sau khi sinh là yếu tố rất quan trọng, khẳng định sự thành bại đi liền với các yếu
tố như: Nuôi dưỡng tốt, vệ sinh tốt, tiêm phòng đầy đủ các bệnh, định kỳ tẩy ký sinh trùng
đối với bê. Cụ thể, ngay khi bò sinh ra bê con nên để bò đẻ tự nhiên (trừ trường họp thai
lớn phải can thiệp). Bê đẻ ra phải được lau khô, cắt rốn, bóc màng dương bao quanh cơ
thể. Sau khi đẻ cần cho bê bú ngay và bú hết sữa đầu trong vòng 3-4 ngày, sau đó cho bê
bú bình thường. Sữa đầu có vai trò rất quan trọng vì lượng chất dinh dưỡng cao và đặc
biệt là hàm lượng chất kháng thể rất cao (6%). Không những bê được bú sữa đầu sẽ
khỏe mạnh, lớn nhanh và đề kháng tốt mà còn giúp tẩy sạch những cặn bã tích tụ trong
đường tiêu hóa (phân xu). Giai đoạn này cần phải cho bê bú sữa đầu càng sớm càng tốt,
vì bê chỉ có khả năng hấp thụ chất kháng thể trong sữa đầu trong vòng 36 giờ sau khi sinh
và sau đó giảm nhanh. Vì đây là giai đoạn bê được nuôi bằng sữa mẹ nên đối với bò lai

sind cần nuôi bò mẹ tốt để có đủ lượng sữa cho bê. Sau đó, để đáp ứng yêu cầu phát
triển của bê và tạo điều kiện cho việc cai sữa cần tập cho bê ăn sớm từ lúc 7 ngày tuổi
bằng cách pha sữa kết hợp với thức ăn tinh và sau 2 tuần có thể tập cho bê làm quen với
cỏ khô. Theo cạch này sẽ giúp cho việc cai sữa sớm ở giai đoạn 3 tháng tuổi, thay vì 4-6
tháng, đồng thời tiết kiệm được một lượng sữa lớn khoảng 100kg/con.Trong trường hợp
áp dụng quy trình nuôi bê tách mẹ (không cho bê bú trực tiếp) mà hoàn toàn được nuôi
dưỡng, chăm sóc bởi người chăn nuôi sẽ có các thuận lợi như: Bê được nuôi dưỡng theo
tính toán của chủ hộ; có thể biết chính xác sản lượng sữa thực tế của bò mẹ và tiếp tục
cho sữa thường xuyên; mau chóng lên giống và sinh sản lại. Thông thường sữa đầu sẽ
chuyển thành sữa thường vào 3-4 ngày sau khi đẻ. Vào ngày thứ 4 hoặc 5, lượng sữa
cho bê uống có thể tăng dần lên 5 kg/ngày. Lưu ý, quy trình nuôi dưỡng bê hướng sữa do
bê rất nhạy cảm với tỷ lệ béo có trong sữa (vì bất kỳ thức uống thay thế sữa nào cũng
phải có tỷ lệ béo từ 2,5-3%), hơn nữa do tỷ lệ béo trong sữa rất khác nhau trong suốt thời
gian vắt sữa nên vắt sữa xong rồi mới cho bê uống để tránh tình trạng thất thường của tỷ
lệ béo trong sữa cho bê uống. Đặc biệt chú ý không bao giờ cho bê uống sữa có hoà
chung với nước! Trong giai đoạn sau cai sữa, cần chăm sóc bê tốt. vì đây là giai đoạn
khủng hoảng của bê do ở giai đoạn chuyển chế độ nuôi dưỡng từ sữa mẹ sang thức ăn
thô xanh. Ngoài thời gian chăn thả ngoài đồng cũng cần bổ sung thêm thức ăn tinh có
chất lượng cao. Khi một bê con có khối lượng trên 40 kg được nuôi dưỡng với khẩu phần
sữa nguyên tự có thì nó có thể tăng trọng được 0,9 kg/ngày. Tuy nhiên, cũng không nên
nuôi bê quá mập sẽ ảnh hưởng đến sự phát dục của bê vì vậy cần cho ăn đúng mức để
bê đạt trọng lượng theo yêu cầu (3 tháng đạt 100 kg; 5 tháng đạt 150 kg: 8 tháng đạt 200
kg; 10 tháng đạt 250 kg; 12 tháng đạt 290 kg). Chui sừng cho bê trong điều kiện chăn nuôi
nông hộ không có dụng cụ chuyên dùng có thể dùng ống nước Æ121 dài 1m, nung đỏ để
chui. Khi chui tùy thuộc vào độ dày của da gốc sừng nên có thể tiến hành trong thời gian
từ 5-20giây, yêu cầu phải làm phỏng phần dưới da để tạo thành một vòng phỏng làm cho
máu không thể đến nuôi sừng được nữa, vết thương phải được sát trừng ngừa nhiễm
trùng, vết thương có màu nâu và khô là đạt.



Để bê phát triển tốt các nhà khoa học cũng nêu ra một số bệnh thường xảy ra đối với bê
như rối loạn tiêu hóa do ăn quá nhiều sữa, bệnh tiêu chảy do nhiễm trùng, do bò mẹ thiếu
vitamin A hoặc bê bị nhiễm ký sinh trùng. Ngoài ra, chủ hộ chăn nuôi cũng chú ý đến các
bệnh thương hàn, bệnh cầu trùng, bạch hầu, viêm phổi (cúm) xuất phát từ nguồn lây
nhiễm từ bò mẹ hay gia súc khác...
KỸ THUẬT CHĂN NUÔI
BÊ ĐỰC LAI HƯỚNG SỮA LẤY THỊT
I/.Giống và đặc điểm giống:
Bê đực lai hướng sữa, là những bê đực lai sinh ra giữa những bò Holstein Friesian (HF)
hoặc tinh bò Holstein Friesian (HF) phối với bò cái nền Lai Sind, tùy theo tỷ lệ máu bò HF,
ta có bò Lai HF F1, F2, F3…
Chọn những con giống tốt, thân hình cân đối, đầu cổ thanh, ngực sâu và nở, bụng gọn,
dài đòn, lông mịn, đuôi luôn cử động, lông đuôi dài, mắt tinh, dáng vóc nhanh nhẹn, mông,
vai phát triển, mình tròn hình trụ… nên biết rõ nguồn gốc và tính năng sản xuất đời bố
mẹ.
Ở các nước chăn nuôi tiên tiến, kể cả những nước đã có giống bò thịt chất lượng cao,
việc chăn nuôi và vổ béo bê đực hướng sữa lấy thịt, ngày càng phổ biến, vì năng suất,
chất lượng và hiệu quả kinh tế cao.
II/. Chuồng trại, thức ăn, nước uống:
2.1. Chuồng trại: Chuồng trại, nên có nhiều gian để phân đàn theo lứa tuổi, bảo đảm,
sạch sẽ, khô ráo, thoáng mát, dễ vệ sinh, tránh mưa tạt, gió lùa và nắng nóng, không gây
ô nhiểm môi trường, làm xa nhà và quay về hướng Đông Nam, để có ánh sáng và thông
thoáng tốt. Diện tích cho mỗi bê thịt 2,5-3,0 m2/con (cầm cột trong chuồng), 4-6m2/con (đi
lại tự do trong chuồng) chưa kể diện tích máng ăn, uống và hành lang phân phối thức ăn.
Nền chuồng làm bằng xi măng không tô láng, có độ nhám, hơi dốc 3-40 về phía có rảnh
thoát nước dẫn về hố ủ phân. Lối đi và sân vận động cho bê làm ở ngoài trời. Phân và
nước thải cần được xử lý bằng hố ủ hoặc biogas vừa tận dụng được khí đốt vừa hạn chế
ô nhiễm môi trường và lây lan dịch bệnh, cỏ dại… Định kỳ vệ sinh, sát trùng chuồng trại
và môi trường xung quanh… Máng ăn, uống (50 x 50 x 50 cm/con) làm bằng xi măng láng
gạch men, có lỗ thoát nước đảm bảo vệ sinh và tiện lợi...

2.2. Thức ăn và khẩu phần thức ăn: Thức ăn cho bê phong phú và đa dạng bao gồm
thức ăn thô xanh như rơm cỏ tươi, rơm cỏ khô, rơm cỏ ủ urea hoặc kiềm hóa, thức ăn ủ
chua, thức ăn củ quả bầu bí, phế phụ phẩm Công, Nông nghiệp, thức ăn tinh… nên người
ta phải qui ra đơn vị thức ăn (ĐVTĂ) (mỗi loại thức ăn có chỉ số ĐVTĂ khác nhau) để so
sánh thành phần, giá trị dinh dưỡng và phối hợp xây dựng khẩu phần thức ăn (KPTĂ) hợp
lý cho bê.
Trong tổng số ĐVTĂ hàng ngày (tuỳ theo giai đoạn), nên cân đối 55-80% TAHH (khoảng
1,5-2,0% thể trọng), 20-45% thức ăn thô xanh (khoảng 6-7% thể trọng) và không nên thay
đổi thức ăn và KPTĂ đột ngột, để bình ổn môi trường dạ cỏ, tạo điều kiện cho vi sinh vật
phát triển và ổn định tiêu hóa… Trong mỗi ĐVTĂ cần 80-100g Protein tiêu hóa, 9-10g Can
xi, 5-6g Phospho, 5-6g Natri.
KPTĂ hợp lý cho bê đực lai hướng sữa nuôi thịt, cần đảm bảo những nhu cầu cơ bản để
duy trì, sinh trưởng, phát triển và sản xuất thịt.
* KPTĂ cho bê sữa (giai đoạn sơ sinh đến sau cai sữa 4, 5 tháng tuổi: Chủ yếu là sữa mẹ
và thức ăn tinh thay thế sữa mẹ giàu dinh dưỡng, nhất là protein, muối, khoáng, sinh
tố…
+Tiêu chuẩn KPTĂ cơ bản cho bê sữa:


- Nhu cầu về lượng sữa: Số lượng sữa và số lần bú (bú bình) trong ngày phụ thuộc vào
tuổi bê: Số lượng sữa trong ngày, trung bình 1,5 lít cho 10 kg thể trọng; Số lần cho bú, 3-4
ngày đầu 4-5 lần/ngày, mỗi lần 1 lít; Ngày thứ 4-7: 3-4 lần/ngày, mỗi lần 1,5 lít; Tuần thứ 24: 2-3 lần/ngày, mỗi lần 2-3,0 lít; Tháng thứ 2: 2 lần/ngày, mỗi lần 4-5 lít; Tháng thứ 3: 2
lần/ngày, mỗi lần khoảng 3-4 lít, giảm dần số lượng sữa và số lần bú trong ngày, tăng dần
lượng thức ăn tinh, thức ăn thô xanh và thức ăn bổ sung khác thay thế sữa mẹ.
- Thức ăn tập ăn sớm: Muốn cai sữa sớm bê con thì phải tập cho bê con biết ăn sớm: Để
hệ vi sinh vật trong dạ cỏ của bê phát triển tốt và bê biết ăn sớm, ta phải tập cho bê ăn
sớm. Thức ăn tập cho bê con là cỏ non phơi tái hoặc cỏ khô, thức ăn tinh chất lượng tốt,
không quá nhuyễn và không có urea. Sau 3-4 ngày hoặc 1 tuần chúng ta có thể tập cho
bê con liếm láp thức ăn bằng cỏ non phơi tái hoặc cỏ khô, đến tuần thứ 2 bê con đã bắt
đầu nhấm nháp những cọng rơm, cỏ… Từ tuần thứ 2, cũng nên tập cho bê làm quen với

thức ăn tinh, nhưng phải là thức ăn tinh chất lượng tốt (thức ăn có thể thay thế sữa mẹ).
* KPTĂ cho bê nuôi thịt (giai đoạn 5, 6 tháng tuổi đến 18 hoặc 24 tháng tuổi): KPTĂ cho
bê nuôi thịt là KPTĂ tinh cao. KPTĂ tinh cao là khẩu phần có tỷ lệ thức ăn tinh 55-90%,
hiện đang được giới chăn nuôi quan tâm nhất.
Khi áp dụng KPTĂ tinh cao cần lưu ý: KPTĂ tinh cao thường thiếu khoáng đa lượng (Ca,
Na, P, S…), vi lượng (Fe, Cu, Zn, Co, Si…), vitamin A, D, E… và có thể thiếu protein do
môi trường PH dạ cỏ thấp, vi sinh vật hoạt động kém. Chính vì vậy, cần phải điều chỉnh
KPTĂ hợp lý: Năng lượng 10-11 MJ/kg; Protein 13-15% (1/3 protein có thể bổ sung bằng
Urea); Bổ sung thêm Premix khoáng dạng đá liếm, Premix sinh tố và các chất điện giải
(như sodium bicarbonate 50g/con/ngày…) nhằm, cân đối thành phần và giá trị dinh
dưỡng, cải thiện môi trường dạ cỏ, khai thác tiềm năng vi sinh vật dạ cỏ hữu hiệu nhất,
nâng cao hiệu quả chuyển hoá thức ăn. Bê sẽ hay ăn, chóng lớn, tức đạt được khối lượng
cao hơn trong cùng thời gian nuôi.
Khi sử dụng các thực liệu trong khẩu phần, nếu loại thực liệu này không có, khó kiếm hay
giá cao, có thể thay thế bằng thực liệu khác, nhưng phải thay đổi từ từ tránh làm xáo trộn
môi trường dạ cỏ và hệ vi sinh vật dạ cỏ: Các loại cỏ voi, cỏ tự nhiên, thân bắp… có giá trị
gần như nhau, nên có thể thay thế cho nhau; Rơm khô, thân bắp khô, cỏ khô có thể thay
thế cho nhau; 1 kg cỏ khô thay thế được 4-5 kg cỏ tươi; 1 kg rơm (không ủ) thay thế được
2 kg cỏ tươi; 1 kg bánh dầu bông vải bằng 750 g bánh dầu phộng; 1 kg bánh dầu phộng
bằng 2 kg bánh dầu dừa; 4,5 kg hèm bia thay thế 1 kg cám; 6,0 kg xác mì thay thế 1 kg
cám; 7,0 kg xác đậu thay thế 1 kg cám. Nếu không có TĂHH ta có thể tự trộn theo công
thức: Cám bắp 50%, cám gạo 20%, bột đậu nành 15%, bột cá10%, bột xương, bột sò 3%,
muối, khoáng 2%.
* KPTĂ vỗ béo cho bê (3 tháng trước khi xuất chuồng): Giai đoạn vỗ béo, có thể tăng
nhanh khẩu phần thức ăn tinh từ 55% lên 75% rồi 80%. Trong khoảng 15-21 ngày bê có
thể được nuôi với khẩu phần vỗ béo có tỷ lệ thức ăn tinh lên đến 80%. Khẩu phần có tỷ lệ
thức ăn tinh trên 75% được gọi là khẩu phần khởi đầu vỗ béo. Khẩu phần có tỷ lệ thức ăn
tinh trên 80% mới thực sự là khẩu phần vỗ béo. Tuy nhiên, vỗ béo với khẩu phần có tỷ lệ
thức ăn tinh trên 90% sẽ tạo ra quầy thịt có nhiều mỡ. Lợi ích của phương thức này là sức
tăng trọng nhanh và hiệu quả chuyển hoá thức ăn cao, phẩm chất thịt cao, giá nhân công

và khấu hao chuồng trại thấp…
2.3.Nước uống: Bê uống rất nhiều nước trung bình 40-50 l/ngày, nhất là khi nắng nóng
bê cao sản có thể cần trên 50 l/ngày, cho nên phải cung cấp đầy đủ nước sạch và mát
cho bê uống tự do, tốt nhất nên sử dụng nước máy, nước giếng, không nên sử dụng nước
sông, ao hồ.
III/. Chăm sóc nuôi dưỡng:
Trong kỹ thuật chăn nuôi bê thịt, thời gian nuôi và khối lượng khi giết thịt là những yếu tố


×